Saturday, May 21, 2016

Sự Tích Dân Gian Việt Nam - Sự Tích Ống Sáo "Ôi"

Sự Tích Ông Sáo “Ôi”

(Dân tộc Mường)

Ngày xửa ngày xưa, khi trời còn rất thấp - thấp đến nỗi từ những nóc nhà cao nhất có thể nhìn thấy cổng nhà trời ở một làng kia có một chàng trai săn bắn tài, làm nương giỏi; con gái trong làng ai cũng ước ao có được người chồng như chàng, nhưng chàng chẳng để ý ai cả. Chàng trai ấy tên là Khun Lồ. Khun Lồ mồ côi cha từ nhỏ. Mẹ chàng rất thương chàng. Chàng đến tuổi trưởng thành, bà thường khuyên chàng lấy vợ để cho gia đình thêm vui, nhưng chàng chỉ cười không nói. Một hôm nghe mẹ hát:

Nhà không có con dâu sớm tối

Lúa chín ngoài nương không ai đi hái.

Bắn được con tòi, con mang ngoài rẫy

Chẳng có ai nấu bát canh ngon…

Thương mẹ, Khun Lồ thú thực là từ lâu chàng đã yêu một người. Người đó có con mắt như trăng mồng năm, nhìn mãi không chán. Nước da nàng như mặt trời buổi sáng, nhúng vào chàm, chàm không nở nhuốm xanh. Váy nàng thêu, nàng dệt đẹp hơn áng cỏ non. Rượu nàng ủ thơm ngon, uống một ngụm là say và nhớ mãi.

Nghe nói, mẹ chàng đoán ra ngay là nàng U Tiệm. U Tiệm nết na nhu mì, khéo chân khéo tay, trong mường bản chẳng ai sánh kịp. Mẹ chàng rất vui mừng. Nhưng khi sực nhớ ra U Tiệm bà con nhà lang thì bà rất lo sợ. Dòng họ U Tiệm phép tắc rất nghiêm: con nhà dân mà lấy con nhà lang thì trai sẽ bị phạt vạ hàng trăm trâu bò, lại bị đuổi đi xứ khác; gái thì bị úp rổ vào mặt và bị đuổi ra khỏi nhà.

Bà nói với con:

- Thôi con ạ, nhà ta nghèo, ta nên kết bạn với người nghèo thì hơn.

Khun Lồ an ủi mẹ:

- Mẹ không lo, con cọp nó bị đuổi rừng này nó còn rừng khác để ở huống gì con người! Lấy được nàng rồi, nếu họ đuổi khỏi mường này, ta đi mường khác, đuổi mường thấp, ta lên mường cao. Ở đâu có đất có nước, ở đó sẽ có cơm có gạo.

Thấy con quả quyết, bà không nỡ nói thêm chỉ lẳng lặng thở dài. U Tiệm cũng thường nghĩ như Khun Lồ, đã nhiều lần nàng nói với chàng: bạc nén, trâu bò, nàng không màng; cha mẹ từ bỏ, nàng không sợ. Nàng chỉ sợ không lấy được chàng mà thôi. Một hôm hai người hẹn nhau ra nương cầu trời đất và các vị thần khe, thần núi giúp cho họ nên vợ nên chồng. Khi U Tiệm đã về rồi, Khun Lồ cất tiếng hát vang cả rừng xanh:

Bụng đã thương em

Tay không biết mệt

Tha hồ phát rẫy trồng bông

Tháng chín lấy cánh kiến nhuộm hồng

Nên vợ nên chồng

Nước chàm càng xanh đậm

Em ra khe tắm

Đàn bướm lượn quanh váy tưởng hoa

Tiếng hát chưa dứt, bỗng từ dưới làng vọt lên tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã. Không hiểu chuyện gì xảy ra, Khun Lồ chạy về. Đến con suối đầu làng hỏi thăm mới biết đó là con trai nhà trời kéo quân lính xuống hỏi nàng U Tiệm làm vợ. Chạ mẹ nàng đã bằng lòng gả, hiện đang giết trâu mổ lợn làm tiệc cưới luôn.

Nghe tin, Khun Lồ bàng hoàng cả người. Chàng xăm xăm chạy đến nhà nàng, quyết giành lại cho được nàng U Tiệm. Nhưng quân lính nhà trời đã dùng lưỡi mác chặn chàng lại, thế là mối tình giữa hai người đứt đoạn, không kịp nói với nhau một lời, không kịp nhìn nhau lần chót.

Thấm thoát đã mấy lần trăng tròn rồi trăng lại khuyết, hai người những chỉ nhớ thương nhau. Khun Lồ thường lên những ngọn núi cao nhất, nhìn lên các tòa ngang dãy dọc nhà trời để mong được thấy hình bóng người yêu. Còn U Tiệm thì từ ngày bị bắt lên trời suốt ngày ủ rũ. Chồng nàng đành để nàng ở một nhà riêng thật yên tĩnh. Được ở một nơi vắng vẻ, ngày nào cũng vậy, cứ chiều chiều là nàng mở cửa ngó xuống trần gian.

Một đêm trăng sáng, đang ngồi bên cửa sổ tưởng nhớ người yêu, bỗng U Tiệm nghe vọng lên tiếng hát quen thuộc của Khun Lồ từ chỗ chàng và nàng vẫn thường ngồi tình tự với nhau khi trước. Tự nhiên nàng ứa lệ, nhưng nàng cố nén xúc cảm, lau nước mắt ngó xuống tìm chàng. Bỗng tim nàng đập liên hồi: chàng đang đứng trên đỉnh núi mà ngước mắt lên nhìn trời.

U Tiệm lấy chiếc khăn thêu buộc vào ngọn cây và vít cho ngọn cây lả xuống. Khun Lồ trông thấy khăn của người yêu vụt chạy tới. Vừa lúc đó U Tiệm buông dây lưng xuống, Khun Lồ bám lấy đu lên. Gặp nàng, Khun Lồ than thở:

- Anh tưởng ông trời công bằng sẽ giúp chúng ta nên vợ nên chồng, không ngờ ông trời lại là kẻ dùng quyền thế cướp mất em của anh.

U Tiệm cũng nói:

- Ông trời ác nhưng ông trời chỉ cướp được phần xác em thôi, còn phần hồn vía em thì ông trời không cướp được đâu! Hồn em vía em vẫn là của chàng. Chàng đi ra rẫy thì hồn em đi theo, lúa của chàng bông sẽ to như đuôi trâu mộng. Chàng đặt bẫy thì vía em đi theo, bẫy của chàng sẽ được nhiều thú nhiều chim làm canh cho mẹ ăn.

Câu nói của người yêu có sức mạnh kỳ lạ. Mẹ già thấy Khun Lồ ngày càng làm việc giỏi, càng thương con xót xa trăm phần. Còn Khun Lồ thì cứ đêm đêm theo lới cũ bám lấy dây lưng do U Tiệm giòng xuống mà lên tình tự với nàng.

Nhưng câu chuyện lâu ngày khó bề giữ kín. Người chồng U Tiệm sinh nghi. Hắn nghĩ, người có ngoại tình con mắt hay long lanh và hay cười một mình. Thế rồi hắn để ý rình, rồi một đêm hắn bắt được quả tang Khun Lồ. Hắn tụ tay chém đầu chàng và sai lính đâm vào đầu chàng. U Tiệm thấy người yêu bị giết, đau đớn quá, nàng chỉ thét lên một tiếng rồi chết ngất đi, không hồi tỉnh nữa.

Khun Lồ bị giết, máu chảy xuống trần gian nhuộm đỏ khắp núi đồi, nhuộm đỏ cả rừng trúc trước cửa. Mẹ già thương con khóc vật vã suốt mấy ngày đêm. Trai gái trong làng khóc thương trước cảnh đó, cũng ra rừng trúc khóc thảm thiết. Bỗng một đêm, trăng mờ mây toả, người ta nghe ngoài rừng trúc có tiếng vi vu, lúc khoan lúc nhặt, lúc bổng lúc trầm, rung cảm lòng người một cách kỳ lạ. Gái dừng tay đặt vải, trai nghỉ việc đan lát, ông già bà cả thôi không trò chuyện. Họ lắng nghe một lúc, rồi kéo nhau ra rừng trúc để tìm nghe các tiếng kỳ lạ ấy. Đến nơi, họ thấy cây trúc thẳng tắp, ngọn chọc lên nền trời, giữa thân cây có bốn lỗ thủng, khi gió lùa vào thì bốn lỗ thủng ấy vang lên tiếng nhạc réo rắt du dương. Thấy lạ, mỗi chàng trai tìm lấy một ống trúc, khoét mấy lỗ tròn, rồi ghé miệng vào thổi. Từ những ống trúc ấy cũng vang lên tiếng nhạc, tiếng nhạc réo rắt như thương như nhớ, như giận như hờn. Các trai làng cứ thổi mãi, thổi mãi. Nghe thấy tiếng sáo kỳ lạ ấy, ông trời sợ quá, vội kéo màn trời lên, kéo mãi đến khi xa hẳn trần gian và không còn nghe thấy tiếng sáo nữa.

Từ đó, bản trên mường dưới khắp nơi vang lên tiếng nhạc. Họ đặt tên cho cái ống trúc kỳ diệu ấy là “sáo ôi”, chiếc sáo ca ngợi tình yêu chung thủy của Khun Lồ và U Tiệm, chiếc sáo nói lên những nỗi oán hờn của đôi bạn đối với kẻ đã chia rẽ tình yêu, đến cả trời cao kia cũng phải sợ.

No comments:

Post a Comment