Monday, March 31, 2014

Ngày 31-3-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Giảm thiểu tham dục như thế nào?

Hỏi: Giảm thiểu tham dục như thế nào?

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 12-3-2014, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Hàng ngày chúng ta nghe được nhiều tin tức nói về những con người vì họ quá tham một cái gì đó mà dẫn đến chỗ ngoại vong, dẫn đến chỗ thân bại danh liệt, dẫn đến chỗ rất là bi đát ở chung cuộc đoạn đời của họ, tại vì họ có quá nhiều sự tham lam. Đó là hình ảnh lớn để chúng ta nghiệm thấy rằng cái tham nếu chúng ta không có hiểu và không kềm chế thì nó dẫn chúng ta đến những cuộc phiêu lưu rất nguy hiểm cho cuộc sống.

Chúng ta cũng có một phạm trù khác để nói về tham, đó là, ở trong cuộc sống này cái gì chúng ta dính mắc, cái gì mà chúng ta bị ràng buộc nhiều thì cái đó là khổ, cho dù đó là tài sản, địa vị, chùa chiền, hay bất cứ điều gì hễ dính mắc thì chúng ta có khổ. Thì đó cũng là phạm trù mà chúng ta có thể suy nghĩ. 

Nhưng mà, có một bài học rất lợi ích liên quan đến sự thực hành là, ở trong kinh dạy rằng tâm tham thì luôn luôn đuổi bắt, ham muốn, truy cầu, thì mình dùng định tâm để làm giảm sự ham muốn sự truy cầu. Định tức là tập trung một chỗ, tập trú vào hiện tại. Nếu đời sống chúng ta lúc nào cũng tham, lúc nào cũng mơ mộng thì chúng ta thường không để tâm vào hiện tại được. Đây là một bi kịch của cuộc sống chúng ta. Có nhiều người suốt cuộc đời đi theo một mục đích gì đó nhưng mà cuối cùng nhìn lại thì thấy rằng ngay cả cái mình có mình cũng không hưởng được.

Nếu qúi vị nào sống tại Hoa Kỳ, thường nghe nói "American Dream - Giấc mơ của người Hoa kỳ". Giấc mơ đó là làm việc thật nhiều, họ có quyền theo đuổi các mục tiêu của họ trong cuộc sống qua sự làm việc siêng năng và tự ý chọn lựa. Một người có thể đặt ra chỉ tiêu cao nhất của họ là đạt được thành công về tài chánh, và vì thế họ nỗ lực để đạt được điều đó theo kiểu cách rất Mỹ bằng khả năng hơn mình. Nhưng mà, rồi vì làm việc nhiều nên không có thì giờ bên nhau, để hiểu nhau, và đưa đến vợ chồng ly dị, sức khỏe thì cạn kiệt. Khi đến tuổi già mình có một số tiền và mình không biết là mình đã đánh mất cái qúi nhất của đời sống đó là gia đình, đó là tuổi xuân, đó là sức khỏe. 

Thì chúng ta nhận ra một sự việc là tham có một phạm trù tương đối là nằm kế bên chúng ta. Chúng ta nhận diện nó và chúng ta hướng tâm về hiện tại. Thí dụ, hôm nay mở cửa sổ ra có mặt trời có nắng đẹp, bước ra bên ngoài mình sống hoà nhập trọn vẹn với hiện tại. Chúng tôi nói chuyện này qúi vị cảm thấy lạ lắm tại vì khi nghe nói bài học ly tham tức là bài học đó mình không được ham muốn cái gì hết, nhưng kỳ thật chúng ta nên nhớ rằng tâm tham là tâm rượt đuổi, tâm đuổi bắt mà tâm tham thường không cho phép chúng ta sống với hiện tại, và chính tâm định giảm thiểu lòng tham, định tức là tập trung vào hiện tại. 

Chúng tôi vẫn thường ngồi xuống tụng vài trang kinh và cảm được lời Phật dạy. Thì thay vì mình ngồi xuống mơ chuyện này mình tính chuyện kia thì mình đặt trọn vẹn tâm tư để tụng một trang kinh với tâm định thì cái đó cũng là một cái đẹp. Do đó bài học về tâm tham là bài học lớn là bài học mà Đức Phật Ngài dạy rằng chính cái ham muốn sanh lo sợ, ham muốn sanh sầu muộn, đó là bài học lớn đối với tất cả hành giả tu tập ./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Trong đời sống hàng ngày của chúng ta những phiền não nào chưa sanh khởi, và nó sẽ có cơ hội sanh khởi trong tương lai, chúng ta thấy rõ nguyên nhân sanh khởi đó, ngay từ buổi đầu ở góc độ này chúng ta cần phải né tránh nó đi, còn như đối với thiện pháp, những phận sự, những trách nhiệm thi` điều này chúng ta không cần phải né tránh, chúng ta vẫn đương đầu để làm, để thực hiện thi` như vậy thưa quí vị. Đối với ác pháp chúng ta cần phải né tránh, vi` ác pháp coi như là những pháp bất thiện, những pháp đưa đến sự tai hại.

Có những người quan niệm rằng nếu không đối đầu với phiền não thi` làm sao có thể giác ngộ được, họ cho rằng phiền não tức cảnh bồ đề, họ nói như thế họ không nghĩ đến chiều sâu và y' nghĩa thật của câu này : "Phiền não tức bồ đề" ở đây tức là những cảnh khổ đau, phiền lụy, những cảnh khổ đau phiền lụy nếu chúng ta biết khéo tác y', khi chúng ta đối đầu với nó, tự nhiên chính đó là cảnh đối tượng để giúp cho phát triển tâm thiện hay phát triển sự tu tập. Co`n khi nói đến tất cả sự phiền não đều là cảnh của bồ đề, tức là cảnh của sự giác ngộ, rồi chúng ta đi ti`m kiếm nó, thi` chắc chắn đây là một điều không tốt đẹp, nó sẽ đưa đến sự tai hại cho chúng ta. Bởi vậy cho nên né tránh các ác pháp, người biết né tránh các ác pháp như vậy mới đáng gọi là bậc mâu ni, hay là bậc ẩn sĩ .

TTTuệ Siêu - Có những im lặng không phải là vàng - Minh Hạnh chuyển biên

Góp Nhặt Cát Đá - Cô bé và cái hộp


Có một người cha nghèo đã quở mắng đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà màu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một chiếc hộp giấy. Sáng sớm hôm sau, cô bé mang chiếc hộp đến và nói với cha: “Con tặng cha”.

Người cha cảm thấy bối rối vì cơn giận dữ của mình hôm trước nhưng rồi cơn giận dữ lại bùng lên khi ông mở ra thấy cái hộp trống rỗng. Ông mắng đứa con gái. Cô bé ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng: “Cha ơi, đó đâu phải là chiếc hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn để tặng cha mà!”

Người cha giật mình. Ông vòng tay ôm lấy cô con gái bé nhỏ cầu xin con tha thứ.

Ðứa con gái nhỏ sau đó không bao lâu qua đời trong một tai nạn. Nhiều năm sau người cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp giấy bên cạnh mình. Mỗi khi gặp chuyện nản lòng, ông lấy ra một nụ hôn tưởng tượng và nghĩ đến tình yêu mà cô con gái bé bỏng của ông dã thổi vào chiếc hộp.

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

ĂN LỜI TRÁCH MẮNG

Một hôm vì xảy ra nhiều tình huống bất thường làm trễ việc sửa soạn bữa ăn tối cho thiền sư Soto, là Ngài Fugai và các thiền sinh của ông. Trong sự vội vã người nấu ăn đi ra vườn với con dao lưỡi cong của anh ta và cắt những ngọn rau xanh, thái nhỏ rau ra với nhau, và nấu canh, không hay biết rằng trong lúc vội vã y đã cắt luôn một phần của một con rắn trong rau.

Đám thiền sinh của Fugai cho rằng họ chưa bao giờ được thưởng thức món canh ngon như vậy. Nhưng đến khi chính vị thiền sư nhìn thấy được cái đầu rắn trong bát của ông, ông liền cho gọi người nấu ăn đến. "Đây là cái gì vậy?" ông cầm cái đầu rắn giơ cao lên mà hỏi.

"Ô, thưa Sư Phụ, xin cám ơn Sư Phụ," người nấu ăn trả lời, cầm lấy miếng đó và ăn nó ngay tức thì

Chuyện Xưa Tích Cũ - CON TRÂU BAY

CON TRÂU BAY
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Có anh nông phu nọ mua được một con trâu tơ mười hai đồng bạc, đem về cày ruộng. Trâu mạnh khỏe, dai sức lắm.

Đêm ngủ, anh ta nằm chiêm bao thấy trâu nọ mọc hai cái cánh bên hông, bay bổng đi mất. Lúc thức dậy anh ta nghĩ rằng: “Đó là điềm bất lành. Mình phải bán con trâu này. Không thì nó cũng mất.”

Hôm sau anh dắt trâu ra chợ, bán được sáu đồng bạc. Bèn lấy dây thắt lưng buộc số tiền ấy lại.

Đến nửa đường, anh thấy một con chim lớn đang đứng mổ vào xác con chuột chết. Lại gần thử xem, thì chim nọ dạn dĩ, không bay. Anh vồ con chim nọ, dùng dây thắt lưng buộc vào chân chim.

Đi được một lát, chim nọ vùng vẫy, mổ vào tay đau điếng. Vô ý anh buông con chim ra. Chim bay bổng, mang theo cái thắt lưng buộc bạc.

Về tới nhà, vợ hỏi: -Con trâu đâu?

Anh thở dài: -Nó bay mất rồi! …

Chuyện cười trong ngày

Đồng cảm

Gia đình nọ có bà mẹ ghê gớm, áp đặt lên cậu con trai từ chuyện học hành tới tình cảm riêng tư. Con giun xéo lắm cũng oằn, một hôm giữa bữa ăn, cậu buông đũa đứng dậy:

- Con không thể chịu nổi mẹ nữa, con sẽ ra đi.

Ông bố thấy thế vội lớn tiếng:

- Thằng kia....

- Bố đừng cản con!

- Không. Cho tao theo với.

Sunday, March 30, 2014

Ngày 30-3-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Xả ly không dính mắc là gì?

Hỏi: Xả ly không dính mắc là gì?

(Thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, Minh Hạnh chuyển biên)

TTGiác Đẳng: Xả ly không dính mắc, là không dính mắc bất cứ một điểm nào hết. Về điểm này là một điểm rất tế nhị được đề cập đến trong Phật pháp, nhưng đặc biệt đối với những vị hành thiền khi tâm có một dính mắc, một cái gì khiến cho chúng ta không thể buông bỏ được, thì ở tại đó tâm của chúng ta chênh vênh. Nói một cách khác là cái gì đến được thì phải đi được, cái gì nhấc lên thì phải bỏ xuống được. 

Tiếng Anh có chữ "let it go." Let it go là nếu ngày hôm nay chúng ta đi đến một buổi hội chợ, buổi hội chợ rất là vui, rất huyên náo, rồi chúng ta trở về cứ luyến tiếc và mơ ước là làm sao mỗi ngày đều có hội chợ như vậy, khi người ta cho biết là hội chợ không còn tổ chức nữa thì chúng ta cảm thấy rất buồn, điều đó có nghĩa là chúng ta không thể để những thứ đó ra đi mà không có một sự dính mắc. 

Những điều dính mắc này Ngài Ajahn Liam Ngài thường ví dụ như một người đi đường nhìn thấy những tảng đá rồi thích những tảng đá cứ nhặt lên bỏ vào trong túi của mình lâu ngày trĩu nặng trên đôi vai, không phải chỉ có những viên sỏi, những khối đá nhỏ mà có khi cả tảng đá lớn chúng ta cũng vác trên vai nữa, nhưng chúng ta thường làm vậy ở trong cuộc đời này, ít có khi nào chúng ta chịu đặt nó xuống. Một vị thiền sư được mời sang thăm viếng Âu Châu trong lúc đi trên xe lửa thì vị này lại nói một thí dụ; với một người không có thiền định họ giống như một người lên xe lửa mà tay vẫn còn cầm cái vali nặng không chịu buông xuống, bởi vì nếu chúng ta để vali xuống thì chúng ta và cái vali đó cũng sẽ đến nơi đến chốn, còn nếu chúng ta cầm trên tay thì cái vali đó dĩ nhiên cũng theo chúng ta đến nơi đến chốn, nhưng chúng phải mệt mỏi phải bận tay và phải vất vả hơn nhiều là vì phải cầm cái vali đó suốt cuộc hành trình. Và Ngài nói  "hãy đặt cái vali đó xuống." Ở đây nó không tạo cho chúng ta một cảm giác là nghèo nàn hay một cảm giác chúng ta rời xa cái mình thích, mà nó cho chúng ta một cảm giác thật sự thanh thản là tại vì chúng ta không cố nắm lấy nó.

Chúng tôi nhớ hồi còn nhỏ, có đôi lúc nhìn thấy trẻ em chơi một món đồ chơi gì đó khi đi ngủ vẫn còn nắm ở trong tay không chịu buông ra, và ngay cả buổi tối khi đi ngủ thì vẫn cố nắm giữ với tâm tư sợ ai sẽ lấy đi món đồ chơi của mình.

 Nói tóm lại, khi tâm không chịu xả ly một cái gì đó thì chúng ta gặp một vấn đề là hầu hết tất cả năng lực tâm trí đều hướng về một chỗ, lệ thuộc vào một chỗ, và vì vậy nó không thể còn có năng lực để cho những thứ khác được. Thì trước nhất những người có trí tuệ ở trong cuộc đời này thì biết thế nào là phải buông những vật mà mình đã nhấc lên, và thế nào là bỏ những vật mà mình đã núm níu lại. Hễ cái gì đến được thì cái đó phải đi được thì như vậy gọi là hạnh xả ly "cajanti".

Thì người hiền nhân đối với cái vui cái khổ không giao động nhiều. Đức Phật không chỉ nói đến sự khổ mà Ngài nói cả cái vui, hễ đối với cái vui mà chúng ta càng đam mê mãnh liệt chừng nào thì tới khi gặp cái khổ chúng ta lại da diết chừng đó. Nói một cách khác là trước những lời khen mà chúng ta càng cảm thấy sung sướng thì đối với lời chê bai người khác dành cho mình thì càng bị chấn động mãnh liệt về đời sống nội tại. Bởi vì chúng ta đã để cho tâm của chúng ta bị chi phối bởi lời khen thì không có lý do gì đối với tiếng chê của người khác mà chúng ta giữ tâm bình thản được hết. Do vậy người ta tìm một sự quân bình rất đáng kể.

Thật ra chữ xả mà người ta hiểu thông thường đó là sự bỏ ra. Thí dụ như người ta hiểu từ bi hỉ xả, xả ở đây tức là tha thứ, xả ở đây tức là không chấp vào cái lỗi của chúng sanh. Và có nhiều người hiểu chữ xả có nghĩa là sự thản nhiên. Nhưng chữ xả chữ "upekkha" trong đạo Phật thật sự thì có nghĩa là quân bình, ở trong sớ giải chú giải rằng; giống như một người đánh xe song mã tức là một chiếc xe hai con ngựa, thì nếu con ngựa này chạy trước con ngựa kia, con ngựa này chạy nhanh hơn con ngựa kia thì chiếc xe không thể đi được, mà hai con ngựa phải song hành, kể cả vị trí trước sau và kể cả vận tốc. Thì sự song hành như vậy mới dẫn tới được. Thì tâm hành xả nó có thể không phải là một trạng thái thản nhiên, mà tâm hành xả đó là tâm biết quân bình. Ví dụ như trường hợp khi chúng ta vui thì chúng ta cũng hiểu rằng vui thế nào là vừa phải, không có quá đáng, không có hỉ hả đến độ mà đến khi chuyện khác ngược lại xảy ra thì làm cho chúng ta phản ứng hết sức là sầu khổ. Người ta có thể khen mình một câu và qúi vị có thể cảm thấy vui lòng, cái chuyện đó cũng không làm chết ai hết. Nhưng đừng quá nặng về lời khen của người khác, bởi vì nếu qúi vị xem quá trọng lời khen của người khác thì qúi vị sẽ hết sức là nhạy cảm đối với lời chê của người khác, và như vậy chúng ta không giữ được sự quân bình. Và cái quân bình đó đúng là nghĩa của chữ upekkha.

Nghĩa là không có để cho tâm tư của mình lên cao hay xuống thấp. Lên cao xuống thấp ở đây là nó tương tự như một chiếc lá ở giữa cơn sóng, sóng có thể đưa mình lên cao hay đưa mình xuống thấp. Con người của chúng ta có những ngày thấy rằng thiên hạ đưa mình lên tận mây xanh, và có những ngày thì họ nhận mình xuống tận dưới bùn. Nhưng nghĩ cho cùng thì lên cao xuống thấp đó là tại vì chúng ta để cho cuộc đời đưa chúng ta lên và  để cuộc đời nhận chìm chúng ta xuống bằng cách là chúng ta mất đi sự an nhiên tự tại của mình. Nếu chúng ta an nhiên tự tại thì một trong những điều lợi là chúng ta sẽ không có cảnh ba chìm bảy nổi, không có cảnh thăng trầm của đời sống nội tại và chúng ta tiếp tục đi tới, chỉ có những người nào tâm hồn tương đối quân bình không có nhiều chìm nổi thì người đó mới có thể đi tới.

Đối với một người dính mắc một điều gì thì do sự dính mắc đó họ trở nên không thoả mãn, đó là dấu hiệu của sự không thoả mãn. Nếu họ đã thoả mãn thì họ đã không dính mắc, sự dính mắc là dấu hiệu của một đời sống không có thoả mãn, và bởi vì không thoả mãn nó sẽ dẫn đến một biểu lộ của cái không thoả mãn này. Với một người thiện trí thì một hình ảnh ngược lại là, người thiện trí biết an nhiên tại vì họ hiểu được giá trị của sự quân bình, và bởi vì họ hiểu được giá trị quân bình nên đối với cái vui và cái khổ ở trong cuộc đời họ sẽ không để tâm tư của họ bị chi phối thái quá. Không quá vui và không quá khổ. Chúng ta không để tâm của chúng ta cười mà cười đến như điên cười đến mất tự chủ, và khóc đến đỗi không ai có thể dỗ mình nín được. Bởi vì chúng ta đánh mất đi cái khả năng quân bình của mình. Điều này cũng nhắc cho chúng ta một việc khác nữa là ở đây không có nghĩa là chúng ta phải lãnh đạm với tất cả, nhưng chúng ta không có quá đáng, không đi vào cực đoan. Chúng ta có thể vui vì những chuyện hài lòng và không vui vì chuyện hài lòng của cuộc sống, nhưng cái vui và cái không vui này cũng nên có chừng mực, nếu chúng ta vui mà quá chừng mực quá mức độ cho phép thì khi chúng ta buồn thì chúng ta cũng không tự chủ được./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Ai trong chúng ta đi vào trong cuộc đời cũng mong rằng mình bước lên những nấc thang của xã hội, và mình được trở thành con người thế này và con người như thế khác, trong lúc chúng ta quên rằng những điều đó sẽ dẫn chúng ta trả một cái giá quá lớn. Cái giá lớn nhất không phải là chúng ta bị đưa đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã, mà giá quá lớn là chúng ta phải khổ sở với nó nhiều hơn và chúng ta cứ dùng những điều đó như là cái "được". Nhưng trong Đạo Phật nói là cái đó không phải là cái được mà cái đó là cái "khổ."

TT Giác Đẳng - Phẩm Phẫn nộ - Minh Hạnh chuyển biên

Góp Nhặt Cát Đá - Hy vọng là gì?


TT Giác Đẳng: Đời sống của chúng ta có thể nói rằng phần lớn hạnh phúc nằm ở trên dự kiến về tương lai, ngày mai này mình có đủ lý do để tin tưởng rằng tương lai của mình sẽ tốt hơn, rạng rỡ hơn, có nhiều hứa hẹn hơn. Thì chính điềm này cho chúng ta năng lực để sống.  Có những người sống trong điều kiện rất cực khổ, họ có thể là một người thiếu phụ sống bên nhà chồng giữa những người xa lạ và chịu đựng trăm cay ngàn đắng, lấy nước mắt chan cơm. Nhưng khi bồng đứa con trong tay của mình rồi thì người đó chợt nghĩ đến là mình làm thế nào để con lớn lên, đời sống mình sẽ khá hơn, tất cả niềm hy vọng đặt ở đứa con của mình và họ đã sống vì đứa con của mình. Và nàng thiếu phụ đó có thể chịu đựng được một sự chịu đựng, có thể đối với phần lớn những phụ nữ thời này là những sự chịu đựng phi thường, chịu đựng trong nhiều năm như vậy tại vì người đó sống bằng hy vọng.


Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

TÁNH TÒ MÒ

Vào lúc xưa có một ông lão sống tại đỉnh của một vách núi rất cao và nguy hiểm. Mỗi buổi sáng ông thường ngồi tại bờ núi và nhìn ngắm quang cảnh chung quanh núi rừng. Một ngày kia, sau khi ông ngồi an toạ cho buổi thiền định thông thường, ông nhận biết có một vật gì chiếu sáng tại đáy của vách núi. Lúc đó mặc dù nghĩ rằng vật đó ở bên dưới mình rất xa, ông lão có cặp mắt sắc sảo và có thể chỉ vừa đủ nhận ra nó là cái gì. Nó trông có vẻ giống như khá lớn, cái rương màu đen với những đường viền vàng, đặt ngay trên mặt của một tảng đá. Ông lão nhủ thầm, "Nó từ đâu đến? Cái gì có thể ở bên trong?"

Chuyện Xưa Tích Cũ - NGƯỜI CHỒNG BẤT NGHĨA

NGƯỜI CHỒNG BẤT NGHĨA
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình


Đời nhà Đường, người Tàu đến ở thành Đại La (Hà Nội) rất đông.

Quan Tàu thấy một thiếu nữ Việt Nam tên Liên Anh có nhan sắc nết na bèn cưới cho con trai của mình.

Về nhà sống chung với cậu công tử nọ, Liên Anh tỏ ra đảm đương, hiền hậu. Đôi vợ chồng trẻ năm sau có đứa con trai đầu lòng.

Hai năm qua, đời sống gia đình họ rất hạnh phúc.

Nhưng bỗng đâu có người bạn học cũ tới thăm. Anh chồng bèn thết tiệc linh đình cùng với vài vị quan Tàu khác. Buổi tiệc sắp đặt tại vườn hoa.

Họ uống rượu rất nhiều. Chừng ai nấy ngà ngà say, người bạn nọ có ý nghĩ trớ trêu: -Bần cùng mới biết hiếu tử. Nước loạn mới rõ tôi trung. Có gặp sự cám dỗ, ve vãn của bạn bè, mình mới biết vợ mình có thiệt lòng yêu mình không?

Anh chàng nọ gật đầu: -Phải! Phải lắm. Như vợ tôi đây thương tôi lắm. Ngặt chưa bạn bè nào tới cám dỗ để tôi dò xét thử …

Người bạn rót rượu thêm: -Vậy thì ông nên cho phép anh em ở đây tới cám dỗ thử. Nếu không xong thì rõ ràng là người đàn bà tốt.

Anh chồng nọ say rượu không kịp nghĩ suy bèn cho phép bạn bè tới ve vãn vợ mình.

Nàng Liên Anh đang ngồi trong phòng the ru con ngủ. Bỗng nhiên một vị quan trai trẻ đến, buông lời đường mật.

Nàng từ khước đuổi ra.

Lại một vị khác bước vào, buông ra bao nhiêu là giọng kèn tiếng uyển 1. Nàng Liên Anh không đồng ý. Lại có vị quan thứ ba, thứ tư bước vào.

Sau cùng nàng Liên Anh nhìn đứa con trai mà khóc: -Hồi nào đến giờ, mẹ là người nết na đoan trang. Nay bỗng dưng nhiều người tới đây toan làm điều bất nhã. Chắc mẹ có sơ sót điều gì về hạnh kiểm nên thiên hạ mới suồng sã như vậy. Hay là họ khinh khi người đàn bà Việt Nam không biết giữ lòng chung thủy?

Nàng thắt cổ tự tử.

Sau đó quan trên điều tra chuyện này, ra lệnh xử tử người chồng nàng Liên Anh. Chính hắn mới là chánh phạm trong vụ giết người vợ hiền.
--------------------------------
1 Trong sách viết sai chữ quyển, phải là uyển mới đúng.

Chuyện cười trong ngày

Tỉnh táo

Vừa xong bữa nhậu đầu năm với bạn bè, anh chồng ngất ngư đi về nhà. Để vợ không đoán được là mình uống rượu quá mức, anh ta quyết định đi thẳng vào phòng và ngồi đọc sách, hy vọng vợ trông thấy sẽ nghĩ là mình tỉnh táo...Vài phút sau, cô vợ vào và hỏi:

- Anh đang làm gì vậy?

- Đọc sách.

- Vợ anh ta thét lên: Đồ điên! Đóng vali lại và ngủ đi!

Saturday, March 29, 2014

Ngaà 29-3-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Chúng ta làm thế nào để thay đổi cái nhìn của nhiều Phật tử Việt Nam là những "tu sĩ nghèo" là kém tài, thiếu phước?

Hỏi: Chúng ta làm thế nào để thay đổi cái nhìn của nhiều Phật tử Việt Nam là những "tu sĩ nghèo" là kém tài, thiếu phước? 

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 21-2-2014, Minh Hạnh chuyển biên

TT Tuệ Siêu: Có những người Phật tử bây giờ có cái nhìn đối với vị tu sĩ nghèo, nhất là những vị tu sĩ như là sống đời sống thiếu thốn không phát sanh lợi lộc nhiều và ăn mặc bần hàn rách rướm họ cho rằng như vậy là vị này bất tài thiếu phước. 

Nhưng mà, điều đó đúng hay sai, và chúng ta làm thế nào để thay đổi cái nhìn của những người Phật tử này.

Ở đây, thật ra thì cũng không phải là họ nhìn như vậy là sai hoàn toàn. Trước hết là chúng tôi nói tại sao cái nhìn của họ cũng có thể là đúng. 

Nếu vào thời Đức Phật, những vị  Tỳ Kheo đầu đà hoặc là những vị Tỳ Kheo sống viễn ly, tri túc thị dục với hạnh thanh bạch và ý tưởng quyết chứng đạt quả vị Alahan, cuộc sống thanh bạch là hạnh tỳ kheo thời Đức Phật trông nghèo nàn thì điều đó nếu một người cư sĩ nhìn thấy họ cho rằng những vị  tu sĩ họ nghèo nàn là tại thiếu phước là sai. Còn thời nay, tìm hiểu vị tỳ kheo mà nghèo nàn thanh hạnh do sự tri túc thì khó tìm. Ngày nay một số những vị đều có ý thích có được lợi lộc có được danh phận nhưng mà khổ nỗi là các vị không có khả năng các vị đó không có thể là vị tỳ kheo thông suốt kinh điển để có thể hoằng pháp hay là một vị trụ trì một ngôi chùa hay là một vị giảng sư của hội chúng v.v... đủ khả năng, vị đó xuất gia dần dần bị quên lãng vị này có đời sống thiếu thốn thì trong trường hợp này những người Phật tử thời nay khi họ nhìn thấy như vậy thì họ nói rằng những vị tu sĩ nghèo đó là những vị tại  thiếu phước, nói như vậy không phải là họ nói sai, họ nói đúng mà đúng với thời bây giờ.

 Do vậy, chúng ta không thể làm gì để thay đổi cái nhìn của người Phật tử. Bởi vì nếu chúng ta thay đổi cách nhìn như vậy là chúng ta khuyến khích những vị tu sĩ không siêng năng, không có trí tuệ học Pháp, không phải là bậc đa văn cột trụ rườn cột của giáo pháp cũng không có công hạnh tu tập gì. Chẳng lẽ chúng ta khuyến khích những người cư sĩ đi đến đảnh lễ cúng dường cho các vị đó, như vậy làm cho người Phật tử họ bị mất phước cúng dường họ chỉ được ít phước thôi. Hoặc là không chừng khi chúng ta đã thay đổi cái nhìn của họ khiến cho những người Phật tử này thấy thành phần Tăng sĩ không có trí tuệ  sẽ làm yếu kém Phật Giáo và nếu nuôi dưỡng nâng đỡ giúp đỡ họ thì thời gian sau đó họ sẽ rơi vào mai một.

Cho nên chúng tôi nghĩ rằng; chúng ta chỉ giải thích cho những người Phật tử như thế nào là một vị tỳ kheo trung thực chân chánh ở trong Phật Giáo, thế nào là một vị tỳ kheo sống thiểu dục tri túc để cho họ biết họ nhận định một cách chính xác một vị Tỳ Kheo chân chánh họ gặp được để họ không bị nhầm lẫn. Chứ còn nếu mà gặp những vị tu sĩ đi lang thang rồi Phật tử cứ nghe nói rằng những vị Tỳ Kheo rách rướt lang thang như thế này có lẽ là những vị đó sống thanh hạnh rồi cùng nhau cúng dường thì những vị tu sĩ đó được cái đà các vị đó mạn tăng trưởng và không chịu tu tập để thăng tiến. Thì trong trường hợp này chí nguy.

Chúng tôi qua những năm tháng tu tập giữa Tăng chúng, chúng tôi cũng gặp rất nhiều những vị như vậy, cho nên quan niệm của chúng tôi là những vị Tăng sĩ không cần phải giàu có sung túc có chùa to Phật lớn nhưng miễn là trong những phút trò chuyện trao đổi đôi ba câu pháp mà vị đó tỏ ra thông tuệ hiểu được kinh điển và có chánh tri kiến thì lúc bấy giờ thì cho dù vị Tăng sĩ này bên ngoài có vẻ là nghèo nhưng chúng tôi rất là trân trọng chúng tôi khuyến khích cho những người Phật tử cúng dường cho các vị đó. Còn đối với những vị mới xuất gia xong không học Pháp, vì số tu sĩ ở tại Việt Nam phần lớn chúng tôi biết được đôi khi khi gặp các vị này lang thang như vậy thì chúng tôi chỉ nhìn bằng tâm xả, nhưng nếu như Phật tử có đến hỏi chúng tôi là những vị này đáng được cúng dường hộ độ hay không thì lúc bấy giờ chúng tôi sẽ giải thích cho họ. Bởi vì ở đây chúng ta vừa phải có tâm từ bi mà vừa phải có tâm kính trọng Giáo Pháp muốn nâng đỡ Giáo Pháp thì không nên vẽ vời thêm nhiều cái cột bị mối mọt như thế. Vấn đề này cũng khó lắm.

 Cho nên, để làm được công việc thay đổi cái nhìn của người Phật tử Việt Nam cho rằng những tu sĩ nghèo là thiếu phước thì trong trường hợp này chúng ta phải giải thích phải nhắc nhở cho họ nghe về hạnh tu thiểu dục tri túc thật sự của vị tỳ kheo hiểu Phật Pháp và đồng thời chúng ta phải biết rõ những vị đó vẻ bề ngoài thanh thản thiểu dục là do tri túc hay là kém tài thiếu phước ./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Mình làm việc gì khéo hay không khéo nằm ở chỗ là mình biết chú ý cái gì, chú ý tới đâu. Giả sử như trong đời sống của chúng ta cứ ngồi để lo chuyện thiên hạ, thích nói chuyện người này thế này người kia thế khác, gọi là thích phiếm luận, thích bàn về người này hay, người kia dở, lỗi lầm người này, lỗi lầm người kia. Trong lúc đó chúng ta thay vì thì giờ mình nói chuyện người khác thì mình nên đem sự chú ý đó vào thân và tâm của mình, coi mình có phiền não hay không, và xem mình có ưu điểm gì nhược điểm gì. Đời sống mỗi người đều có 24 giờ, mọi người đều có thời gian giống nhau nhưng có những người sống 24 giờ có lợi ích, còn có những người sống 24 giờ họ sống một cách rất là hoan phí.

TT Giác Đẳng - Kinh Tứ Niệm Xứ - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

BẮT GIỮ ÔNG PHẬT ĐÁ

Một người lái buôn mang năm mươi cuộn hàng bông gòn trên vai dừng chân lại nghỉ để tránh cái nóng ban ngày dưới một cái chòi ở đó có đặt một tượng Phật lớn bằng đá. Tại đó ông ngủ thiếp đi, và khi ông tỉnh giấc thì hàng hóa của ông đã biến mất. Ông lập tức trình sự việc cho cảnh sát.
Một quan tòa tên là O-oka mở phiên tòa để cứu xét. "Ông Phật bằng đá đó có thể đã lấy trộm số hàng hóa," quan tòa kết luận. "Ông ta chính ra phải chăm lo hạnh phúc của người dân, nhưng ông đã không hoàn thành nhiệm vụ thánh thiện của ông. Hãy bắt giữ ông ấy."
Cảnh sát bắt giữ ông Phật bằng đá và khiêng tượng vào trong tòa án. Một đám đông huyên náo theo sau pho tượng, tò mò muốn biết điều gì vị quan tòa sẽ tuyên xử.
Khi O-oka ra hiện diện trên ghế quan toà ông quở trách những thính giả huyên náo. "Các ngươi có quyền gì mà ở trước tòa án cười cợt và đùa giỡn như thế? Các ngươi phạm tội khinh thường tòa án nên phải phạt tiền và tù giam."
Mọi người vội vàng xin lỗi. "Ta sẽ phải phạt các ngươi một khoản tiền," quan tòa nói, "nhưng ta sẽ khoan hồng khoản đó mỗi người trong đám các ngươi phải mang một cuộn bông gòn đến nạp tòa trong hạn ba ngày. Ai không thi hành lệnh này sẽ bị bắt giữ."
Một trong những cuộn bông gòn mà người dân mang tới liền ngay tức khắc được ông lái buôn nhận ra là của ông, và do đó tên kẻ trộm đã bị khám phá ra một cách dễ dàng. Ông lái buôn thâu hồi lại hàng hóa của ông ta và các cuộn bông gòn được trả lại cho dân chúng.

Góp Nhặt Cát Đá - Cô bé và con ve



Cô bé và con ve

Cô bé bắt được chú ve và định vặt chân ve. Bố cô bé liền bảo:
- Đây chính là con ve mà vẫn ca hát mỗi sáng mai đấy.
Cô bé nhớ lại những khúc hát của ve sầu bèn thả ve ra


Chuyện Xưa Tích Cũ - CÂY MẮC CỠ

CÂY MẮC CỠ
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Ngày xưa, có một cô gái rất đẹp. Xóm làng ai cũng trầm trồ khen ngợi. Cô nàng tên là Trinh, hình vóc mảnh mai, tướng đi yêu điệu. Đặc biệt cô có đôi mắt đen huyền che khuất sau đôi hàng lông nheo vừa dài, vừa sậm.

Hàng ngày cô Trinh phải buôn tảo bán tần, gánh rau ra chợ bán để nuôi mẹ già, em dại. Hễ gặp cậu trai nào dòm ngó, cô luôn luôn e thẹn cúi đầu. Hai hàng lông nheo sụp xuống che khuất đôi mắt.

Đã có sắc đẹp lại có hạnh kiểm tốt ai mà không yêu! 

Trong xóm có cậu công tử nọ tên Xinh. Cậu Xinh đem lòng yêu mến cô Trinh, mỗi ngày đón đường để mong thốt với cô vài lời tâm sự. Cô Trinh từ chối: -Trăm sự, phải nhờ sự ưng thuận của mẹ tôi ở nhà.

Nhuốm bệnh tương tư, một hôm cậu Xinh đi tò tò sau lưng cô mà trộm ngắm. Thừa lúc vô ý, cậu chạy lại nắm tay cô. Cô nói: -Cậu đừng làm vậy mà thất giáo. Tôi đây thà chết chớ không bao giờ để hoen ố …

Bệnh tương tư của cậu Xinh ngày càng thêm trầm trọng. Ông bá hộ, cha của cậu, biết rằng con trai mình lớn tuổi, cần phải cưới vợ. Ông tìm nơi môn đăng hộ đối để định gia thất cho con.

Cậu Xinh không giải được cơn sầu. Phải chi cô Trinh là con nhà giàu có thì cậu cưới được. Ngặt cô rất nghèo khó. Sống với người vợ không vừa ý, cậu vô cùng phẫn chí, đi tới đi lui như xác không hồn.

Sau đó cậu đi học phương xa.

Thời gian thấm thoát không biết mấy thu qua xuân lại rồi mà hình ảnh cô Trinh vẫn còn ghi trong tâm não của cậu. Một hôm trở về làng cũ, cậu Xinh đi thẩn thờ ra sau vườn mé sông.

Bỗng nhiên, từ trong bụi rậm, cô Trinh bước ra. Cậu đứng nhìn, kìa cô Trinh cất tiếng hát, giọng trong trẻo, mê ly lạ thường. Chợt thấy câu, cô Trinh run rẩy, day mặt lại toan chạy trốn. Cậu Xinh vội nắm tay cô rồi ôm vóc ngọc vào lòng. Rõ ràng là đôi mắt đen huyền ngày xưa khuất sau hai hàng lông nheo dài sậm. Cậu cúi mặt xuống để hôn. Nhưng hỡi ôi nàng tắt thở. Cậu giật mình, mới biết nãy giờ mình đang cúi xuống đất mà hôn một đóa hoa màu hường 1, xung quanh đầy lá nhỏ mịn, thứ lá xếp lại khi có hơi gió, hoặc hơi thở nào động tới.

Hỏi ra thì cô Trinh đã tự tử từ hai năm nay, vì có kẻ tham quan ô lại dùng quyền lực toan cưỡng bức cô. Cho hay! Chữ Trinh đáng giá biết mấy. Dẫu chết xuống âm cảnh, người thiếu nữ vẫn giữ được sự trong sạch của tâm hồn mình.
--------------------------------
1 Hường: hồng.

Chuyện cười trong ngày

Thân quen

Máy vi tính hỏi virus: "Cậu từ đâu đến đây thế?".
- Thế cậu ở đâu ra?
- Tớ đến từ USA.
- Vậy tớ là hàng xóm của cậu rồi. Tớ đến từ… USB.

Friday, March 28, 2014

Ngày 28-3-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Ngài Mahā Kassapa quán tưởng cảm thọ như thế nào để có thể ăn thực phẩm do người cùi cúng dường?

Hỏi: Ngài  Mahā Kassapa đi khất thực gặp người bịnh cùi trong khi đang vụng về để thức ăn vào trong bát của Ngài Kassapa người ấy làm rớt một ngón tay lở lói lọt vào trong bát, lúc đó Ngài Kassapa thản nhiên như Ngài không để ý, đến khi trên đường khất thực trở về đến một chân tường thành ngồi xuống thì Ngài điềm nhiên gắp ngón tay đó ra khỏi bát rồi Ngài trộn vật thực lên và ăn bình thường. Thì khi ăn Ngài quán tưởng cảm thọ như thế nào để có thể ăn được? 

(Câu hỏi trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 22-3-2014, Minh Hạnh chuyển biên)

TTTuệ Quyền: Quả thật thì đây là một hành động của Ngài Kassapa thọ thực mà tâm không bị tham luyến ở trong vật thực. Điều thứ nhất, đó là Ngài Kassapa Ngài là đệ nhất về hạnh tu đầu đà. Đối với Ngài Kassapa đó là một điều. 

Còn hỏi Ngài thọ thực với cảm thọ gì. Đối với Chư Thánh hiền Tăng thì không có lạc, không có khổ. Các Ngài không có tâm bất thiện không có tâm ác, không tâm tham, không tâm sân, không si, mà chính là phi khổ phi lạc, không vui không thích cũng không buồn. Hành động của Ngài đúng ra để lại cho đời một gương hạnh tốt. 

Còn chuyện người tu ăn phải quán tưởng. Đức Phật nói ăn mà không quán tưởng thà ăn hạt cơm sắt hơn là ăn không quán tưởng. Thì khi Đức Phật ăn Ngài quán tưởng. Người tu đừng nói chi là Ngài Kassapa, một người phàm phu tu tập nếu như vị ấy có tâm ly tham, không có tâm đắm tham trong vật thực, ăn mà không bị tham đắm. Riêng hạnh này dạy cho người sau cho đời sau khi một người cùi đặt bát cúng dường Ngài và đã làm rơi lóng tay cùi vào trong bát và Ngài khi đến chỗ ngồi thọ thực thì Ngài gắp lóng tay bỏ ra ngoài và Ngài vẫn thọ thực bình thường. Thì ở đây dạy cho chúng ta rằng không phải như vậy mà sợ bởi vì sự nhờm gớm mà trong khi ăn đối với người tu phải biết quán tưởng nguyên chất quán tưởng nhờm gớm đang khi ăn và sau khi ăn, các vật thực này nguyên chất ta ăn vật thực này để duy trì xác thân để tu tập không phải ta ăn vật thực này để thân cường tráng để được đẹp. Thì với tâm người tu là quán như vậy.

Còn nếu chúng ta ăn mà chúng ta sợ dơ, thì chúng ta không ăn được, người cùi làm rớt ngón tay lở lót vào bát chúng ta, thời bây giờ chúng ta sợ vi trùng, không hạp vệ sinh chúng ta không dám ăn. Đó là một vấn đề.
Thì chúng ta suy nghĩ như thế nào. Đối với các Ngài, dĩ nhiên rằng sự tu tập của các Ngài tu hạnh đầu đà, các Ngài có sức khỏe mạnh cho nên có sức đề kháng mạnh. Nhiều khi chưa chắc thân bị bịnh mà do tâm của chúng ta bị bịnh thì nhiều. Cái vi trùng thuộc về tâm của chúng ta nó cắn nó xé và nó gây nên tham ái và chúng ta sẽ đau khổ. Còn vì không hợp vệ sinh rồi ăn vào bị bịnh thì cũng phải là tùy duyên, chứ không phải lúc nào chúng ta cũng đổ bịnh. 

Và đây chính là một gương sáng cho các bậc tu hành, không coi vật thực là điều lớn lao. Kinh Pháp Cú có câu: 
Ai sống chuộng mỹ tướng
Không phòng hộ các căn
Ăn uống không tiết độ
Biếng lười không nỗ lực
Ma áp đảo kẻ ấy
Như gió thổi cây yếu

Ai sống quán bất tịnh
Khéo gìn giữ các căn
Tiết chế trong ẩm thực
Với tịnh tín chuyên cần
Ma không thể áp chế
Như gió cuồng núi đá

Tâm của vị ấy đã vững vàng bởi do việc khéo quán bất tịnh, tâm đã khéo rồi. Chứ không phải như tâm phàm phu của chúng ta còn sợ sệt. Bởi vì vị Thánh đệ tử tứ quả là vị đoạn lậu vô sanh, đoạn lậu sanh tử đau khổ, không còn tâm ác, tâm không vui không buồn, khi tâm thiện có mặt thì sẽ có quả thiện, mà khi tâm ác thì sẽ có quả ác. Các Ngài không còn sanh tử thì làm sao còn ác tâm, cho nên cảm thọ của Ngài là phi khổ phi lạc.

Do vậy, chúng tôi xin trả lời là, khi Ngài thọ dụng vật thực của người cùi thì cảm thọ của Ngài không khổ không lạc. Chắc chắn là sự thật, vì vị Thánh tứ quả như Ngài Kassapa, vị đã đoạn lậu, vị đã không còn sanh tử đoạn đầu khổ sanh không có thiện không có ác trong lòng vị đó. Bởi vì không có quả sanh, nếu có quả sanh sẽ còn tái sanh. Nếu còn tái sanh thì không còn ý nghĩa của āsavakkhaya là bậc vô học của bậc chấm dứt sanh tử phiền não, chấm dứt không còn đau khổ sanh tử. 

Hay nói đơn giản hơn:
 Ái diệt thì thủ diệt. 
Thủ diệt thì không sanh hữu nghiệp hữu.
 Không có sanh hữu nghiệp hữu thì không có già chết sầu bi khổ não. 
Không có già chết sầu bi khổ não thì không có vô minh. 
Do vô minh diệt, không có dư tàn, nên các hành diệt.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Những phiền lụy, những lo lắng, những sầu muộn của chúng ta có cơ sở nguyên nhân chứ không phải là không, và khi nó có nguyên nhân mà nguyên nhân đó không có thì những thứ đó lại không tồn tại đuợc. Điều này hàm nghĩa là sở dĩ ở trong đời của chúng ta có những nhiệt não, có những lụy phiền là bởi vì chúng ta còn vương mang chưa có vuợt thoát ra khỏi đó. Cụ Nguyễn Du có viết trong truyện Kiều một câu nói "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng," sống trong cuộc đời này cái gì mà chúng ta có nghĩ đến, và đặc biệt có vương mang, có lo âu, thì ở đó nó làm cho tâm tư của chúng ta phải nói rằng không thể tránh khỏi những cảm xúc của tâm lý của mình đuợc.

TTGiác Đẳng - Đấng Như Lai không còn nhiệt não - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

GIỌT NƯỚC

Vị thiền sư tên là Gisan yêu cầu người thiền sinh trẻ mang đến cho ông ta một xô nước để làm nguội cái bồn tắm của ông.
Người thiền sinh mang nước và sau khi bồn tắm nguội, anh đổ xuống đất một chút nước còn lại.
"Con thật tối dạ!" vị thiền sư trách mắng anh. "Tại sao con không cho chỗ nước còn lại cho những cây cảnh? Quyền gì đã cho phép con phí phạm dù chỉ một giọt nước ở trong chùa này?"
Vị thiền sinh trẻ đạt được thiền ngay lúc đó. Anh đã đổi tên mình thành Tekisui, có nghĩa là một giọt nước

Chuyện Xưa Tích Cũ - ÔNG KHỔNG LỒ ĐÚC CHUÔNG

ÔNG KHỔNG LỒ ĐÚC CHUÔNG
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình


Nghề đúc chuông bắt đầu có ở Việt Nam vào khoảng năm 1220 đời nhà Lý.

Lúc ấy, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ông Khổng Lồ xuống giúp dân Việt. Ban đầu, ông Khổng Lồ vào chùa tu.
Một hôm, ông tâu với vua nhà Lý rằng: -Xin bệ hạ cho phép bần tăng qua bên Tầu, lấy ngọc ngà châu báu.
Vua nhà Lý bằng lòng. Ông Khổng Lồ bèn mang bị, mang gậy đi qua nước Tàu, đến đâu ăn xin đến đó. Ngày nọ đi tới kinh đô, ông nài nỉ vào bái yết vua Tàu. 

Vua Tàu hỏi: -Hòa Thượng vào đây có việc chi?

Ông Khổng Lồ đáp: -Tâu bệ hạ, bần tăng xin phép được vào kho tàng để thỉnh chút ít đồng đen đem về đúc chuông thờ Phật. Bần tăng không lấy nhiều, chỉ xin đầy bị nhỏ này.

Thấy cái bị của ông Khổng Lồ không lớn mấy, vua bằng lòng cho phép ông vào kho.

Trước cửa kho, có tượng một con trâu to lớn đúc bằng vàng ròng. Quan Tàu giữ kho nói với ông Khổng Lồ, giọng mỉa mai: -Tôi cho Hòa thượng con trâu vàng này, nếu Hòa thượng vác nổi đem về An Nam.

Biết rằng quan giữ kho khinh khi mình, ông Khổng Lồ đáp: -Bần đạo làm sao vác nổi nó. Là người tu hành, bần đạo chỉ muốn thỉnh chút ít đồng đen đem về đúc chuông.

Vào tới kho đồng đen, ông Khổng Lồ hốt đồng bỏ vào bị. Bỏ vào rất nhiều mà không thấy đầy vì bị của ông có phép. Chừng đầy bị thì kho của vua Tàu đã lưng hơn phân nửa. Quan giữ kho hoảng sợ biết ông Khổng Lồ là kẻ dị thường, bèn cấp báo cho vua hay. Lập tức, vua Tàu sai quân sĩ tới vây. Vì số đồng đen mang nhiều quá, ông Khổng Lồ không thể nào hóa phép thành con chim để bay được. Ông phải chạy rất nặng nhọc, vất vả. Quân Tàu đuổi theo gần kịp, nhờ họ cưỡi ngựa. Nguy hiểm làm sao, ông Khổng Lồ chạy tới sông Hồng Hà. Lập tức, ông lấy cái nón thả xuống nước, đứng trên nón. Nón ấy hóa ra chiếc thuyền chở ông và bị đồng đen đến bên kia sông. Quân Tàu hoảng sợ, không dám đuổi theo.

Thành Hà Nội thuở ấy gọi là Bắc Thành. Về tới đó, ông Khổng Lồ nhờ mấy người thợ rèn thụt ống bể lên để rèn một cái chuông thật lớn. Ông căn dặn: rèn thế nào cho chuông này giống hình cái bông sen nở, khi đánh vào thì kêu rền lên khắp nơi, khắp chốn ai cũng nghe. 

Vì họ là thợ rèn không chuyên môn đúc đồng nên cái chuông không được như ý muốn. Rốt cuộc ông Khổng Lồ dùng đất sét nắn kiểu khuôn trước, rồi đổ đồng vào sau. Nhờ vậy, cái chuông hoàn thành.

Ông Khổng Lồ bèn sửa sang cuộc lễ tạ ơn Phật Trời. Đúng ngày ông đánh chuông. Mấy tiếng đầu vang rền ngân nga Đông, Tây, Nam, Bắc ai nấy đều hay biết … Đến đỗi con trâu bằng vàng đứng giữ kho bên Tàu cũng giật mình. Ngỡ rằng trâu mẹ gọi mình, tượng trâu vàng nọ chạy một mạch từ kinh đô nước Tàu qua tới kinh đô nước Việt Nam thời ấy.

Ông Khổng Lồ vừa mừng, vừa sợ hãi. Mừng vì thấy của cải mà người Tàu vơ vét của dân Việt Nam bấy giờ trở về Việt Nam. Sợ vì e vua Tàu cử đại binh qua xâm chiếm nước nhà phen nữa. Bởi vậy, ông liệng cái chuông nọ xuống Hồ Tây. Con trâu vàng nọ cũng nhảy xuống nước theo mẹ.

Đời sau, ông Khổng Lồ được tôn thờ là Thần đúc chuông.

Chuyện cười trong ngày

Những bông hoa

Một nhà văn nổi tiếng nói:
- Phái nữ là những bông hoa. Cô gái trẻ là những bông hoa trong vườn mùa xuân. Người đàn bà độc thân là bông hoa trong bức tranh treo trên tường. Người đàn bà đã có chồng là bông hoa cắm trong lọ...
- Thế thì bà lão giống cái gì?
- Bà lão là bông hoa khô ép trong cuốn sách  cũ - nhà văn đáp. 

Thursday, March 27, 2014

Ngày 27-3-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - So sánh thực phẩm thích hợp hay chế độ ẩm thực kham khổ thì điều nào thích hợp cho hành giả tu tập?

Hỏi:  So sánh thực phẩm thích hợp hay chế độ ẩm thực kham khổ thì điều nào thích hợp cho hành giả tu tập?
(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 21-2-2014, Minh Hạnh chuyển biên và tóm tắt)

TT Pháp Đăng: Trong câu hỏi này, nếu người có học A Tỳ Đàm thì sẽ thấy được "thiệt thức thọ xả sanh quả thiện, thiệt thức phi thọ xả sanh quả bất thiện". Một người đi khất thực được thực phẩm ăn vừa lòng khả ý thì do phước của kiếp trước, còn người đi khất thực không được vật thực hoặc được vật thực mà không vừa lòng mình là do quả bất thiện từ kiếp trước.

Trong kinh Pháp Cú, câu chuyện kể về Trưởng Lão Anuruddha  là người thoát khỏi tham dục không màn về lợi dưỡng, là người có phước nên được Chư Thiên và nhân loại cúng dường những thực phẩm rất nhiều sau khi chư tỳ kheo ăn xong vẫn còn rất nhiều, những vị tỳ kheo nghĩ rằng Trưởng Lão Anuruddha muốn phô trương thân thuộc và thí chủ của mình! Đức Phật Ngài mới dạy rằng vì Chư Thiên và nhân loại tri ơn Ngài Anuruddha nên họ cúng dường như vậy.

Như vậy, nhiều khi chúng ta thấy là một vị Tỳ Kheo đi khất thực được những vật thực vừa lòng khả ý thì theo Phật Pháp họ là người có phước. Còn những vị Tỳ Kheo không có phước thì họ ăn những vật thực không vừa lòng mình

 Còn nói theo quan kiến con người thì nhiều khi người ta suy nghĩ mình ăn kham khổ mới là người tu, nhưng cũng có nhiều người họ nghĩ rằng mình ăn uống  thoải mái thì dễ tu hơn. Thì đó chỉ là quan kiến thôi.

 Đức Phật thì Ngài không dạy như vậy.  Ngài nói người không có phước thì quả trổ sanh cho người đó quả không tốt, người gieo nhân tốt thì quả trổ sanh tốt, Ngài nói theo chánh pháp. Thì Ngài dạy rằng vị tỳ khưu ăn uống sao cho vừa chừng để mình khỏe. Chúng ta thấy, Đức Phật trong thời gian sáu năm tu khổ hạnh, Ngài chỉ dùng chút ít vật thực, mỗi lần chỉ một chút thôi, một ít nước đậu xanh hay rau cỏ, hay đậu đỏ, hay đậu trắng thì thân thể trở nên cực kỳ gầy yếu. Vì thiếu vật thực, những bộ phận lớn và nhỏ trong thân ốm gầy không khác nào những cọng cỏ ống. Sau đó, Ngài thấy rằng khổ hạnh chỉ làm giảm suy trí thức và mệt mỏi tinh thần, Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu ấy, cũng như trước kia đã từ bỏ lối sống lợi dưỡng, chỉ làm chậm trễ tiến bộ khoa học, và Ngài chọn con đường "Trung Đạo" mà sau sẽ trở thành một trong những đặc điểm của Giáo Lý Ngài. Ngài ngồi dưới cội Bồ Đề Ngài ăn cơm với sữa đề hồ đủ dinh dưỡng và Ngài đã chứng đắc đạo quả Giác Ngộ.

 Thì chúng ta thấy, Đức Phật Ngài dạy một người muốn chứng đắc đạo quả thì phải có trú xứ thích hợp, vật thực thích hợp, còn một người ăn uống không phù hợp thì khó chứng đắc đạo quả. Như trong một câu chuyện kinh Pháp Cú khác: Lão bà ở một làng an cư lạc nghiệp tên Màtika, thấy sáu mươi Tỳ Kheo tu tập thiền quán mà ăn uống vật thực không thích hợp nên tu tập không đắt được cận định. Bà biết được nên đã hộ trì Chư Tăng dâng cúng cháo đặc nấu thật ngon với gia vị chọn lọc trong ba tháng thì các vị Tỳ Kheo đắc đạo quả Alahan.

Nhìn vào những câu chuyện này thì chúng ta thấy muốn khỏe thì ăn như thế nào vừa đủ hay vừa chừng. Còn người ăn uống kham khổ hạn chế thì không có sức khỏe. Một người tu tập thiền có sức khỏe thì ngồi thiền tốt hoặc đi kinh hành tốt còn nguời ăn uống kham khổ quá không đủ sức khỏe ngồi thiền cũng không tốt và đi kinh hành cũng không tốt, vị đó khó định tỉnh được. Nên người ăn uống vừa chừng cảm thọ lạc thân khinh an hỉ sanh định tỉnh rồi tri kiến sanh. Ăn uống kham khổ quá thì đói khát hoằng hành thì khó mà thành đạo quả

Có lần chúng tôi đi tu tập bên Miến Điện. Buổi sáng mình ăn cũng vừa chừng rồi đi xếp hàng đi bát đến 10:30 là đói run luôn. Thì thật sự đói như vậy mình ngồi kham nhẫn cái đói không thể nào đi kinh hành, mình cũng không tập trung chánh niệm được. Còn bữa nào ăn uống tương đối vừa no thì khi đi kinh hành hay tới chiều đi kinh hành hay ngồi thiền được. Ăn uống mà thiếu thốn thì đói kinh khủng lắm nhất là cái người hành thiền mà đi đứng nằm ngồi không tu tập được

Như ngoài đời, có nhiều người vì sợ mập, muốn giữ eo nên ăn uống kiêng kem thiếu thốn đến khi vào sở làm việc vì ăn uống thiếu nên cơ thể yếu rồi bị xỉu, không làm được việc

Do vậy, phải biết vừa chừng, tự bản thân mình biết vừa chừng để có đủ sức tu tập. Người ta đặt để ra nhiều điều, nhưng mình phải biết tự bản thân mình, khi bước vào thực hành mới thấy được sức mình. Ăn uống sao cơ thể mình không bịnh hoạn là tốt./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Đức Phật Ngài có Phật nhãn, Ngài nhìn chúng sanh siêu đọa, đi lên đi xuống, thì Ngài nhìn ở một điểm đó là trạng thái tâm của người đó, trạng thái tâm của người đó lúc chết lúc thân hoại mạng chung mà tâm tư thanh tịnh thì họ sanh về cõi an lạc mà tâm tư ô nhiễm thì sanh vào cõi khổ. Chúng ta thì không quan trọng nội tâm của chúng ta, phải nói như vậy, ít có người quan trọng về điều này, chúng ta quan trọng danh lợi hơn thua nhân ngã bỉ thử và chúng ta không bao giờ đặt trạng thái tâm của chúng ta ra sao hết. Thật sự thì một người hiểu Phật Pháp, có học Phật Pháp, có hành Phật Pháp thì điều quan trọng nhất là trạng thái tâm của mình như thế nào. Bất cứ sự việc gì xảy ra trong đời sống khi sự việc đó xảy ra mình hỏi tâm mình lúc đó có hận thù có phiền lụy có phiền não hay không, nếu có phiền não thì mình đừng tiếp tục nữa, chuyện mình hơn thua đúng sai phải quấy, chuyện đó không cần biết, nhưng hễ nhập cuộc chuyện đó làm cho tâm tư mình trở nên phiền não thì mình không nên dự. Tại vì sao vậy, tại vì cái chết có thể đến bất cứ lúc nào với mình và nếu mình chết đi mà tâm tư còn phiền não dính mắc như vậy thì chúng ta không thể cứu chính mình, chúng ta sẽ đi xuống, chuyện đó chắc chắn. Tâm không chỉ đơn giản là một trạng thái bình thường mà trạng thái vui khổ trong giờ phút thân hoại mạng chung còn định đoạt hướng đi của tương lai của chúng sanh đó. 

TT Giác Đẳng - Tâm, trọng điểm của sự tu tập - Minh Hạnh

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

Giác Ngộ 
Một ngày nọ vị Thiền Sư tuyên bố rằng một vị sư trẻ tuổi đã đạt tới cấp cao của sự giác ngộ. Tin này là lý do kích động một vài người. Một vài vị sư đã đi đến gặp nhà sư trẻ. "Chúng tôi nghe rằng sư đã giác ngộ. Có đúng không?" họ hỏi.
"Đúng vậy," nhà sư trẻ trả lời.
"Vậy cảm giác của sư như thế nào?"
"Nghèo nàn hơn bao giờ," vị sư nói.

Chuyện Xưa Tích Cũ - QUỶ THẦN BẤT TRẮC


QUỶ THẦN BẤT TRẮC
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Mấy ông bầu gánh hát bội thường khoe khoang: -Ban đêm tôi không bao giờ sợ ăn trộm, đồ đạc cứ để bừa bãi sau khi vãn hát, sáng ra áo mão đều còn nguyên, nhất là khi hát ở đình làng.

Nếu hỏi lý do thì mấy ổng trả lời vu vơ: -Ăn trộm với hát bội thờ chung một tổ!

Tại sao chung một tổ? Theo suy luận của chúng tôi thì kẻ trộm và đào kép hát bội giống nhau ở điểm thay hình đổi dạng, nhất là trong trường hợp kẻ trộm thuộc vào loại “ăn trộm tài.” ở lẩn quẩn trong xóm. Hắn phải bôi lọ, vẽ râu để không có ai nhận được tung tích.

Xưa kia, tại làng nọ có ngôi đình nhỏ, tất cả các món tứ khí (đồ thờ phượng) đều bằng vàng, bằng bạc. Nhiều kẻ động lòng tham, lẻn đến để đánh cắp nhưng hỡi ôi, sau khi thi hành thủ đoạn bất lương, chẳng ai ra khỏi sân được. Tay kẻ trộm như tê cóng, co rút lại. Hắn đành lê lết, kêu rú rồi bị bắt tại trận vào sáng hôm sau.

Thần thánh linh thiêng, nhưng đôi khi vì bận rộn đi chầu Ngọc hoàng nên kẻ trộm vào đình, vơ vét vài món đồ rồi về nhà, bình yên vô sự. Dè đâu hôm sau khi trở về thì thần thánh làm điềm, khiến cho một đứa bé “lên xác.” điểm chỉ đúng danh thủ phạm.

Bởi vậy, suốt mấy năm liền, trong đình không bao giờ mất mát. Đến năm nọ, như thường lệ vào dịp kỳ yên, các vị thân hào và bô lão rước gánh hát đến, hát liên tiếp mấy đêm. Đâu vào khoảng đầu canh tư, tuồng hát tạm chấm dứt, ai về nhà nấy, đào kép nằm xuống ngủ khò, sau khi thay xiêm y.

Một tên trộm nghĩ ra sáng kiến kỳ diệu để lấy trộm những món quý giá trong đình. Hắn đến chỗ đào kép đang ngủ, lấy áo giáp mặt vào mình, lấy mão đội lên đầu. Hắn không quên đeo râu, lấy phấn son tô đầy mặt.

Làm như thế mà hắn vẫn chưa yên tâm. Hắn xuống bờ sông, móc bùn đất dưới bãi mà trét vào chân tay. Đâu đó xong xuôi, hắn cười thầm: -Như vầy thì làm sao thần thánh nhận ra được!

Lát sau, hắn tiến vào chính điện. Công việc đầu tiên là đạp đổ chiếc ngai.

Chiếc ngai ngã sập xuống. Hắn nhủ thầm: -Thần linh phải chạy trốn, không còn chỗ ngồi.

Rồi hắn thẳng tay vơ vét mấy chiếc ấm bằng vàng, mấy bộ chén bằng bạc để sẵn trên bàn thờ. Sau cùng, hắn ung dung ra khỏi sân đình vào lúc gà gáy rộ, báo hiệu canh năm.

Trời vừa hừng sáng, viên chính tế bỗng thức dậy, đạp xô bàn ghế trong nhà khiến vợ con la hoảng: -Ông làm gì vậy? Đêm rồi uống rượu say mèm về đây ngủ một giấc mà chưa tỉnh hay sao?

Viên chính tế chạy thẳng ra đường cái rồi đến chính điện của đình làng mà quát mắng: -Chúng bây tội nặng lắm. Tại sao không canh chừng, đồ đạc của ta mất hết rồi.

Dân làng tụ họp lại, nghĩ rằng thần linh đã nhập vào xác viên chính tế. Họ kiểm soát lại thấy mất tất cả những món bằng vàng bạc, chiếc ngai thì gãy đổ. Chẳng một ai dám trả lời, cứ quỳ lại để nghe quở mắng.

Hồi lâu, một vị bô lão thử lên tiếng: -Xin thần linh tha thứ cho, từ bao lâu rồi chẳng có đứa nào dám vào đình. Là người phàm mắt thịt, làm sao chúng con biết hình dáng kẻ trộm. Xin thần linh mách bảo, lập tức chúng con đánh nó mềm xác về tội phạm thượng chứ chúng con đâu dung túng.

Thần linh cứ giậm chân mà trả lời: -Đêm rồi, bọn ngươi dâng rượu, dâng xôi thịt cho ta. Ta uống hơi nhiều, phần mệt vì xem hát nên không chú ý. Đứa bất lương hất ta ra khỏi ngai.

Vị bô lão bèn nài nỉ: -Xin thần linh chỉ dạy sơ qua hình dáng đứa gian, mập hay ốm, cao hay thấp, nước da trắng hay đen để chúng con truy tìm.

Thần linh đáp: -Hình dáng đứa ấy lạ lùng quá, đầu đội mão công chúa, mình mặc áo giáp tướng cướp, chân tay đen thui, miệng thì có râu như kẻ nịnh. Phải tìm kiếm, để trễ thì ta quở mắng.

Nói xong thần linh “thăng.”khỏi xác. Dân làng theo dõi mãi nhưng dễ gì biết chính danh thủ phạm là ai. Đúng là kẻ bất lương đã vào đình, mặc áo mão của đào kép để thay hình đổi dạng.

Rốt cuộc, họ đành góp tiền, mua sắm vài món khác rẻ tiền hơn để đền bù cho thần linh.

Chuyện trên đây chứng tỏ rằng kẻ khôn ngoan có thể làm những chuyện bất ngờ mà thần thánh chẳng đoán trước được. Có người cho rằng kẻ trộm nếu muốn vào đình làng vẫn có thể dùng thủ đoạn khác, khó nhọc hơn: hắn bò ngược, day đầu ra ngoài sân, dùng hai chân mà quơ quào, thần thánh chỉ thấy chân chứ không thấy cái mặt của hắn trong bóng tối.

Chuyện cười trong ngày

Luật sư đi nhà hàng

Hai luật sư sau khi tham gia bào chữa tại một phiên tòa tỏ ra rất mệt nhọc, họ bước vào một quán và gọi nước uống, mỗi người lấy trong cặp của mình ra một ổ bánh mì ăn.

Anh phục vụ nhanh chóng nhắc nhở:

- Thưa quý khách, quán chúng tôi có quy định được ghi trên bản bên kia: "Quán chúng tôi có phục vụ ăn trưa. Quý khách vui lòng không ăn thức ăn tự mình mang vào quán".

Hai vị luật sư vui vẻ cám ơn anh phục vụ và trao đổi bánh mì cho nhau rồi... tiếp tục ngồi ăn ngon lành.

Wednesday, March 26, 2014

Ngày 26-3-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Chúng ta làm thế nào để thay đổi cái nhìn của nhiều Phật tử Việt Nam là những "tu sĩ nghèo" là kém tài, thiếu phước?

Hỏi: Chúng ta làm thế nào để thay đổi cái nhìn của nhiều Phật tử Việt Nam là những "tu sĩ nghèo" là kém tài, thiếu phước? 

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 21-2-2014, Minh Hạnh chuyển biên)

TTGiác Đẳng:  Như lời TTTuệ Siêu nói thì quả thật có những tệ nạn là một số các vị Tăng sĩ khi xuất gia rồi không chịu trao dồi khả năng, tăng trưởng kiến thức Phật Pháp và làm phụng sự. 

Ở đời người ta nói như vầy: "Có những người nghèo là vì cái hạnh mà cũng có người nghèo vì bất tài". Cũng như có những người ở dơ tại vì họ lôi thôi, nhưng có những người ở dơ tại vì họ không có chú trọng đến việc nhỏ mà chỉ lo đến việc lớn. Chúng tôi nói như vậy không phải là để biện mình chuyện mình ở dơ. Nhưng có những người lúc nào cũng sạch sẽ, thì thật ra đôi khi củng có điểm tốt, nhưng không phải người lúc nào cũng sạch sẽ là người không tốt, đôi khi cũng tốt.  

Nói chung, chúng tôi nhớ câu chuyện. Vua Ba Tư Nặc đang ngồi với Đức Phật thì có một số các vị tu sĩ tu khổ hạnh đi ngang và những vị này loả thể thì vua Ba Tư Nặc đứng lên đảnh lễ những vị đó như đảnh lễ vị Alahan thì Đức Phật Ngài dạy là chỉ có bậc Alahan mới biết rõ ai là Alahan. 

Hình ảnh đó cũng nhắc cho chúng ta thấy rằng thật sự con người có nhiều khi rất là cực đoan trong lối sống mà sự cực đoan đó không nghĩa là biểu chưng trong giá trị đáng hoan hỉ.

Chúng ta cũng phải nhìn nhận trong các quốc gia Phật Giáo thì người Phật tử có sự nương nhờ ở chùa với các vị Tăng và với các bậc thiện trí. Do vậy, những vị nào nghèo vì hạnh tu thì người ta cũng biết mà do thiếu phước thì người ta cũng biết. Cũng như có những vị sống sung túc do tà mạn thì người ta cũng biết, sung túc là do phước đức của mình thì người ta cũng biết.

Nên chi. Để có một sự phân biệt cho rõ thì không phải là dễ dàng. 

Có một số có khuynh hướng là thái quá. Như là các nhà Sư Tích Lan mà càng có nhiều bằng cấp thì người ta càng hoan hỉ, bằng cấp này bằng cấp kia người ta cho đó là sự thành tựu rất lớn, người ta rất là ngưỡng mộ. Một nhà Sư Tích Lan khi học ra tiến sĩ rồi có những bằng cấp như MB, BA này nọ thì họ cũng viết một loạt phía sau tên của nhà Sư. Chuyện phô trương bằng cấp là chuyện hoàn toàn có thể chấp nhận được ở Tích Lan, về học vị của mình.

  Còn ở Đài Loan thì, những vị  tu sĩ ở Đài Loan mà càng giàu thì Phật tử càng hoan hỉ, người Hoa ở Đài Loan họ quan niệm rằng người tu sĩ đó giàu vì có phước. Thành ra ở bên đó hầu như những ngôi chùa lớn đều có cơ sở kinh tế tự túc, thậm chí những hệ thống lớn như Phật Quang Sơn hay là Trung Đài Thiền Tự  v.v... đều có cơ sở kinh tế lớn. Và các Ngài ở bên đó có vị có thể nói rằng có hàng trăm triệu cũng có, tại vì quan niệm người Đài Loan thì tu sĩ càng giàu thì càng phước.

4. Và nếu qúi vị đến Tây Tạng thì qúi vị thấy rằng những vị Tăng sĩ Tây Tạng càng bày vẽ nghi lễ cúng kiếng càng rồm rà thì Phật tử càng hoan hỉ. Xứ Tây Tạng họ thích nghi lễ rườm rà.

Còn qúi vị sang bên Thái Lan, Chư Tăng Thái Lan có những kiểu cách riêng, ví dụ y thì phải mặc y kiểu đó phải làm như vậy như vậy, ở trong chùa càng khó khăn nhiều, các vị Sư Cả bày ra nhiều việc khó khăn là một kiểu cách riêng. Nếu ở Việt Nam thì đôi khi gọi là lập dị nhưng bên Thái Lan thì xem đó là sự xuất sắc của tông phái của họ.

 Nói chung thì, mỗi nền  văn hóa có một số những dị biệt, có một khuynh hướng, và mỗi thời đại nó có trào lưu nhất định. Người đời họ nói rằng: trong một quốc gia phát triển thì dân trí phải cao, ở trong một nền đạo mà những tín đồ có kiến thức tốt về giáo pháp thì đạo đó phát triển mạnh.

Chúng ta là người Phật tử nên nắm cái chính yếu cái cơ bản, chúng ta hiểu rõ Phật Pháp được học từ trong kinh điển và từ đó chúng ta có cái nhìn sáng sủa quang đãng đối với thế giới bên ngoài tốt hơn. Còn nếu chúng ta không nhìn những điều đó thì nó trở thành một vấn nạn. Chúng tôi lấy ví dụ là ở Mỹ ngôi chùa nào lớn và thịnh thì những ngôi chùa đó có nhiều đám tang, tức là việc cúng đám rất là nổi bậc, chúng tôi không thấy có ngôi chùa Việt Nam nào ở Mỹ phát triển mà không có cúng đám, và việc cúng đám đó trở thành một lẽ sống huyết mạch của Phật Giáo Việt Nam ở hải ngoại. Bây giờ thì có nhiều Thầy qua bên Mỹ bày đủ thứ chuyện, nghi lễ đám tang càng lúc càng rườm rà. Và Phật tử thỉnh một vị Thầy về làm đám mà họ thấy qúi Thầy tụng kinh ngắn quá hay làm mà không có nghi lễ đặc biệt thế này thế kia thì họ không hoan hỉ, thậm chí họ còn áp dụng những nghi lễ của Tây Tạng như là chết rồi để yên trong 2, 3 ngày không đụng đến  v.v... Bây giờ người ta đang chạy theo thời thượng là nghi lễ càng rườm rà thì càng tốt, chùa mà nhiều đám cúng thì đó là chùa thịnh Phật tử. Và thậm chí là có những ngày lễ họ không quan trọng nội dung của buổi lễ mà họ quan trọng hôm đó có nhiều đám tang có những người đến rất là đông là tại vì có 5, 3 cái đám tang nhập lại thì người đến tham dự cũng đầy chánh điện do đó cái nghi lễ đó họ quan trọng nhiều hơn là những hình thức khác.

Thì nói chung, là chúng ta là người tu Phật ở trong mỗi thời đại phải tỉnh táo, chúng ta phải tăng trưởng kiến thức của mình. Người ta nói rằng: "đi tìm cái giá trị chân thật của cuộc đời giống như là ngọc trong đá", đá thì nhiều nhưng ngọc thì ít và người đi tìm cái giá trị chân thật. thì không phải dễ.

Nói chung, dù rằng có Thầy dù rằng có chùa, dù rằng có tông phái nhưng chuyện tu đó là ai khôn thì nhờ mà dại thì chịu, nghe nó phũ phàng nhưng nếu chúng ta không có trí tuệ thì thật sự không ai cứu nổi chúng ta, chúng ta phải cẩn thận về điểm này./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Ngài cho chúng ta thấy rằng chúng ta không cần có con mắt thần hay phải có thiên nhãn thông để tìm về quá khứ hay để thấy được tương lai mà chúng ta chỉ nhìn vào trong hiện tại này thì chúng ta sẽ thấy rằng sự hoạt động giữa các căn các cảnh đã cho chúng ta thấy rằng các pháp sanh lên là do nhân do duyên và chẳng những chúng ta thấy được các pháp sanh lên do nhân do duyên mà chúng ta còn thấy được đâu là Khổ, đâu là Nhân Sanh Khổ, đâu là Sự Diệt Khổ, đâu là Con Đường Dẫn đến Sự Diệt Khổ và giáo lý Tứ Đế được xem như là một lời dẫn giải rất tường tận rất rõ ràng rất hoàn chỉnh và Đức Phật Ngài giới thiệu về giáo lý của Ngài, Ngài ban bố cho cuộc đời những lời dạy là tại sao giữa cuộc sống này cho dù chúng ta có vui hay có khổ thì đời sống tu tập, đời sống của samon hạnh, đời sống phạm hạnh vẫn có ý nghĩa và ý nghĩa lớn lao và một ý nghĩa thiết thực và ở đây nói lên tính thực tiễn của đạo Phật.

TT Giác Đẳng - Sở Y Xứ - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

NHỮNG ĐỨA CON CỦA HOÀNG ĐẾ

Yamaoka Tesshu là vị gia sư của hoàng đế. Ông cũng là vị sư phụ của nghệ thuật đánh kiếm và thiền sinh uyên thâm.
Nhà của ông là nơi cư trú của những kẻ làng thang. Ông chỉ có một bộ quần áo, để giữ cho ông không nghèo
Vị hoàng đế, nhận thấy sự cũ kỹ của quần áo ông như thế nào, đã cho ông một số tiền để mua bộ quần áo mới. Lần sau Yamaoka xuất hiện ông vẫn mặc y chang bộ quần áo cũ.
Vị hoàng đế hỏi: "Cái gì đã xảy ra cho bộ quần áo mới?"
"Tôi đã cung cấp những bộ quần áo cho những đứa trẻ của Hoàng Đế," Yamaoka giải thích.

Chuyện Xưa Tích Cũ - CON RANH, CON LỘN


CON RANH, CON LỘN
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Mãi đến nay, nhiều bà mẹ khi nổi giận đã không tiếc lời mắng nhiếc con cái trong nhà: -Mày là con ranh, con lộn! 

Hoặc là: -Đồ con ranh, con sát! 

Đúng ra phải nói đứa bé bất hiếu ấy là con của mẹ ranh Càn Sát, chữ nho gọi là Càn Sát quỷ mầu. Tục truyền rằng năm đó ở tỉnh Hà Đông (miền Bắc) có thằng bé chăn trâu vừa siêng năng, vừa khôn ngoan. Nó thường nói với cha ruột: -Mẹ con mất rồi, con nhớ ông ngoại bà ngoại. Hễ tối sau khi lùa trâu vô chuồng, xin cha cho phép con qua bên ấy. 

Người cha thuận cho đứa bé qua làng kế cận mà ngủ ở nhà bà ngoại. Thằng bé đi vắng nhà, sáng trở về lo chăn trâu. Chú của thằng bé thấy vậy thường lên tiếng ngăn cản: -Trời mưa gió, cháu bé vượt qua cánh đồng, rủi mang bệnh hoạn thì tội nghiệp, đó là chưa nói đến tai nạn rắn rít dọc đường. Để tôi qua nói với bà ngoại nó, cho nó ngủ bên nầy, thỉnh thoảng hãy tới thăm. 

Người chú đến gặp bà ngoại thằng bé, chừng nghe hỏi thì bà trả lời sửng sốt: -Mấy tháng rồi, nó đâu có tới đây thăm tôi. Hay là nó chơi hoang với chúng bạn? 

Người chú sinh nghi vì thằng bé hơn mười tuổi quá hiền lành ấy chẳng lẽ mê say tửu sắc. Chiều hôm sau, khi thằng bé lên đường, người chú bèn nom theo phía sau. Nó không hay biết, đi thật nhanh đến cây da cổ thụ ở giữa cánh đồng. Trời tối hẳn, nhờ vậy mà người chú ẩn núp kín đáo ở mô đất, gần gốc cây. 

Từ trên ngọn cây da, một giọng đàn bà gọi the thé: -Con ơi! Mẹ đây nè! Sao về trễ vậy? 

Rồi người đàn bà ấy từ ngọn cây nhảy xuống đất gọn gàng, hàng chục đứa bé nhảy theo, đeo trên vai, sau lưng. Trong lòng mụ ta, một đứa bé đang bú. 

Người chú hiểu mụ nọ là ma quái bèn lắng tai để ý nghe đứa cháu trả lời: -Con buồn quá, sớm muộn gì chủ nhà cũng hay biết, mấy tháng rồi, con vắng mặt lúc ban đêm nên họ nghi ngờ. Mẹ nên dẫn con đi xứ khác. 

Mụ nọ trả lời: -Căn phần chưa mãn, hai ba năm nữa mới dứt được. Con nên chịu cực mà chăn trâu. Tuy vắng mẹ nhưng ai dám ám hại con. Mẹ khuyên con điều này: nếu chủ nhà dọn cá chép hoặc là con ba ba thì đừng ăn mà nguy hại, mẹ con mình khó gặp mặt nhau. 

Mụ nọ và thằng bé ngồi gần nhau, mói nhỏ tiếng nên người chú không nghe rõ. Nhưng cần gì! Tất cả bí mật đều bị tiết lộ rồi, người chú chạy nhanh về nhà, không nói lời nào cho cha đứa bé hay biết. 

Hôm sau, người chú mua cá chép và ba ba, bằm hai thứ đó bỏ vào nồi mà nấu. Đến bữa ăn người chú mời mọc nhưng thằng bé vẫn trả lời một mực: -Cháu no rồi. 

Người chú đến gần, dùng tay đè xuống rồi cạy miệng, đổ thịt ba ba và cá chép vào miệng đứa cháu. Nó kêu la, kháng cự. Để trừ khử, người chú hất cả thức ăn lên đầu nó, trét lên đầu. 

Chiều tối, thằng bé vội vã chạy ra ngoài đồng vắng, đến gần gốc cây da. Khi chạy theo để ngóng kết quả, người chú giật mình, vì mụ già trên ngọn cây quát to: -Đồ bất hiếu. Ta đã dặn đừng ăn những món cấm kỵ đó, mi cãi lời thì còn cách nào cứu vớt được nữa. 

Thằng bé òa lên khóc: -Xin mẹ thương con mà tha thứ cho. Họ dùng võ lực để lấn hiếp, con yếu đuối … 

Mụ già cứ chửi mắng. Người chú nổi giận, cầm cục đất mà nạt: -Mụ kia! Đừng hòng tới lui xóm này mà quấy rầy dân chúng. Xem này! 

Cục đất ném tới, mụ già và lũ trẻ con biến mất. Rồi không bỏ mất cơ hội, ông về nhà lấy xương cá chép và cái mai con ba ba đem đến gốc cây, ném bừa bãi xung quanh. 

Thằng bé về nhà, nằm yên trong mùng. Với thái độ kiêu hãnh, người chú ngồi trong nhà, đốt đèn lên mà uống rượu. Đúng như sự dự đoán, đâu vào khoảng canh tư, mụ già nọ đến trước sân để van nài: -Ông đem xương cá chép với mai ba ba mà bỏ nơi khác. Tôi không nơi nương tựa, nếu ông đuổi thì tôi rời khỏi cây da, đi lang thang phá tất cả xóm này. Tôi không hại ông nữa đâu. 

Người chú ra gốc cây, lượm mấy món cấm kỵ nọ đem quăng xuống dòng sông gần đó. 

Thằng bé tiếp tục chăn trâu, không lén đi ra ngoài gốc da như trước. Nó lớn khôn, học hành biết đọc, biết viết, nếu ai nhắc chuyện mụ già thì nó trố mắt, không nhớ điều gì cả. 

Mụ ấy được gọi là mẹ ranh Càn Sát.

Chuyện cười trong ngày

Bác sĩ cũng bó tay

Trong phòng bệnh:

- Với biểu hiện như thế này, có thể khẳng định chắc chắn là anh đã bị nhiễm độc rất nặng.

- Trời ơi! Nguy hiểm quá! Vậy thưa bác sĩ, tôi bị nhiễm chất độc gì ạ?

- Điều này chúng tôi chỉ có thể trả lời sau khi đã khám nghiệm tử thi.

Tuesday, March 25, 2014

Ngày 25-3-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Làm thế nào để những kêu gọi tạo phước không thành gánh nặng cho người cư sĩ?

Hỏi. Làm thế nào để những kêu gọi tạo phước không thành gánh nặng cho người cư sĩ?

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 18-2-2014, Minh Hạnh chuyển biên)

TTTuệ Siêu: Ở trong Luật Tạng cũng như trong Kinh Tạng - trong Tăng Chi Bộ kinh, Đức Phật Ngài thuyết về những đức tánh của một vị trụ trì gọi là āvāsika-bhikkhu một vị tỳ kheo sở tại, trong đó có một vài điều tức là một vị tỳ kheo trụ  trì phải biết cách để hướng dẫn cho người cư sĩ làm phước cho chùa hay làm phước cho chư vị khách tăng. Nhưng điều đó không có nghĩa là làm một vị trụ trì là đi quyên góp kêu gọi quá đáng khiến cho những người cư sĩ họ cảm thấy khó khăn cảm thấy như bị bắt buộc trong việc cúng dường thời như vậy sẽ làm cho những người chưa có niềm tin thì họ không có niềm tin còn những người đã có niềm tin rồi thì họ sẽ mất niềm tin.

Đây cũng là một điều phải tế nhị. Có bốn điều khi một vị tỳ kheo hướng dẫn cho người khác làm phước  và kêu gọi người khác làm phước cần biết:

1. Điều thứ nhất, một vị trụ trì nên có lòng bi mẫn thương xót đến người cư sĩ, không nên làm khó khăn cho người cư sĩ trong việc họ làm phước, mà chỉ nghĩ rằng đây là một cơ hội để cho người cư sĩ tạo phước, chẳng hạn như là cúng dường hùn phước xây chùa, xây tăng xá, xây chánh điện v.v... và để nuôi tăng, thì vị trụ trì có trách nhiệm kêu gọi hướng dẫn cho người cư sĩ, nhưng với lòng bi mẫn chỉ thông báo cho người cư sĩ biết thôi, chi gặp người cư sĩ trong lúc thuyết pháp thì giải thích cho họ nghe những phước báu cần thiết cho đời sống của người cư sĩ đem đến hạnh phúc an lạc, phước báu đó bằng sự cúng dường đến Chư Tăng. Thì bấy giờ tùy theo khả năng mà họ có thể cúng dường ít nhiều về công về của ở trong việc làm này trong việc xây dựng này v.v... Thì như vậy phải bằng tâm từ bi, chứ không phải là lợi dụng niềm tin đó mà mình vắt cho khô cạn.

2. Điều thứ hai, chúng tôi nghĩ rằng một vị trụ trì hay một vị tỳ kheo mà đi quyên góp người khác, điều này chỉ hơn vì lợi ích của Tăng chúng chứ không có vì lợi ích cho cá nhân, đó là điều tối kị mà hễ kêu gọi vì tăng chúng thì được nhưng mà kêu gọi để người ta đóng góp cho cá nhân mình thì điều đó không nên.

3. Điều thứ ba, khi kêu gọi quyên góp như vậy thì tùy lòng hảo tâm của người khác kẻ ít người nhiều và luôn luôn có sự trân trọng chớ không phải là đưa ra một mức độ nhất định. Ví dụ như không thể quyên góp bảo mọi người phải đóng bao nhiêu tiền giống như đi thu thuế, điều đó không nên. Tức là để tùy theo khả năng của người đó đóng góp bao nhiêu thì tiếp nhận bấy nhiêu và vẫn có sự hoan hỉ sẵn sàng. Có câu chuyện,ngày xưa, ở trong làng làm lễ trai tăng tập thể ,có ông thiện nam là một cư sĩ, ông ta đi từ đầu làng tới cuối làng kêu gọi mọi người hùn phước để làm lễ trai tăng ngày mai cúng dường cả ngàn vị tỳ kheo. Thì mọi người tùy theo công sức mà hùn phước, có một ông bá hộ tên mèo, tại sao gọi ông bá hộ mèo, tại vì ông bá hộ này ông biủ xỉu, ông nghĩ rằng nếu ông thiện nam này đến xin mình hùn phước mình không hùn thì coi cũng kỳ mà hùn nhiều quá thì tốn kém, cho nên ông nhúm đầu ngón tay lại rồi bốc một nhúm gạo đưa cho ông thiện nam đó xem như là hùn phước. Thì mọi người thấy nên gọi ông ta là bá hộ như mèo ông ta chụm lại giống như con mèo. Nhưng khi xong buổi lễ làm phước thì ông bá hộ mèo khởi lên tâm bực bội khó chịu nghĩ rằng chắc có lẽ ông thiện nam này trong lúc nói lên những lời cảm tạ đến những người đã hùn phước cúng dường thì chắc kể đến ta thì sẽ nói xấu ta. Cho nên ông cho người đến theo dõi cuộc lễ trai tăng. Khi gần mãn buổi lễ thì ông thiện nam hoan hỉ vui vẻ tán thán chung kẻ ít người nhiều, ông hồi hướng chia phước hết đều tất cả. Người nhà ông bá hộ về báo lại thì ông bá hộ động lòng và cũng hoan hỉ, từ đó ông bắt đầu bỏ tiền của ra để ủng hộ trong việc cúng dường v.v...

Thì đây là bài học cho người cư sĩ nhưng là một vị xuất gia chúng ta cũng phải biết rằng khi chúng ta kêu gọi người khác làm phước thì tùy theo lòng hảo tâm ít hay nhiều chúng ta cũng đều trân quí dầu cho một vài món đồ hay là nhiều tiền bạc chúng ta cũng đều hoan hỉ.

4. Điều thứ tư. Đối với một người đi quyên góp, một vị tỳ kheo một vị trụ trì đi quyên góp người khác để xây dựng chùa chiền v.v... thì luôn luôn vị đó phải có đủ khả năng để khích lệ sách tấn người khác bằng những pháp thoại hoan hỉ trong việc người ta đóng góp cúng dường chớ không phải là chỉ có tài đi kêu gọi người khác khuyến khích người khác đóng góp rồi sau khi nhận xong thì bỏ mặc không làm cho họ có sự hoan hỉ trong pháp, điều này không nên.

Chúng tôi nghĩ rằng là nếu một vị tỳ kheo, vị trụ trì có đủ bốn yếu tố này thì trong sự quyên góp đó là tốt. Còn ngược lại thì trở thành quá đáng sẽ không đưa đến sự tốt đẹp./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Có người họ sanh thiên là bởi vì họ nói thật, ở trong đời sống chỉ biết nói thật thôi, không biết nói đãi bôi, không biết nói dối, không biết nói hoa ngữ.  Và một người khác trả lời rằng : trong tiền kiếp trong  lúc làm công cho ông chủ và bị ông chủ nặng nhẹ, cho dù ông chủ nặng nhẹ nhưng không đem lòng oán trách mà nghĩa rằng mình là người làm công và người ta làm chủ thì nếu mình làm việc không hài lòng thì người ta có thể phật ý , và giữ tâm rất là bình thản không có tâm oán giận với người chủ cũ của mình.  Thì đó cũng là phước sanh thiên. Một vài người khác cũng làm chúng ta ngạc nhiên không ít, là họ nói về sự bố thí nhỏ nhoi của họ, bởi vì quá nghèo, bởi vì quá ít tài sản, cái gì họ cho  rất nhỏ so với những người khác nhưng mà có thể lớn lắm so với họ. Một người làm vợ thì làm hết bổn phận đối với chồng, họ làm chồng thì hết bổn phẩn đối với vợ, thì điều đó cũng là con đường sanh thiên giới, Tất cả những trường hợp này đều nói nên thiện trí.

TT Giác Đẳng - Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

KẺ CẮP VÀ VỊ THIỀN SƯ 
Một tối nọ, Thiền Sư Shichiri Kojun khi đang tụng kinh thì một tên trôm đột nhập vào nhà với thanh gươm sắc bén, gắt gỏng lên tiếng
“tiền hay mạng sống”.
Không một chút sợ hãi, Shichiri nói: “Đừng làm phiền ta! Hãy lấy số tiền đó, nó nằm trong ngăn kéo.” Và ông tiếp tục tụng kinh.
Tên trộm giật mình vì sự đáp trả bất ngờ đó, nhưng hắn vẫn tiếp tục với công việc của mình. Khi hắn đang lấy tiền, vị Thiền Sư dừng lại và bảo,
“ Đừng lấy hết chỗ đó. Hãy để lại một ít để ngày mai ta trả thuế.”
Tên trộm để lại một ít tiền và chuẩn bị rời đi. Trước khi hắn rời khỏi, vị Thiền Sư đột nhiên hét lớn:
“Ngươi đã lấy tiền của ta và cũng chẳng thèm cám ơn ta sao?! Như vậy thật là thiếu lịch sự!
Lần này, tên trộm thật sự kinh ngạc ở một hành động can đảm ấy. Hắn cám ơn vị Thiền Sư rồi bỏ đi. Tên trộm đã nói với bạn hắn là hắn chưa bao giờ sợ như thế trong đời hắn.
Vài ngày sau, tên trộm bị bắt và thú nhận tội, trong số đó, có cả việc anh ta lấy cắp ở nơi ở của Shichiri. Vị Thiền Sư được mời đến để làm chứng, ông nói,
“Không, người đàn ông này không lấy một thứ gì ở nơi ta. Ta đã cho hắn tiền, và thậm chí hắn cũng đã cám ơn ta vì điều đó.”
Tên trộm vô cùng cảm động vì hành động đó, và hắn thật sự ăn năn. Khi được thả ra khỏi nhà tù, hắn đã trở thành môn đệ của vị Thiền Sư và nhiều năm sau đó, hắn đã đạt được đạo quả giải thoát.

Chuyện Xưa Tích Cũ - CÁ THẦN VÀ CÁ MA


CÁ THẦN VÀ CÁ MA
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Ở Hậu Giang, thỉnh thoảng chúng ta còn nghe truyền tụng nhiều giai thoại về loại cá to ở sông Cái (Hậu Giang).

Tại rạch Cái Tắc (Cần Thơ) có cặp cá vồ cờ to lớn khác thường. Thỉnh thoảng cá nổi, cái cờ to nhô lên khá cao (kỳ = cờ), cá tới đâu là cái cờ rẽ nước như nổi sóng. Lát sau, cá lặn mất. Người ta cho rằng cá ở hang ngoài sông Cái, nếu xuất hiện là đem điềm dữ cho dân chúng.

Sở dĩ có sự mê tín ấy vì từ xưa, thiên hạ đồn đãi rằng sông rạch là khu vực do Hà Bá cai quản (cũng như Long vương cai quản ngoài biển cả). Cá to lớn quá mức trung bình phải chăng là binh tướng của Hà Bá? Ai đụng chạm hoặc giết cá nọ thì xúc phạm đến người khuất mặt.

Cặp cá vồ ở Cái Tắc nổi lên, tình cờ trong lúc cha con lão nọ vừa quăng chài xuống. Đôi cá dính trong miệng chài, cựa quậy rồi chạy trốn.

Lúc mất bình tĩnh, lão nói với con: -Giữ cái chài, buộc vô ghe!

Thế là đôi cá kéo cái chài và chiếc ghe, dân chúng hai bên bờ đứng xem, ngạc nhiên. Cá quá mạnh kéo chiếc ghe chạy nổi sóng.

Lão chài kêu cứu. Có người đưa sáng kiến: -Chặt bỏ sợi dây. Đừng tiếc cái chài mà mang họa.

Lão làm y lời. Hai con cá nọ lặn xuống đáy sông mất dạng. Về sau, cặp cá này bị bắn, theo lời đồn đãi thì trong bao tử cả có vòng vàng, chuỗi hột chứng tỏ nó đã ăn thịt người.

Ở Cần Thơ, còn giai thoại khác về cá vồ ma. Ông lão nọ nuôi hai hầm cá, một dành cho các vồ, một dành cho cá trê trắng.

Là người giàu có, ông để bầy cá sống nhiều năm, cá lớn thì bán có giá hơn. Gần hai ao này, bấy lâu dân trong xóm đem thân nhân tới chôn cất vì vùng đất trống trải, thuộc về công điền.

Năm mười năm sau, gia đình ông lão gặp nhiều tai biến xảy ra liên tiếp: vợ chết, con đau ốm. Đêm khuya thanh vắng, nơi ao cá nhiều bóng dáng ma quái chập chờn, kèm theo là tiếng kêu hú.

Một thầy địa lý đi ngang qua, xem kỹ hai hầm cá vồ và cá trê rồi lắc đầu: -Cá đã thành ma, nên bán gấp.

Lái cá đến nơi, chịu giá và chủ nhà bán với giá rẻ mạt. Hôm sau, chủ nhà cho bốn người bạn tát nước. Lạ thay, khi nước gần cạn ao thì bao nhiêu cá đều biến mất.

Lái cá nói: -Như vậy là chủ nhà gạt tôi để lấy tiền cọc!

Chủ nhà cãi lại: -Hôm qua, dưới ao cá lội nhung nhúc, tôi bắt lên để làm gì? Làm sao tôi bắt hàng mấy trăm con cá, khi nước còn lễnh lãng dưới ao? May rủi thì chú chịu. Tôi cũng chịu lỗ như chú.

Mấy ông kỳ lão nghe chuyện lạ bèn tới nơi rồi bày ra sáng kiến: -Chủ nhà thắp nhang khấn vái người khuất mặt, họa chăng là bầy cá trở về.

Đêm sau, cá trở về đầy ao. Chủ nhà và chú lái vô cùng mừng rỡ. Cá đã xuống ghe nhưng khi tách bến một đỗi thì ai nấy la hoảng: -Cá biến mất rồi!

Lại xảy ra chuyện thắc mắc giữa chủ nhà và chú lái. Thắp nhang khấn vái không đem lại kết quả nào cả. Chủ nhà đành tát ao cá trê để bồi thường cho chú lái đến mua cá vồ.

Chuyện “cá vồ ma.”được loan truyền từ đó.

Cá tra, cá vồ, cá hô đều là loại ở sông Cái, từ Biển Hồ (Cao Miên) tràn xuống. Người Việt Nam ta vì ở xa nên chưa gặp những con cá ở Biển Hồ. Ba loại kể trên rất to, nếu sống lâu năm. Chúng tôi xin nêu vài con số:
Cá tra, bề dài từ sáu tấc tây đến tám tấc tây, bề cao hai tấc, bề ngang bai tấc rưỡi hoặc ba tấc. Cá vồ lớn hơn cá tra, dài tối đa là hai thước tây, trung bình là một thước hai hoặc một thước ba. Cá hô, dài từ một thước tám đến hai thước, lúc nhỏ thì đuôi và kỳ màu hường, lớn nhiều năm thì đổi ra màu đen.

Đối với người ở Biển Hồ, thì con các vồ dài non hai thước chẳng có gì là lạ. Ở xứ ta, vài con cá to từ Biển Hồ trôi xuống hoặc lớn nhờ nuôi lâu năm lại trở thành chuyện hoang đường, căn cứ vào giả thuyết “sống lâu năm thành tinh.” từ con cọp, con sấu đến con cá!

Chuyện cười trong ngày

Đem đổi

Binh sĩ được huấn luyện nhảy dù từ trên máy bay xuống. Họ được trang bị dù mở trong không gian để rơi xuống đất an toàn.

Có lần một trung sĩ đang huấn luyện các binh sĩ thì một binh sĩ hỏi:

- Tôi phải làm gì nếu như dù không mở khi tôi nhảy ra khỏi máy bay?

- Ồ, xong ngay! Anh chỉ việc mang dù về để đổi lấy cái dù khác- Trung sĩ nói.

Monday, March 24, 2014

Ngày 24-3-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Sự phẫn nộ

 Hỏi: Sự phẫn nộ

(Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)         

TT Giác Đẳng: Có thể nói rằng ít khi nào chúng ta nhìn thấy một sự việc rộng ở trên căn đế phiền não. Khi mình bực bội điều gì mình chỉ nhắm vào đối tượng A, đối tượng B, ai làm mình bực.  Và nếu ai làm cho mình bực thì mình qui trách cho người đó, kể như xong chuyện. Nhưng, Ðức Phật thì Ngài nói đến những trạng thái tham sân. Trạng thái sân đến từ nhiều căn đế, mà chúng ta rất khó có thể tưởng tượng, nếu chúng ta không phải là người hiểu Phật Pháp.

          Thật ra thì những phiền não trong lòng chúng ta không phải nó tự phát mà nó do nhân do duyên và thông thường những phiền não này nó cấu kết với nhau.  Cái hiện tượng mình thường rất thích điều này và tự nhiên nó làm mình không thích điều khác, đó là điều đương nhiên và rất thường thấy.  Ví dụ như, chúng ta xem một cuốn phim, chúng ta hết sức tán thưởng một nhân vật, thì trong sự tán thưởng một nhân vật ở trong cuốn phim đó, chúng ta lại đem tâm bực ghét, không ưa thích những người làm ngược lại, đối nghịch lại người đó.  Chúng ta càng  thương người nào nhiều, chúng ta lại càng ghét người khác nhiều, ít khi nào cái thương và cái ghét hiện diện như là  một chiều và thông thường nó là một mặt của đồng tiền hai mặt.

          Ngài Budditasa là một trong những vị danh Tăng cận đại của  Phật Giáo tại Thái Lan, Ngài đả nói chuyện rất nhiều về trường hợp về một con chó hay cắn, nó tương tự như là hạnh phúc trong đời sống của mình, có những thứ  mình nghĩ rằng nó hoàn toàn đáng hoan hỷ, đáng thỏa thích. Nhưng ngược lại, chúng ta quên rằng nó có những dị ứng những biến chứng mà những biến chứng này đã khiến chúng ta căm ghét đối với những thứ khác. Và cả hai trường hợp đều đưa chúng ta vào tình trạng là quá thích thứ này và quá ghét thứ khác.

              Theo Ðạo Phật thì mỗi chúng ta có sợi dây xích, những cái phiền nó kềng chúng ta lại, Ðạo Phật gọi là những kiết sử. Chúng ta cứ thử hỏi như thế này, có những lần chúng ta rất lo sợ về một điểm gì đó nó trĩu nặng trên vai của mình, và mình muốn vuợt ra khỏi điều đó mà chúng ta không vượt được. Hoặc giả, bỗng nhiên nhất thời có ai nói một câu gì mà làm cho chúng ta tự ái, thì chúng ta sẽ trở về trăn trở trằn trọc với câu nói đó. Thì quả thật lúc đó chúng ta thấy rằng có một sợ dây vô hình nó cột chúng ta lại. Cái kiết sử hay thằng thúc mà Đức Phật Ngài đề cập đến, là những sợi dây kiết sử đến từ nội tâm của chúng ta, và sân phẫn nộ nó là một trong những cái gây ra kiết sử đó. Và hiện tướng của nó ở bên ngoài thì chúng ta thấy rằng ở đó có kiêu mạn, ở đó có phẫn nộ ,con người cảm thấy rằng mình như thế này, mình như thế kia ,và mình phải được như thế này, mình phải được như thế khác, và mình là ai, mình thường tự nhận mình qua một nhãn hiệu nào và mình khổ với nhãn hiệu đó.

        Con người ở trong xã hội ngày hôm nay vẫn thường cảm thấy tự hào khi mình có một học vị, hay là có một địa vị , mình thuộc giai cấp trung lưu, mình thuộc giai cấp thượng lưu, mình là vị trụ trì , mình là một người nhân sĩ trong xã hội, mình là một nhà lãnh đạo, mình là thế này thế kia v.v... đó chính là cái niềm hãnh diện. Nhưng mà chính niềm hãnh diện đó cũng là thước đo cho sự phẫn nộ của mình. Khi chúng ta có quan niệm mà càng cao trọng về bản thân của mình, khi mà mình bị xúc phạm thì cái quan niệm cao trọng đó trở thành một cái tầng cao, một cái giai tầng cao của sự phẫn nộ, vì nếu chúng ta là một con người bình thường thì chúng ta đã không phẫn nộ.

              Ở trong đời sống chúng ta tự thấy mình quan trọng. Bỗng nhiên mình bị người khác chỉ trích mình. Chúng ta càng đánh giá mình càng cao thì tự mình càng chuốt lấy cái khổ nhiều, mình nghĩ rằng mình phải là thế này mình phải là một như thế khác, thì khi mình không gặp những trái ý nghịch lòng thì mình cảm thấy rất là buồn, buồn nhiều lắm
            
             Đức Phật đã dạy do mình chấp trước vào danh sắc. Danh sắc ở đây được nói là thân tâm, và khi Đạo Phật nói về danh sắc về thân tâm Đạo Phật chỉ đến là chúng ta có thể chấp vào hình tướng của mình và có thể chấp vào những cái vui cái buồn ở trong lòng mình, đây là ta, đây là của ta, đây là tự ngã của ta, và ở đâu có sự dính mắc có cái vươn mang như vậy thì ở đó có phiền lụy. 

Nếu trong cuộc sống của chúng ta, mà là cuộc sống vượt ngoài sự đối đãi thì chúng ta cảm thấy thảnh thơi hơn nhiều, bài học này là bài học lớn của những bậc Mâu Ni, bài học lớn của các bậc đại sĩ, bài học lớn của những bậc minh triết mà chúng ta rất là khó tiêu hóa.

      Ai trong chúng ta đi vào trong cuộc đời cũng mong rằng mình bước lên những nấc thang của xã hội, và mình được trở thành con người thế này và con người như thế khác, trong lúc chúng ta quên rằng những điều đó sẽ dẫn chúng ta trả một cái giá quá lớn. Cái giá lớn nhất không phải là chúng ta bị đưa đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã, mà giá quá lớn là chúng ta phải khổ sở với nó nhiều hơn và chúng ta cứ dùng những điều đó như là cái được. Nhưng trong Đạo Phật nói là cái đó không phải là cái được mà cái đó là cái khổ.
               
Lời dạy của Đức Phật hết sức đặc biệt, hết sức rõ nét là về ý nghĩa của  nguyên nhân sâu xa mà chúng ta khổ lụy ở trong cuộc đời này, về cái có, và về cái không có, về cái được, và về cái không được,  và về cái gì đã làm cho mình phẫn nộ, mà phẫn nộ đến cực kỳ bi phẫn bởi vì chúng ta đã không đạt được cái gì mà mình nghĩ rằng mình xứng đáng có, mình phải là và mình phải được, nên chi chúng ta khổ.