Thursday, January 30, 2014

Ngày 30-1-2012 Chúc Mừng Năm Mới

Phật Học Vấn Đạo - Chánh Niệm trong cuộc sống hàng ngày qua ví dụ cái cột buồm.

Hỏi: Chánh Niệm trong cuộc sống hàng ngày qua ví dụ cái cột buồm.

(Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 16-1-2014, Minh Hạnh chuyển biên

TT Giác Đẳng: Như chúng ta được nghe TT Tuệ Siêu giảng bài kinh "Ví dụ về đặc tính của cột buồm" thì hình ảnh của cột buồm đó là chịu đựng những dây thừng, dây đai để cho cánh buồm làm chỗ dựa, làm cho những sợi giây điều khiển bởi sức gió thổi thì nó không bị trùng giữ cho cột buồm chắc chắn vững chãi, có sức chịu.

 Riêng đối với hành giả tu tập Chánh Niệm thì đầu tiên nên hiểu chánh niệm nghĩa là gì?

 Chánh niệm có nhiều cách định nghĩa: Chánh niệm được hiểu là sự ghi nhận, được hiểu như là sự tỉnh táo, được hiểu như là ý thức cái gì đang xảy ra. 

Ý thức cái gì đang xảy ra có lẽ là dễ hiểu nhất trong từ ngữ mà chúng ta thường đề cập. Điểm đặc biệt của Chánh Niệm là bất cứ điều gì xảy ra cho dù là,đẹp, là xấu, là vui, là buồn, là hay,là dở, là xấu hay tốt thì đều là đối tượng của Chánh Niệm. 

Thí dụ hôm nay, qúi vị lên chùa trưng một bình hoa trên bàn Phật và cảm thấy rất hoan hỉ trong lòng. Thì cứ để tự nhiên cho sự hoan hỉ sanh khởi. Nhưng mình nên có một chút ý thức là tâm đang hoan hỉ. 

Mình biết hay không biết, nhưng khi nghe người nào đó nói là có người khác họ chỉ trích việc này việc kia về mình, mình cảm thấy rất bực bội phiền hà thì mình nên ý thức rằng tâm mình đang bực bội đang phiền não. 

Rồi, sau một ngày làm việc mệt mỏi ở chùa về nhà mình cảm thấy rằng tay chân rã rời,  khi ngồi xuống một chỗ thì mình mới ý thức được sự  rã rời đó. 

Ở đây, chúng ta cần lưu ý những điều rất quan trọng của Chánh Niệm là sự ghi nhận chứ không cần phải có phản ứng, mình không cần phải làm gì hết chỉ cần nhận ra thấy rõ cái đó đang xảy ra. 

Chúng ta thường phản ứng. Khi mình nghe chuyện buồn phiền thì mình hay phản ứng với chính cái buồn phiền đó. Khi mình mệt thì mình phản ứng về chuyện đó. 

Bây giờ Chánh Niệm, việc đầu tiên là đem việc đó vào trong tầm nhìn của Chánh Niệm. Đơn giản như vậy. Chánh Niệm thì không đòi hỏi nhiều. Chánh Niệm là chỉ có ý thức liên tục về cái gì đang xảy ra. Cái nhìn đó không phải dễ, tại vì thói quen của chúng ta khi mình thấy chuyện gì mình cũng phản ứng. 

Nhưng, bây giờ mình chỉ ghi nhận. Mình ghi nhận mình đang tinh tấn, mình đang lười biếng, đang vui, đang buồn. Những gì đang xảy ra thì mình chỉ ghi nhận. 

Và ban đầu thì chúng ta hay dễ bị những chi phối này dẫn chúng ta đi lạc hướng. Người Trung Hoa ngày xưa có câu: "điệu hỏa ly sơn" là làm sao để đánh lạc hướng khiến cho chúng ta hướng sự chú ý ra ngoài. Ví dụ, mình là một người không thích bị phê bình chỉ trích, khi người ta chỉ trích mình thì cảm giác đầu tiên là cảm thấy bị động, cảm thấy khó chịu. Thường thường khi mình nghe người ta chỉ trích mình thì mình hay chỉ trích lại, mình nghĩ người đó cũng xấu, người đó đâu có gì tốt, người đó không bằng mình. Thì cái tâm mà chỉ trích cái phản ứng đó thì mình cũng nên biết là phản ứng thôi, tâm đang phản ứng, tâm đang bực bội biết mình đang bực bội.  Cái hay của Chánh Niệm là mình không cần phải suy nghĩ nhiều, không cần phải tìm ra một phản ứng mà chỉ ghi nhận và lẳng lặng ghi nhận thấy rõ trạng thái xảy ra ở trong thân và tâm của mình 

Về điểm này, có một số điểm rất lợi ích nếu chúng ta thường để ý đến tư thế hoặc là đi, hoặc là đứng, hoặc là nằm, hoặc là ngồi, thì chúng ta sẽ thấy rằng ở mỗi một tư thế như vậy tâm thái của chúng ta có khác. Có nhiều lúc có những tư thế phiền não lúc mình nằm thì có mà lúc ngồi thì không có. Có những sự phóng tâm lúc mình đi có nhưng lúc mình nằm không có. Có những cảm giác mà lúc mình nằm ngồi thì có mà đi đứng thì không có.  Bởi vậy, có một số trường hợp hành giả giảm bớt phiền não của mình bằng cách thay đổi oai nghi thay đổi tư thế, nhưng đó không phải là điều chúng ta bàn tại đây, mà chúng ta nhìn vào cái tư thế của mình đang đứng, đang ngồi, đang nằm, và biết là mình thấy rằng cái tâm của mình cũng như cái tư thế đó nhiều người rất là khó tin điều đó, có nhiều người họ suy nghĩ nhiều thì họ phải đi nhiều nhưng khi đứng lại thì không suy nghĩ được. Có người phóng tâm lúc đi tới đi lui nhưng lúc nằm xuống họ không phóng tâm nữa (mình nên để ý đến chuyện đó). Giống như hơi thở, không phải hơi thở nào cũng giống nhau, lúc mình thanh thản thở nó khác và lúc mình đang bực bội thì thở khác, mình đang ham muốn chuyện gì đó mình thở khác. Qua hơi thở mình tập được tánh hiện thực của nội tâm của mình.

Một điểm nữa, trong đời sống của chúng ta có những sự việc xảy ra tương đối rất nổi bậc, sợ khổ chẳng hạn. Đa số chúng ta đều rất sợ khổ, tại vì khi cái khổ nó đến mình cảm thấy đau, cảm thấy xót dạ, cảm thấy chua xót. 

Bây giờ với Chánh Niệm là chúng ta tập nhìn mặt mũi sự khổ đó. Ví dụ như mình có tánh hay tủi thân hay có tánh bực bội hay là buồn phiền chuyện gì đó thì bây giờ thay vì mình cứ chạy theo nỗi buồn mình nhai đi nhai lại, bây giờ mình thử tập nhìn nó xem nó làm sao, nhìn cái buồn phiền nó đến với đời sống mình coi nó làm sao, chúng ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng nỗi buồn phiền đó đến nó cũng bị chi phối bởi nhiều điều kiện. Qúi vị để ý, có những thứ mà khi mình bị bệnh mình lại cảm thấy bị chi phối nhiều mà những lúc mình khỏe thì mình không bị chi phối nhiều, lúc mình vui mình dễ tha thứ mà lúc mình buồn chuyện nhỏ mình cũng bực bội. 

Thì chuyện vui buồn hay hoan hi hay bực bội đến một phần từ bên ngoài nhưng một phần từ bên trong nội tâm của chúng ta do phản ứng nội tâm. Nên một hành giả, một đệ tử Phật tu tập thì mình nên biết được là phải nên duy trì Chánh Niệm đối với tất cả mọi trường hợp vui khổ không vui không khổ. 

Nói cách khác là, lúc đời sống bị  xáo trộn, lúc đời sống được hưng phấn, hoặc giả là lúc đời sống bình thường ở trong cả ba thời gian đó đều là cơ hội tốt để phát triển Chánh Niệm. 

Nếu không có chuyện gì làm, mình tập sống với hơi thở, tập nhìn vào hơi thở. Mình ngồi đợi xe chẳng hạn, thì  mình ngồi lẳng lặng nhìn vào hơi thở. Mình đi máy bay đường dài thì thay vì mình ngồi đó bực bội thì mình ngồi nhìn vào hơi thở. Nhìn vào hơi thở thường chúng ta có những thói quen cảm thấy thú vị. Tại vì nó làm cho chúng ta cảm thấy vững lòng. Hoàn cảnh nào mình cũng tu tập chánh niệm được. Hoàn cảnh nào cũng là cơ sở tạo nên Chánh Niệm. 

Khi mình có Chánh Niệm thì mình không sợ những điều khổ. Tâm của mình hay né, né cái này né cái kia. Các Ngài Thiền Sư các Ngài thường nói rằng đời sống mình là luôn né tránh sự khổ. Mình ngồi chán rồi mình đứng dạy, đứng dạy chán rồi mình đi, đi chán rồi mình ngồi, ngồi chán rồi nằm, mình thay đổi liên tục như vậy để tránh né cái khổ. 

Bây giờ, mình ngồi thiền sự đau nhức khởi lên, mới ngồi không quen thì cảm thấy chân đau nhức thì thay vì đổi chân liền mình tập nhìn vào cái đau nhức đó. Ban đầu thì mình thấy cái đau nhức mình sợ mình muốn đứng dạy hay là mình muốn cho mau hết giờ. Bây giờ mình tập nhìn vào cái đau nhức đó, nhìn trong vòng mươi phút, không được thì thôi, nhưng cứ tập nhìn vào cái đau nhức khi sự đau nhức hiện lên. 

Thì qúi vị biết, ban đầu chúng ta sợ đau nhức nhưng nhìn một lúc thì chúng ta thấy cái đau nhức có cơn của nó, nó đến nếu mình chịu đựng được thì nó đi, và mình trở lại bình thường, nếu mình không ráng thì mình không ngồi được.

Sống với Chánh Niệm hay ở chỗ là nó không nằm ở vị thế phê phán mà chỉ là lẳng lặng nhìn vào sự việc, nhìn một cách chậm rãi, nhìn một cách rất rõ ràng, ý thức được cái gì sanh cái gì diệt cái gì đến và đi. 

Người tu tập  có Chánh Niệm một thời gian thì thấy rằng cuộc sống là một gìòng chảy, nó luôn luôn là kết nối của Sanh và Diệt, từ cái vui buồn, cái khỏe hay không khỏe, từ cái cảm giác hạnh phúc hay khổ đau, từ những biến cố ngày và đêm, tất cả chỉ là sự luân lưu tuần hoàn giữa cái vui cái khổ cái đến và đi như là một giòng chảy. Cái quan trọng là mình nhìn có kỹ hay không. 

Chúng tôi nhớ hồi nhỏ có nghe được một mệnh đề là "Bóng nguyệt giòng sông" tức là bóng trăng ở trên giòng nước chảy, giòng nước thì thật sự không đứng yên một chỗ luôn luôn nó chảy, bóng trăng cũng vậy, ở một giây phút nào đó mình thấy bóng trăng hiện ở giòng sông mình nghĩ rằng nó nằm yên một chỗ nhưng kỳ thật thì không, nó có một giây phút nào đó nhưng mặt nước luôn luôn vẫn chảy và cái đó chỉ bóng trăng thôi. Nhưng, "bóng nguyệt giòng sông" thì cũng giống như cái vui cái buồn của cuộc sống này đây. Nếu chúng ta nghĩ cho kỹ thì chúng ta như một giòng sông và bao nhiêu hiện tượng về vui buồn, thương ghét, đúng sai, phải quấy nó giống như bóng nguyệt giống như bóng trăng, mà thấy bóng trăng hiện ở giòng sông không có nghĩa là trăng nằm trong sông là mọi thứ đứng yên một chỗ, ngay trên mặt hồ phẳng lặng cũng vậy, mọi thứ luôn luôn là tuôn chảy, nhưng chúng ta dở sống dở chết với chuyện đó, chúng ta làm lớn chuyện đó, và luôn luôn chúng ta nghĩ mình phải thế này phải thế kia. 

Thật ra đối với mười chuyện vui buồn xảy trong đời sống thì chỉ có một hay hai chuyện đáng để cho chúng ta phản ứng, còn lại chỉ là chuyện phù du. 

Cụ Nguyễn Du khi nói về cảm xúc nàng Kiều khi thăm mộ Đạm Tiên. Cụ Nguyễn Du đã gói ghém rất nhiều khi viết về Đoạn Trường Tân Thanh, nhưng phải nói một điều rằng trong câu mình thường nghe rất có thiền vị đó là "Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!”.

 Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa. Con người chúng ta có những cái rất phù phiếm. Chuyện vui buồn ở đâu đó mà nó trở thành chuyện vui buồn của mình. Chuyện thị phi ở đâu đó mà nó trở thành phản ứng sống chết của mình. Và cái chuyện mà mình phản ứng một cách quá nông nỗi, một cách quá nồng nhiệt, một cách quá nồng nàn, hay là quá ơ hờ với chuyện gì đó nó vốn là tình trạng cách biệt, tại vì chúng ta không có thấy được chuyện gì đang xảy ra trong cuộc sống. 

Và khả năng để nhìn vào mặt mũi của vui của buồn, của không vui không buồn, của đi, của đứng, của nằm, của ngồi, của thở vào thở ra thì là cả một nghệ thuật sống. Cái sống với Chánh Niệm cho phép chúng ta nhìn sự việc một cách càng ngày càng khách quan hơn, mình đứng ở ngoài mình nhìn hơn là mình phản ứng

 Thì khi mình tu tập Chánh Niệm thuần thục lâu ngày thì mình tin vào Chánh Niệm của mình hơn là tin vào những chi phối từ bên ngoài. Tin vào Chánh Niệm là trong hoàn cảnh nào cũng đem tất cả những gì xảy ra ở trong tầm nhìn của Chánh Niệm để ghi nhận, để thấy, để biết. Đơn giản như vậy.

Chúng tôi rất thích Chánh Niệm ở một điểm là ở trong cái nhìn của Chánh Niệm không cần là tốt, là xấu, là hay, là dở, là thế này, là thế khác, mình vui thì cái vui đó cũng là đối tượng của Chánh Niệm, và buồn thì cái buồn cũng là đối tượng của Chánh Niệm, mình khổ thì khổ cũng là đối tượng của Chánh Niệm, mình sung sướng thì nỗi sung sướng đó cũng là đối tượng của Chánh Niệm, như vậy thôi. Công việc của chúng ta là nhìn, nhìn một cách lẳng lặng, nhìn một cách rõ ràng. Nhìn để làm gì? Nhìn để chúng ta ý thức được việc gì xảy ra về thân và tâm của mình.

Đối với chúng tôi, ở trong cuộc sống có rất nhiều trường hợp  mà chúng tôi cảm thấy mình phí rất nhiều năng lực để hoang phí, không biết bao nhiêu cái chi phối và từ chỗ đó mình hiểu rằng cuộc sống có Chánh Niệm giúp cho chúng ta giảm sự hoang phí. Giả sử như trong một ngày từ lúc chúng ta thức dạy đến lúc chúng ta đi ngủ mà chúng ta phải suy nghĩ quá nhiều đối với những cái vui buồn thương ghét như Đức Phật Ngài dạy tám ngọn gió đời là; khen chê vui khổ đặng mất vinh nhục, chúng ta bị chi phối bởi nó nhiều thì tâm của chúng ta bị mất đi cái nội lực tại vì mình có phản ứng với những chuyện đó. 

Vị thế của Chánh Niệm là chỉ nhìn, nhìn một cách rõ ràng, nhìn một cách rộng rãi và nhìn tiếp tục nhìn, vui cũng được buồn cũng được, đẹp cũng được xấu cũng được, hay cũng được dở cũng được. Tại vì mình bực bội để làm gì? bực bội chỉ để bực bội thôi.

Chúng tôi nhớ một câu chuyện. Hồi xưa, chúng tôi có đến dự khóa tu ở West Virgina tại thiền viện Bhavana Society, có một giai thoại chuyện nhỏ nhưng lâu lâu nghĩ cũng  buồn cười là, có một vị Sư người Canada xuất gia tại chùa của Ngài Gunaratana. Thì tư cách của Ngài Gunaratana  Ngài tổ chức giống đa số các tự viện thiền là Chư Tăng đến giờ dùng cơm thì lấy bình bát bưng đến bàn thức ăn, ở trên bàn người ta sắp xếp tất cả mọi thứ, thức ăn và đồ ngọt và mình ăn gì thì để vào bình bát sau đó về chỗ ngồi, tụng kinh xong thì thọ thực, thọ thực xong rồi thì mỗi người tự đi rửa bình bát của mình ở trong nhà bếp, tại nơi đó có một hàng dài để những bồn để rửa bình bát, một lần như vậy thì có chừng mười vị có thể đứng rửa bát được. Và câu chuyện chúng tôi muốn kể đó là lúc đó chúng tôi phải nói rằng không có cẩn thận lắm thành ra khi mở nước thì nước văng lên mạnh và do vậy khi chúng tôi rửa bình bát xong thì ở phía trước ngực y áo  chúng tôi bị ướt vì nước trong bồn văng ra. Thì vị Sư người Canada có lẽ Sư thấy chúng tôi như vậy một vài lần, rồi một lần vào buổi trưa chúng tôi ra bên ngoài để dọn dẹp thì Sư nói với chúng tôi là: "Sư Jotika, tôi thật sự có cảm giác rất khó chịu khi mà Sư rửa bình bát để nước văng vào y như vậy, mỗi lần Sư rửa xong thấy y của Sư dính nước sao tôi khó chịu, tôi chịu không nổi, tôi muốn rửa bình bát giùm cho Sư" Thì chúng tôi hiểu được tâm trạng của Sư đó. 

Có nhiều khi mình bực bội khó chịu mặc dù đó không phải là việc của mình mà mình bực quá thì mình cũng không biết làm sao. Thì đó chỉ là một thí dụ thôi, có rất nhiều thí dụ như vậy ở trong đời sống này, chúng ta vui hay buồn, thích hay không thích với những chuyện mà gọi là "khéo dư nước mắt khóc người đời xưa" cái chuyện đó là chuyện của thiên hạ nhưng mà mình vẫn lôi kéo cái vui cái buồn vào mình.

Cũng như qúi vị nghe câu chuyện của Triệu Khuông Dẫn, người sáng lập ra nhà Tống ở bên Trung Quốc. Đó là thời còn thanh niên trai trẻ, Triệu Khuông Dẫn vào xem cải lương xem hát tuồng thì thấy cảnh một người cầm dao cầm mác rượt đuổi một người phụ nữ mang thai và trong lúc đang xem như vậy thì nổi cơn bực tức lên và vị này từ ở dưới chỗ ghế ngồi của khán giả giương cung bắn chết người diễn viên. Thì thật ra cái cảnh mà một người rượt đuổi một phụ nữ mang thai vừa chạy vừa cầu cứu thì chuyện đó nếu ở ngoài đời thì bất nhẫn thật, nhưng dùng cung tên bắn một diễn viên thì mình quên rằng người kia chỉ là diễn viên. Như khi chúng ta xem phim thường hay thích nhân vật này không thích nhân vật kia, nói cho cùng những người đóng vai ác hay vai đáng ghét mà họ đóng mà mình ghét được tức là họ đóng vai đó thành công rất là xuất sắc rất nhập vai. 

Thì chúng tôi thấy rằng cái vui buồn của chúng ta đối với cuộc đời nó cũng vui buồn như cuốn phim, như là bây giờ chúng tôi được nghe có bộ phim có đến 800 tập trong một bộ thì chúng ta xem phim thì chúng ta vui chúng ta buồn với nhân vật này nhân vật kia kỳ thật thì tất cả những  gì được diễn trong cuốn phim nó chỉ là do người đạo diễn tạo nên thôi. 



Thì cuộc đời có nhiều khi như một cuốn phim, chúng ta tập trôi một cách lẳng lặng không phản ứng không bực bội giống như là mình ở bên ngoài phim thì phim là phim và người diễn là người diễn như vậy Chánh Niệm cho chúng ta được sự dẻo dai được sức bền bỉ đối với sự việc tại vì Chánh Niệm càng thuần thục thì  càng ít bị chi phối bởi những thứ phiền não ở bên ngoài mà chỉ nhìn và không phản ứng gì./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Chúng tôi nghe nhiều Phật tử thỉnh thỏang họ muốn tu thiền hay muốn hành đạo nhưng không có điều kiện, những người này luôn luôn có một số lý do và dĩ nhiên là những lý do này đều là những lý do chánh đáng, thí dụ như mẹ già đang đau bệnh không thể đi tu tập được, nhưng chúng ta cũng phải nhận rằng đa số chúng ta không làm được điều chúng ta gọi là tu tập, bởi tại vì chúng ta chưa thật sự thấy được giá trị, nếu chúng ta thấy được giá trị của chánh pháp thì dù rằng bị ngăn cản năm bảy lớp rào chúng ta cũng cố vượt qua. "Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua ". Nhưng khi chưa cảm nhận thật sự thì chúng ta có một thái độ mà có thể dùng ngôn ngữ dân gian gọi là thái độ chập chờn, chập chờn tức là lãng bãng đi ra đi vào nhưng thật sự chưa có cương quyết, chưa có một quyết định gì gọi là thật sự để chúng ta theo đuổi hết thì điều này là một điều đáng tiếc ở trong cuộc sống của mình.

TT Thích Giác Đẳng - Kinh Pháp Cú kệ 259 - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến, Giác Ngộ, Minh Triết cho đời sống

THAM THIỀN ĐÚNG LÀ VIỆC LÀM CỦA BẬC ĐẠI TRƯỢNG PHU 
BẢN TRIỀU THAM THIỀN LỤC
Trong bài thơ của Hòa Thượng Tịch Thất Nguyên Quang (Jakushits Genko, 1290-1367)có đoạn rằng:

"Tham Thiền ấy việc đại trượng phu,
một mảnh thân tâm thép giữa thành.
Xem nào xưa kia chư Phật Tổ,
vọng tưởng đùa chơi sợi chỉ manh."

Trong Bích Nham Lục (Hekiganroku) cũng có câu rằng: (Phàm muốn kiến lập tôn giáo phi phàm (Thiền), phải nên là bậc anh linh hào kiệt."

Trong câu chuyện của tien sinh Tây Điền Thốn Tâm (Ki Đa Lang) có đề cập đến việc có người đến hỏi rằng Thiền là gì. Tiên sinh Bắc Điều Thời Kính trả lời rằng: - Nếu như người có dũng khí thì lấy đao đâm vào bụng thử xem !

Chuyện Xưa Tích Cũ - Muôn sự của chung


MUÔN SỰ CỦA CHUNG

Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Ca dao Việt Nam có câu: 

Người đời muôn sự của chung, 
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. 

Câu ấy ngụ ý khuyên răn người đời nên ăn ở rộng rãi, đừng quá ích kỷ, nên thương yêu kẻ nghèo khó, sa cơ thất thế. 

Xưa kia, có vị đạo sĩ tu tiên tại núi Lao. Nhơn lúc rảnh rang, đạo sĩ xuống núi để dọ xét tính tình người dưới trần tục. Đạo sĩ bèn giả dạng làm phu nghèo khó. Lúc chợ đang nhóm họp đông đảo, đạo sĩ đến gần một anh bán trái đào mà nói: -Tôi đang khát nước. Anh cho tôi xin một trái. 

Anh nọ nói nhanh: -Ông lão này vô duyên quá! Ở đây chỉ có bán với buôn, ông ngủ mê à? Tôi chẳng cho ông trái nào cả. 

Đạo sĩ nài nỉ: -Anh còn hàng trăm, hàng ngàn trái đào chồng chất trển cỗ xe bò này. Cho tôi một trái, thiết tưởng anh chẳng thiệt hại gì đâu? Anh nên suy nghĩ lại. 

-Đừng nói nhiều vô ích, ông hãy đi nơi khác. 

Đạo sĩ mỉm cười: -Bây giờ tôi mua một trái. Anh bán không? 

-Đưa tiền cho tôi xem. 

Đạo sĩ đưa tiền cho anh nọ rồi ông cầm một trái đào mà ăn ngon lành. Ăn xong, ông lại nài nỉ: -Cho tôi xin thêm một trái. Tôi còn đói quá. 

Anh nọ cương quyết từ chối. Hai người cãi vã, ban đầu còn êm thấm, lần lần sinh to tiếng. Người qua kẻ lại xúm nhau xem, ngày càng đông. 

Đạo sĩ cáo từ, xin phép đi nhưng anh nọ nắm tay lại: -Ông định ăn cắp của tôi trái đào này à? 

Người đứng xem bèn bàn tán, có kẻ nói: -Thôi! Tôi sẵn sàng trả tiền trái đào này dùm cho lão ấy. 

Đạo sĩ gật đầu cám ơn người lạ mặt, ông ta ung dung ăn, sau chót, ông cầm cái hột đào, thổi bùa phép vào, đem chôn dưới đất, ngay nơi ông ta đứng. 

Chôn xong, ông ta nói to: -Bà con cho tôi xin một chút nước sôi. 

Ai nấy ngạc nhiên, tò mò muốn xem ông lão nọ giở trò gì. Một người tình nguyện chạy vào quán nước mượn cái ấm nước sôi, đem ra trao cho lão. 

-Này, ông dùng nước sôi để làm gì? 

Ông lão đáp: -Thiên cơ bất khả lậu. 

Nói xong ông tưới nước sôi ngay nơi chôn hột đào khi nãy. 

Thế rồi, trong phút giây, mặt đất nứt nẻ, hột đào lên mộng, nở ra gốc con hai cái lá xanh tơ mơn mởn, gốc cây đào to lớn dần, mọc thêm nhánh to, nhánh nhỏ. Lá trổ xum xuê ngay các chồi non. Trong phút chốc, cây đào nọ trổ bông. Bông lớn lên, kết trái, ban đầu trái còn xanh nhưng bỗng nhiên mùi thơm ngào ngạt dâng lên bát ngát. Cả đám cử tọa reo hò: -Xem kìa, trái chín hết rồi. 

Lão ta đáp: -Nếu trái đã chín, ta sẵn sàng hái xuống, tặng cho bà con ở chợ này mỗi người ăn một trái cho biết. Nó giống đào tiên, lâu lâu mới trổ một lần. 

Ban đầu, nhiều người do dự, bàn tán lợi hại: -Tại sao lão này tử tế quá, hay là đào tiên giả? 

Nhưng ăn xong, ai nấy đều nhìn nhận: -Đào ngon thiệt. 

Họ xin thêm một người một vài trái, đem về làm giống và tặng cho bà con họ hàng. 

Thái độ của ông lão luôn luôn vui vẻ, ông leo lên tận ngọn cây, hái đến trái cuối cùng, đem xuống tặng. Hái xong, lão nói to: -Bây giờ tôi xin kiếu bà con, cho tôi mượn cây dao. 

Cầm lấy cây dao, lão đốn góc đào nọ, vác lên vai, đi lững thững về dãy núi xa xa. 

Nhưng anh bán đào bỗng la hoảng, khi nhìn thấy cả xe đào biến mất, chẳng còn một trái. Té ra, nãy giờ lão già hóa phép đem tất cả đào của hắn phân phát cho khách qua đường, và cái gốc cây đào mà lão vác trên vai chính là cái gọng xe, bị lão chặt đứt hết một khúc. Anh bán đào khóc hu hu trong khi người xung quanh cười rộ …

Chuyện cười trong ngày

Sợ không kham nổi phần thưởng

Một tiều phu bị rơi rìu xuống sông, anh đang ngồi buồn rầu nhìn dòng nước xoáy thì Bụt hiện lên an ủi: "Đừng buồn! Ta sẽ mò chiếc rìu cho con". Dứt lời, Bụt biến mất và loáng cái ông đã ngoi lên, tay cầm chiếc rìu bằng vàng.

- Đây có phải rìu của con không?

- Thưa Bụt, không phải rìu của con.

- Bụt lại lặn xuống nước mò lên một cái rìu bạc, chàng tiều phu vẫn không nhận. Lần thứ ba, Bụt mò lên cả ba chiếc rìu vàng, bạc và sắt, anh chỉ nhận chiếc rìu sắt là của mình. Thấy anh nghèo túng mà thật thà chất phác, Bụt liền cho anh cả ba chiếc rìu...

-... Vài năm sau, tiều phu nọ đi dạo cùng vợ trên bờ sông xưa, không may cô vợ trượt chân ngã xuống nước. Anh chàng thở phào nhìn xoáy nước, định bỏ về thì Bụt lại hiện ra bảo:

- Ta sẽ đem vợ lên cho con, đừng buồn!

- Anh tiều phu chưa kịp mở miệng thì Bụt đã hiện lên trên mặt nước cùng Cindy Crawford và hỏi: Đây có phải vợ con không?

- Tiều phu loạng choạng suýt ngã, tim đập thình thịch, vội vàng lí nhí: Dạ phải...

- Nói dối! Ta sẽ trừng phạt ngươi!

- Trước cơn thịnh nộ hiếm thấy của Bụt, chàng đốn củi tội nghiệp quỳ xuống nghẹn ngào: Mong Bụt hiểu cho, nếu con nói "không" thì Người lại mang lên Claudia Schifer và tiếp tục "không" thì người sẽ vớt đến vợ con, khi ấy con mà bảo "đúng" thì Bụt lại cho con cả ba nàng. Thế thì con chết mất! Không thể nào kham nổi ! Hu hu!

Wednesday, January 29, 2014

Ngày 29-1-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Sự chướng ngại lớn nhất của sự tu hành là gì?

 Hỏi : Sự chướng ngại lớn nhất của sự tu hành là gì? Xin sư từ bi giải thích cho chúng con

. (Kinh Pháp Cú kệ 80 giảng trong lớp Diệu Pháp, Như Trúc chuyển biên )

TT Trí Siêu: Thật ra khi chúng ta nói sự trở ngại lớn nhất trong đời sống tu hành thì chúng ta không thể khẳng định cái gì là trở ngại lớn nhất vì mỗi người có một cá tánh khác nhau, có lập trường khác nhau, có sở hành khác nhau. Chính vì cá tánh sai biệt giữa mỗi người cho nên tất cả những người tu hành đều có một chướng ngại tinh thần của bản thân nên chúng ta không thể nói một cách quả quyết rằng chướng ngại tu hành lớn nhất là gì.

Nhưng ở đây khi chúng tôi trình bày với các Phật tử về chướng ngại lớn nhất thì chúng tôi cũng xin được nói sơ qua về 6 cá tánh của chúng sanh. Có một số chúng sanh nặng về tánh ái tham, có những người nặng về tánh sân, có những người nặng về tánh si, có những người nặng về tánh tầm, hay là tư tưởng nghĩ ngợi nhiều, có những người nặng về tánh đức tin, có những người thiên về tánh trí tuệ.

Nếu như một người nặng về tánh ái, tâm ái luyến nặng thì đối với người đó, sự chướng ngại lớn lao nhất trong việc tu tập là khi họ gặp cảnh khả ái khả ý, gặp những cảnh hoan hỷ thích ý, họ khởi lên tâm ái luyến thì phiền não ái tham nầy là chướng ngại lớn nhất cho sự tu hành của họ.

Còn đối với người có tánh sân thì trở ngại lớn nhất của họ là sân độc cái, với tâm bất mãn, bức xúc với cảnh trái ý nghịch lòng, đó là trở ngại lớn nhất của họ.

Còn người có tánh si thì sự trở ngại lớn nhất của họ là sự dốt nát, sự thiếu hiểu biết, hay chúng ta gọi là vô minh. Đây là sự trở ngại lớn nhất của họ trong việc thực hành pháp đưa đến trạng thái giải thóat hay đạt đến cảnh giới cao hơn.

Còn với người có tánh tầm thì trở ngại lớn nhất của họ là có ngoại cảnh chi phối. Khi đó tâm của người nầy liền rời khỏi đề mục trong hiện tại và họ phóng túng, nghĩ ngợi về những cảnh đến gần nhất. Đây là trở ngại cho người có tánh tầm.

Người có tánh đức tin thì trở ngại lớn nhất là thiếu sự thẩm sát. Khi một người nặng về niềm tin nhưng không có trí tuệ để thẩm sát, để suy xét các sự việc xảy ra thì lúc bấy giờ là trở ngại lớn nhất cho việc tu hành vì họ gặp cái gì họ cũng tin, nghe cái gì cũng tin, ai nói sao cũng tin, phải cũng tin mà quấy cũng tin, chánh cũng tin mà tà cũng tin.

Người nặng về trí tuệ thì trở ngại lớn nhất của họ, ngược lại tức là thiếu đức tin cho việc tu tập. Người có trí tuệ nhiều thì gặp gì cũng suy diễn ra, gặp gì cũng có thể nghiên cứu suy xét nhưng vì thiếu niềm tin nên dễ bị sự hoài nghi chi phối, đối với những hạng người nầy họ phải dẹp bỏ tâm hoài nghi thì mới tiến tu trong Phật Pháp được.

Vì do cá tánh khác nhau nên mỗi người có sự trở ngại khác nhau. Ở đây chúng ta tùy theo cá tánh của mình và chúng ta nên biết trở ngại của mình là gì thì chúng ta sẽ khắc phục ở chỗ đó. Chúng ta khắc phục bằng cách chúng ta dùng trí tuệ để suy xét những trở ngại đó để loại trừ nó ra. Hoặc là chúng ta kham nhẫn hoặc chúng ta né tránh. Ở đây, câu hỏi nầy là một câu hỏi có giá trị nhưng nếu trả lời một chiều thì không hoàn toàn đem lại lợi ích lớn lao cho mọi người. Trong sự tu tập của chúng ta, đối với kẻ phàm phu chưa thấu triệt pháp của bậc thánh, chưa liễu tri được chân tướng của vạn pháp, chưa đạt được mục đích giải thóat thật sự thì lúc bấy giờ đối với tâm tánh phàm phu, chúng ta còn rất nhiều chướng ngại, đường đi của chúng ta rất nhiêu khê, do đó sự tu tập của chúng ta, chúng ta phải tự mình dẹp bỏ những chướng ngại tinh thần để chúng ta thành tựu được sự tu tập tốt đẹp

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Chúng ta có thể nhìn thấy tâm tư của chúng ta .  Người không khéo tu tập thì nó giống như cái lọc nước vậy.  Nước trong , nước sạch thì nó cho đi, và cái gì còn lại  thường thường  là cặn cáu, là cái gì không được tốt đẹp, và chính vì vậy đôi lúc Đức Phật Ngài dậy chúng ta lên làm một công việc của một người khách quan là hãy đứng từ địa chỉ khách quan, để nhìn lại những phiền não chính mình và phải tỏ thái độ, thái độ đó rất rõ ràng, thái độ đó là hãy xem phiền não như ở bài kệ này nói rằng đó là những cánh hoa vassikaa đã uá tàn, đã không còn đáng để hoan hỷ, không còn đáng để tha thiết nữa, là nên rủ bỏ, rủ bỏ một cách không thương tiếc.
TT Giác Đẳng - Kinh Pháp Cú kệ 377 - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến, Giác Ngộ, Minh Triết cho đời sống

KHÔNG DÍNH BỤI 
Zengetsu, một thiền sư Trung Hoa đời nhà Đường, đã viết lời khuyên sau đây cho những thiền sinh của ông:

Sống trong cõi trần gian nhưng giữ không dính mắc vào bụi bặm của trần gian là con đường của một thiền sinh thật sự.

Khi chứng kiến hành vi tốt đẹp của một người khác, hãy tự khuyến khích mình noi theo gương người đó. Nghe được về hành vi lỗi lầm của một người khác, hãy tự khuyên nhủ mình không nên bắt chước làm theo chuyện đó.

Dù cho một mình trong một căn phòng tối, hãy coi như con đang đối diện một vị khách quý. Hãy bộc lộ những cảm nghĩ của con, nhưng đừng nên vượt quá cái bản tính chân thật của con.

Sự nghèo khó là châu báu của con. Đừng bao giờ đánh đổi nó lấy một cuộc sống dễ dãi.

Một người có thể tỏ ra là một kẻ ngu dại nhưng tuy nhiên không hẳn là một kẻ như vậy. Người đó có thể chỉ đang phòng giữ sự khôn ngoan của mình một cách cẩn thận.

Những đức hạnh là thành quả của kỷ luật tự giác và không rơi rớt xuống từ bầu trời của chúng như là mưa rơi hay tuyết đổ.

Sự khiêm tốn là nền móng của mọi đức hạnh. Hãy để cho những người sống quanh con phát giác ra con trước khi con tự làm cho họ biết tới mình.

Một tấm lòng cao quý không bao giờ tự phô ra trước. Những lời của nó như ngọc báu hiếm hoi, ít khi được phô trương ra và có một giá trị lớn lao.

Đối với một thiền sinh , mỗi ngày là một ngày may mắn. Thời gian trôi qua nhưng người đó không bao giờ tụt lại phía sau. Không có sự vinh quang hay nỗi nhục nào có thể làm người đó động tâm.

Hãy tự khiển trách mình, đừng bao giờ trách móc một người khác. Đừng tranh cãi về điều đúng hay sai.

Một vài sự việc, dù đúng, đã bị coi như là sai từ bao nhiêu thế hệ. Bởi vì giá trị của cái đúng có thể sau nhiều thế kỷ mới được thừa nhận, cho nên không cần thiết phải khao khát sự đánh giá ngay cấp thời.

Hãy sống với đại nghĩa và để thành quả cho luật vĩ đại của vũ trụ. Hãy trải qua mỗi ngày trong sự trầm ngâm bình an.

Chuyện Xưa Tích Cũ - Dốt đặc hơn chữ lỏng


DỐT ĐẶC HƠN CHỮ LỎNG

Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Ông bá hộ nọ sinh ra hai người con gái xinh đẹp. Với bản chất lo xa, ông gả đứt con gái thứ hai cho một thanh niên dốt đặc, suốt ngay anh ta chỉ biết chăm lo việc đồng áng. Riêng về đứa con thứ ba, ông gả cho một chàng nho sĩ đang học hành dở dang.

Hôm nọ, nhân lúc rảnh rang, ông bá hộ rủ hai chàng rể đi dạo chơi ngoạn cảnh. Trên dòng sông trong vắt, nước chảy êm đềm, ông thấy một con ngỗng vừa lội, vừa kêu inh ỏi.

Ông bèn hỏi: -Này hai con, tại sao con ngỗng kêu to như thế?

Chàng rể thứ ba, ỷ mình biết chút ít chữ nghĩa, bèn vỗ trán suy nghĩ rồi long trọng nói: -Trường cảnh tắc đại thanh.

Trong khi ấy chàng rể thứ hai giải thích: -Con ngỗng kêu to vì trời sanh nó sẵn như vậy.

Chập sau, ông bá hộ gặp một con vịt lội tung tăng trong ao, ông hỏi hai chàng rể: -Tại sao nó nổi phêu trên mặt nước.

Chàng rể nho sĩ nói câu chữ: -Đa mao thiểu nhục tắc phù.

Chàng rể nông dân lắc đầu: -Chẳng có gì lạ cả. Trời sanh nó nổi thì nó nổi…

Mãn cuộc du ngoạn, ông bá hộ đưa hai chàng rể về nhà uống rượu, ông gật gù khen chàng rể thứ ba: -Con học nhiều, rành sách vở thánh hiền. Hồi nãy con giải đáp rành rẽ, cha lấy làm vui lòng …

Người rể thứ hai nghe vậy, tỏ thái độ bất mãn: -Vậy chớ hồi nãy khi thấy con ngỗng kêu lớn tiếng, dượng ba nói câu gì?

Người rể thứ ba đáp: -Trường cảnh tắc đại thanh, nghĩa là cổ dài thì kêu tiếng to lớn.

Người rể thứ hai đáp: -Vô lý quá. Vậy chớ con ếch, con ển ương đâu có cổ dài, chúng nó vẫn kêu to! Còn dượng cắt nghĩa tại sao con vịt nổi phêu trên mặt nước?

-Tôi nói: đa mao thiểu nhục tắc phù, nghĩa là nhiều lông ít thịt thì nó nổi.

Người rể thứ hai cãi: -Vậy chớ chiếc thuyền đâu có lông, đâu có thịt mà nó vẫn nổi phêu trên mặt nước! Tóm lại, hai câu chữ nho của dượng Ba đều … trật cả. Theo ý kiến nông cạn của tôi thì “ngỗng kêu lớn tiếng.” “vịt nổi trên mặt nước.”đều do trời sinh ra như thế, chẳng cần giải thích lôi thôi.

Người rể nho sĩ lắc đầu, nhìn nhận rằng lời nói ngang tàng của chàng dốt cũng có lý.

Ông bá hộ bèn cười khì, lẩm bẩm: -Thế mới hay, lời tục thường nói: “Thà dốt đặc còn hơn chữ lỏng.”

Chuyện cười trong ngày

Không thể uống thứ khác

Một hành khách vô tình đi lạc vào buồng lái trên máy bay, bà ta nhìn thấy tổ lái đang nốc rượu tì tì thì rất bất bình.

- Này, các anh là phi công mà lại dám uống rượu khi đang làm việc à? Sao các anh không uống nước quả ý?

- Viên phi công chính liền ngẩng lên lè nhè đáp: Thế bà nghĩ rằng uống nước quả sẽ làm chúng tôi bớt sợ khi đang lơ lửng trên trời hay sao?

Tuesday, January 28, 2014

Ngày 28-1-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Năng lực của định

Hỏi: Năng lực của Định

(Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, Minh Hạnh chuyển biên)

TTGiác Đẳng: Trong kinh điển của đạo Phật trên phương diện pháp hành thì chữ Định được dịch qua nhiều chữ Phạn khác nhau, đôi khi chúng ta dịch là Samadhi cũng là Định, hay là Tam Muội, hay là Ekaggata là Nhất Tâm cũng là Định.

Chữ Định ở tại đây khi chúng ta dùng chữ Samadhi có nghĩa là cái gì đó chúng ta chú ý, làm quen, sống với nó mà lập đi lập lại nhiều lần thì nó cho chúng ta một kết quả khác. 

Một thí dụ các vị Thiền Sư hay dùng. Mình nấu nồi cơm mà mình nấu một lúc rồi tắt rồi nấu rồi tắt, tức là nó không có tánh cách liên tục, không có tánh cách bền, không có độ thường xuyên liên tục thì cơm sẽ bị sình cho dù chúng ta nấu bao nhiêu phút đi nữa, nếu chúng ta nấu một chút rồi tắt thì nồi cơm sẽ bị nguội và khi nấu lại rồi tắt thì kết quả là cơm sẽ bị sình. Thì một hành giả khi ngồi thiền mà ngồi thiền một chút rồi chạy ra ngoài tán ngẫu hay vui chơi nghe nhạc v.v... rồi trở vô ngồi thiền tiếp tục thì điều đó làm cho chúng ta mất đi sự bền bỉ vì nó không được liên tục. Mình làm cái gì cũng vậy, nếu việc đó là việc mình làm một cách liên tục một cách bền bỉ thì nó tạo ra năng lực của tâm định.

Năng lực của tâm định có ba khía cạnh mà chúng ta nói đến tại đây là; từ lúc chúng ta không có định cho đến lúc có định nó là một hướng đi đối nghịch ở một điểm là ban đầu chúng ta tập trung vào một thứ chúng ta cảm thấy rất chán. Tại sao rất chán? Là tại vì bản chất của chúng ta con người sống ở cõi dục giới có những pháp mà Đức Phật gọi là pháp ngăn ngại pháp triền cái ở trong đó có cái tham, tham là đi truy tìm, ở trong kinh thường nói là truy tìm chỗ này truy tìm chỗ kia. Giống như một đứa nhỏ lăng xăng chơi đồ chơi này chán nó kiếm cái khác, nó ngồi không yên giống như con lật đật. Và người mà có khả năng về tâm định đầu tiên là phải vượt qua trạng thái nhàm chán đó. Ví dụ như hàng ngày mình nghe pháp, hàng ngày mình nói chuyện điện thoại, hàng ngày mình lên internet, và khi mình vào internet, mình nói chuyện điện thoại, mình phải làm việc này việc kia thì tâm mình liên tục nhảy từ chỗ này nhảy qua chỗ kia."Tâm viên ý mã" thái độ chuyền từ cành này qua cành khác, chuyển từ đối tượng này qua đối tượng khác, đó là trạng thái phan duyên, trạng thái tự nhiên của tâm chúng ta nó phan duyên theo từng cảnh, túc là nó đi theo cái này cái khác, và chúng ta tạm gọi đó là sự đa dạng, sự phong phú, sự khởi sắc. Nhưng sự đa dạng phong phú và khởi sắc đó khiến cho chúng ta mất đi khả năng tập trú vào một chỗ.

Khi chúng ta bắt đầu tập trú vào một chỗ, tạm gọi là mình cột nó vào trong hơi thở thì giai đoạn đầu rất là nhàm chán, cái giai đoạn nhàm chán đó là giai đoạn tất nhiên là phải có, bắt buộc phải có. Một ở trong những trạng thái đi ngược lại với tâm định của chúng ta nhiều nhất là internet, có những người họ sống với internet hầu như là ba bốn tiếng, có khi cả ngày, là tại vì ở trên đó cho chúng ta muôn thứ, hết tìm cái này lại bắt qua tìm cái kia. Và tại sao kỷ thuật internet lại được người ta đem vào đời sống nhiều như vậy? Là tại vì nó phù hợp với cá tính của chúng ta. 

Nhưng chúng ta nói như vầy, khi còn trong giai đoạn bắt đầu một hành giả tu tập với tâm định thì hành giả phải vượt qua giai đoạn nhàm chán đó, khi vượt qua giai đoạn nhàm chán đó thì một lúc hành giả sẽ đạt đến chỗ mà mình cảm thấy rằng dễ dàng để tập trung và trong sự tập trung đó mình đạt đến một trạng thái trong đạo Phật gọi là khinh an là cảm thấy nhẹ nhàng cảm thấy là mình không bị bức rức không bị buồn chán không bị buồn nản. Và lúc bấy giờ có sự khinh an đó thì đời sống mình cảm thấy thật sự là nhẹ nhàng, thật sự là sống, thật sự thoải mái với điều đó.

Chúng tôi lấy một ví dụ là một người còn trẻ mới lớn lên họ có quá nhiều sự lựa chọn về hướng đi của đời sống, họ chụp cái này buông cái kia. Thì thật ra họ đang bị dằn co bởi nhiều thứ. Và khi bị dằn co nhiều thứ như vậy đến một lúc nào đó họ tìm được một công việc mà họ thật sự thích, họ thật sự tìm được một nơi họ thật sự sống được, họ thật sự tìm được nơi mà họ an lập được, thì khi họ tìm được nơi an lập thì tự nhiên họ cảm thấy rất nhẹ nhàng không còn bị trì kéo không còn bị dằn co bởi nhiều thứ nữa, thì lúc đó là họ đạt đến mức độ khinh an nhẹ nhàng. Hành giả đầu tiên khi tu tập về định lực thì ai cũng biết rằng tâm của chúng ta vốn chạy nhảy lung tung, nó đuổi bắt nhiều thứ bây giờ giữ nó ngồi yên chỗ thì nó bực bội giống như là một con khỉ bị cột vào cây, rồi đến lúc nào đó tâm mình thuần hơn một chút thì mình sẽ cảm thấy dễ chịu  nhẹ nhàng thoải mái và lúc đó chúng ta lại đạt đến một cái giá trị của Samadhi một cái lực của samadhi, đó là sự lắng đọng.

Trong từ ngữ của Thất Giác Chi đôi khi định nghĩa là khinh an hay là tịnh giác chi, chữ tịnh và chữ khinh an được định nghĩa chung, nhưng chữ tịnh được hiểu là sự lắng đọng. Sự lắng đọng của tâm tư làm cho tâm tư của chúng ta được trong sáng, cái trong sáng đó là năng lực của Samadhi là năng lực của Định. Đời sống của chúng ta lúc nào mà có trăm muôn ngàn mối đủ thứ chuyện lăn xăn thì thật ra chúng ta sống thì có sống nhưng chúng ta không có chiều sâu, chúng ta ăn, ngủ cũng không cảm thấy thật sự là ăn, ngủ, thì nói đến làm việc chúng ta cũng không đặt hết tâm tư để làm việc. Tuy nhiên, khi đời sống của chúng ta có tập trung rồi thì nó có lắng đọng, nó có lắng đọng rồi thì có sự định tịnh. Chữ định tịnh rất là hay, định là sự tập trú và tịnh giống như chúng tôi gọi là nước trong lắng xuống. Sự định tịnh làm cho mình nhận thức rõ, và cảm thấy mọi thứ không còn những lộn xộn, không còn những dày xéo, không còn những trăn trở nữa, đó là sức mạnh của Định.

Nhưng để đạt đến sự định tịnh như vậy chúng ta sẽ thấy bên cạnh đó hành giả sẽ có khả năng gọi là cái đức bền, là sự bền bỉ của chúng ta đối với chuyện gì. Trong cuộc sống của chúng tôi thật sự rất thích những giá trị mà nó bền bỉ. Ví dụ như có nhiều Phật tử đi chùa thì rất thích những người mà gọi là đại thí chủ chẳng hạn, nhưng đối với chúng tôi thì những Phật tử lâu năm, hai ba chục năm đi chùa quen biết nhau thì chúng tôi rất là cảm kích người Phật tử đó. Và một chuyện khác trong đời sống là mình làm chuyện gì đó mà mình có khả năng bền bỉ ví dụ như trường hợp chúng tôi làm rơom Phật Pháp Buđdhadhamma này trước là rơom Diệu Pháp. Thật ra chúng tôi hiểu rằng năng lực thì mỗi ai làm việc cũng có nhiều cách làm việc khác nhau nhưng đối với chúng tôi là không cần làm nhiều mà làm một ngày 2 tiếng đồng hồ mà một số chư tăng một số Phật tử có thể duy trì rơom từ ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, đó là điều chúng tôi cảm thấy quan trọng. Bởi vì trong đời sống của Thiền môn có một số sinh hoạt mà được giữ thường xuyên, những lợi ích những sinh hoạt đó tạo cho chúng ta khả năng làm việc gì một cách bền bỉ.

Chúng ta đừng tưởng rằng chữ bền bỉ này không liên quan gì đến chữ định, chữ bền bỉ có nghĩa là gắng bó với một cái gì đó trong thời gian dài rất dài. Khi chúng ta gắng bó thời gian rất dài thì sẽ nhận ra được cái giá trị là chúng ta thoải mái hơn, dễ chịu hơn và từ chỗ đó chúng ta đạt được sự thuần thục. Thật ra thì nói về cái chuyện ganh tài đua sức thì ở trong đời này người ta nói "núi cao hơn núi người cao hơn người" nhưng có một điều mà ít có người có được cái khả năng gọi là bền bỉ kiên nhẫn liên tục gắng bó với cái gì đó lâu dài. Và khi chúng ta tu tập mà chúng ta thấy được chuyện đó thì chúng ta sẽ rất là hoan hỉ.

Chúng ta không cần phải làm một việc gì đại sự to tát nhưng đối với hơi thở của mình cái khả năng mình có thể theo dõi nó thường xuyên, rồi đối với cuộc sống của mình, những sinh hoạt tu học nào đó mà mình có thể làm bền bỉ từ tháng này qua tháng khác bởi vì trong lý duyên hệ của Phật Pháp có cái gọi là thường thân y duyên hay là thường cận y duyên, cái gì mà chúng ta làm thường thì nó bền.

Thì đối với chúng tôi, định lực là chúng ta có thể tập trú vào một cái gì đó mà trên cái đối tượng đó chúng ta trở đi trở lại tiếp tục và tiếp tục thì gọi là định lực. Khi nói đến chữ "Định" thì đa phần là chúng ta nói đến cái nghĩa của Ekaggata là tập trung vào một điểm nhưng trên thực tế chữ Samadhi là tính chất bền bỉ.

Khi nói đến Giới Định Tuệ thì trong chữ "Định" bao gồm cả Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định thì chúng ta hiểu là chữ "Định" ở đây có thể gom lại tất cả những năng lực của tâm vào một trọng điểm, trọng điểm đó là gì thì chúng ta có thể biết được. Và thứ hai nữa là chữ "Định" có nghĩa là chúng ta có khả năng bền bỉ trên phương diện nội tại tập trú vào chuyện gì đó. 

Và điểm thứ ba là chúng ta có thể đạt đến mức độ khinh an và định tịnh. Thì với trạng thái đó giúp ích rất nhiều cho tuệ quán. Chúng ta khi làm chuyện gì mà đã thạo tay rồi thì làm rất nhanh rất gọn và rất đẹp. Cái nhanh cái gọn cái đẹp đó là một kết quả tự nhiên của sự thuần thục.

Chúng tôi nghe nhiều Phật tử làm việc ở các công ty lớn của Hoa Kỳ, làm ráp nối giây chuyền ở bên Mỹ thường gọi là assembly, khi có một sản phẩm đến trước mặt là họ phải ráp, phải làm này kia trong một thời gian ngắn để kịp chuyền qua người kế tiếp. Ban đầu khi họ mới vào làm thì rất là lúng túng và có nhiều người nói với chúng tôi rằng làm liên tay như vậy cực quá có thể khóc được, đứng lâu quá làm lâu quá mỏi tay mỏi chân có thể khóc được, nhưng một khi đã làm quen rồi thì người ta phát giác ra rằng người Việt Nam làm rất giỏi tại vì làm rất nhanh rất chính xác và rất có phẩm chất, bởi vì chúng ta làm thạo nghề. Chúng tôi để ý thấy rằng một trong đặc điểm của người Việt Nam là khi nào mình làm cái gì rất là quen thuộc thì thật sự mình có sự thành thạo mà ở trong kinh gọi là sự thuần thục, cái sự thuần thục đó cho phép chúng ta có những khả năng chúng ta không tưởng tượng được. Cái gì cũng vậy, hễ cái gì gọi là tinh luyện, tinh luyện nghĩa là việc đó chúng ta đạt đến cảnh giới ảo diệu của nó rồi thì mình thấy rất nhẹ nhàng để làm, rất thoải mái để có thể đồng hành với nó và đồng thời chúng ta làm việc đó một cách rất là tinh tế. 


Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Có rất nhiều lần những người BàLaMôn đến hỏi Đức Phật về quan niệm của Ngài đối với giai cấp, thì Đức Phật Ngài dạy rằng không phải do nghiệp quả thọ sanh mà con người trở lên cao quí hay thấp hèn, mà chính hành vi tạo tác đã khiến cho con người thấp hèn hay cao quí. Như vậy đây là điểm đặc biệt đầu tiên của Đạo Phật, khi nhìn vào con người, điểm quan trọng nhất là hành động, và hành động ở đây phải nói rằng đó là sở hành của thân, của khẩu, của ý. Nói một cách nôm na cái gì chúng ta làm, cái gì chúng ta nói hay chúng ta suy nghĩ, và thậm trí Đức Phật Ngài còn đi xa hơn, Ngài dạy rằng chính điều đó mới phân biệt thế nào là người thiện trí hay là kẻ không phải thiện trí.

  TT Giác Đẳng - Kinh Pháp Cú kệ 281 - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến, Giác Ngộ, Minh Triết cho đời sống

BẢN NGÃ THẬT SỰ 
Một người đàn ông mất trí thăm dò ý kiến vị thiền sư.

"Thiền sư, làm ơn, tôi cảm thấy bị bối rối, không còn hy vọng. Tôi không biết tôi là ai. Xin làm ơn, chỉ cho tôi bản ngã thật sự của tôi."

Nhưng vị thiền sư không đáp lại mà chỉ nhìn đi nơi khác. Người đàn ông đã mở đầu bằng sự nài nỉ và cầu xin, nhưng vị thiền sư vẫn không đáp lại. Cuối cùng chịu thua với tâm trạng thất vọng, người đàn ông quay mình bỏ đi. Lúc đó vị thiền sư kêu lên tên của anh ta.

"Dạ!" người đàn ông trả lời trong lúc anh ta quay mình trở lại.

"Đó là nó!" vị thiền sư giải thích.

Chuyện Xưa Tích Cũ - Thầy pháp sợ ma


THẦY PHÁP SỢ MA

Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Ở xóm Đông, có một ông lão thầy pháp lừng danh. Một hôm nọ, lúc ăn cơm, vợ của lão bèn hỏi ướm thử: -Mình sợ ma quỷ không? Ma quỷ có thật hay không?

Lão cười đáp: -Nhất định có ma quỷ. Và tôi chẳng bao giờ sợ chúng nó. Nghề của tôi rất già dặn, dầu ma quỷ thứ dữ, tôi trừ gấp một khi. Nếu non tay ấn, tôi đã bị chúng nó vật từ lâu rồi.

Nhưng người vợ vẫn chưa tin, tìm cách thử thách tài năng của chồng. Chiều hôm đó, lão đi làm đám ở xóm bên cạnh. Vợ lão đứng nép vào bụi cây rậm rạp, tay cầm một khúc củi cháy dang dở.

Trong đêm khuya, lão phù thủy lò mò lần bước trở về. Vợ lão hay trước, bèn thổi lên cho đóm than cháy đỏ.

Lão mang cái đãy 1 đầy xôi, chuối, gà luộc của thân chủ tặng cho. Người vợ bèn từ từ nâng khúc than cháy đỏ lên cao, quơ qua quơ lại như bóng oan hồn yểu tử bay vật vờ trong cõi âm.

Lão hoảng hốt, rởn tóc gáy, sực nhớ tới mấy câu thần chú trừ tà. Lập tức lão thủ bộ, bỏ đãy xôi thịt xuống đất, hai tay chắp bắt ấn, miệng đọc lẩm bẩm: -Yễm thiên lý thu lai, vạn lý thu lai.

Vợ lão nín cười, đi xăm xăm lại gần, quơ tới quơ lui khúc củi cháy dang dở.

Lão thầy pháp sợ điếng hồn, tay chân run lẩy bẩy, quên cả việc bắt ấn, quên cả đãy xôi thịt. Lão ta cắm đầu chạy thẳng về nhà, miệng đọc hớt hải: -Yễm thiên lý … Yễm vạn lý … trời đất ơi, tha tội cho tôi, tội nghiệp tôi. Sáng mai tôi sẽ cúng xôi cho các người.

Chờ cho lão chạy khuất dạng, vợ lão bước ra đường xách cái đãy, ung dung trở về, đem giấu kín trên giàn bếp.

Sáng hôm sau, lão cố giữ nét mặt trầm tĩnh, vợ lão hỏi: -Mình đói bụng không?

Lão đáp: -Đói chớ.

-Vậy thì vợ chồng mình cùng ăn bữa xôi thịt …

Nói xong, bà vợ đem mấy vắt xôi đặt vào đĩa rồi rút con gà luộc trong đãy, đem chặt từng khúc …

Lão trố mắt …

-Xôi này giống như xôi … Con gà này giống con gà …

Bà vợ nói nhanh: -Mình lẩm cẩm quá. Xôi là xôi, gà luộc là gà luộc. Con ma hồi tối là … con ma, chẳng có gì ngạc nhiên cả.

Lão thấy pháp cúi đầu ăn miết, mặt mày sượng sùng e thẹn, hiểu rằng mình đã lầm mưu của vợ hồi tối.

--------------------------------
1 Đãy: túi to bằng vải, có dây rút ở miệng, dùng đựng đồ mang đi đường.

Chuyện cười trong ngày

Cấp Cứu

Bệnh nhân:

- Ối chao ơi... ruột tôi đau quá!

Bác sĩ trấn an:

- Đừng lo, để tôi kiểm tra xem ! Chà,... bị lủng ruột... uống viên thuốc giảm đau này đã!

- Ối chao, bác sĩ ơi! Ruột vẫn đau.

- Thế à? Chắc là thuốc bị rơi ra ngoài chỗ thủng rồi!

Monday, January 27, 2014

Ngày 27-1-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Chúng ta nên áp dụng Phật Pháp vào trong đời sống

Hỏi: Chúng ta nên áp dụng Phật Pháp vào trong đời sống

(Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Phải nói rằng chúng ta rất dễ thỏa mãn với học thuyết, với chữ nghĩa và với những gì trình bày qua ngôn ngữ. Đó là một điều rất tự nhiên của đời sống. Bởi vì trên phương diện truyền thông có thể nói ý nghĩa và lý lẽ được trình bày một cách rõ ràng và trong sáng thì hầu như nó làm cho chúng ta có nhiều thỏa mãn. Cần thiết hơn nữa, cao hơn nữa, là tác dụng của điều đó trong đời sống. Với đức Phật thì có một khoảng cách rất xa giữa lý thuyết và sự áp dụng của lý thuyết đó. Ngày hôm nay chúng ta có hai lãnh vực, một là khoa học, hai là kỹ thuật. Khoa học cho ta biết về lý thuyết căn bản của sự vật, về vật lý, về hóa học v.v. Nhưng kỹ thuật là làm thế nào để áp dụng điều đó vào trong đời sống hằng ngày. Ở ngòai đời dĩ nhiên người ta thường hay nói đến điều đó và trong đạo người ta cũng nói đến điều đó. Nhưng ở ngòai đời thì dễ dàng vì họ có nhu cầu về phát triển, về tiền bạc. 

Người Nhựt rất giỏi trong việc đem áp dụng những phát minh của Tây phương. Chúng tôi nhớ có một bài viết về kỹ thuật gọi là physiologic. Physiologic là kỹ thuật làm thể nào để cho máy móc có thể họat động một cách uyển chuyển chứ không chỉ có thể tắt và mở. Một sáng chế physiologic do hai người Hoa kỳ đưa ra vào thập niên 50. Nhưng vì mới mẻ nên không ai áp dụng cho đến khi người Nhật đem áp dụng vào máy điều hòa không khí, vào xe điện ngầm và nhiều thứ khác, có thể mang lại lợi nhuận khổng lồ từ sự ứng dụng này. Đó là câu chuyện của thế gian. 

Còn câu chuyện trong đạo của chúng ta thì phải nói trên phương diện Phật học. Trong xã hội ngày hôm nay đặc biệt đào tạo rất nhiều học giả. Những lần chúng tôi đến thăm đại học Wisconsin hay Santa Barbara ở California thì có thể nói rằng có rất nhiều vị giáo sư sự hiểu biết của họ về Phật pháp là cả một công trình nghiên cứu. Khi nói chuyện với họ về A tỳ đàm hay hoặc giả một số đề tài mang tính hiểu biết thì phải nói rằng họ nắm rất vững. Tuy nhiên đối với cuộc sống của họ ngòai đời thì không áp dụng hành trì Phật pháp.

Ngược lại khi chúng tôi đến các vùng nông thôn của các xứ Phật giáo như Miến Điện hay Thái Lan. Ở đây dân chúng trình độ thế học không cao, và chỉ nghe Chư Tăng nói pháp thôi chứ không có học trường lớp, thế nhưng, tâm hồn của họ rất thuần thành và họ sống rất gần với đạo. Khi thân nhân của họ qua đời, cách suy tư của họ, cách nhìn của họ và cách họ tạo phước đề hồi hướng thì phải nói là cả một sự ứng dụng lời dạy của đức Phật trong từng phần một. 

Hơn ai hết, có thể nói đức Phật là một vị Thiên Nhân Chi Đạo Sư và Ngài cũng là Điều Ngự Trượng Phu. Ngài hướng dẫn chúng ta tu tập và đồng thời Ngài cũng biết rõ căn bệnh trầm kha của tất cả chúng ta. Vì vậy trong đạo Phật có cả một kho tàng kinh điển có thể nói là đồ sộ hơn bất cứ bộ kinh điển của tôn giáo nào. Bên cạnh đó, đức Phật do nhiều trường hợp, trong nhiều Phật ngôn chúng ta tìm thấy. Mặc dù đức Phật Ngài dạy cho tất cả chúng ta rất nhiều thứ, nhưng ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại một điều là chúng ta hãy tìm cơ hội, tùy khả năng, tùy điều kiện. Có lúc đức Phật Ngài kêu gọi một cách đặc biệt tha thiết: “Này các tỳ kheo, đây là ngôi nhà trống, đây là khu rừng, đây là cội cây, các con hãy đến đó thiền định, tu tập, tinh tấn, không nên giải đãi.” Những lời dạy ân cần của đức Phật luôn kéo chúng ta về với một thực tại là giáo pháp chỉ có thể được cảm nhận đầy đủ, được lãnh hội đầy đủ khi nào mình đem ứng dụng được những điều này trong cuộc sống.

Ở Việt nam của chúng ta, là nơi có thể nói chương trình giáo dục hết sức nặng nề. Rất nhiều trường hợp thanh niên Việt Nam ra trường với bằng tú tài có đôi lúc không biết làm gì để tự mình nuôi nổi bản thân của mình. Với bằng cấp đó, ngày xưa với bằng tú tài còn được gọi là ông tú, nhưng lại không có khả năng áp dụng điều đó vào cuộc sống. Tại các nước Âu Châu, người ta đã nhận ra một điều vô cùng quan trọng là đối với tuổi 16 là bước qua Senior High Schơol (tương đương với tú tài 1), chương trình giáo dục là chuyển qua chương trình huấn nghệ, tức là dạy nghề. Từ 16 đến 18 tuổi, sau hai năm học nghề đó nếu họ không thể học lên đại học họ vẫn tiếp tục theo đuổi ngành chuyên môn nào đó, dở nhứt họ cũng có tay nghề để họ có thể đi làm. Đi làm một cách thành thạo, có khả năng tốt trong việc mưu sinh.

Khả năng ứng dụng kiến thức vào đời sống ngày càng trở nên nhu cầu lớn. Vấn đề thật đặc biệt nêu ra đối với chúng ta là những người Phật tử làm thế nào trước kho tàng kinh điển mênh mông, bát ngát về đạo Phật. Chúng ta nghe, chúng ta nói, chúng ta hấp thụ, chúng ta bàn bạc mà có thể chuyển những thứ đó trở thành sức sống thực sự trong đời sống của mình. Ví dụ nói về vô thường, nghĩ trong đầu về vô thường, làm thế nào chúng ta có thể tìm thấy sự vô thường đó ngay ở trong cảm giác của mình, ngay trong những biến động của đời sống mình thì đó lại là chuyện hòan tòan khác.

Những người phát tâm tu thiền Tứ Niệm Xứ. Họ đến một khóa thiền 15, 20 ngày. Khi trở về họ trình bày cảm giác của họ là hồi xưa họ cứ tưởng việc học, việc nói là để cho họ đến gần với Phật pháp. Nhưng sau một thời gian tu tập thì họ thấy có khỏang cách rất lớn. Rất lớn giữa khả năng hiểu, khả năng trình bày và khả năng có thể ứng dụng trong đời sống hằng ngày. 

Ví dụ, chúng ta nói về chánh niệm. Chánh niệm theo định nghĩa thì được xem như là sự quan sát, sự ghi nhận, sự tỉnh táo, thấy biết đúng những gì đang xảy ra, nhứt là những gì xảy ra với thân tâm của mình. Chúng ta có thể định nghĩa một cách đại lọai như vậy. Nhưng khi một hành giả ngồi xuống trong nửa giờ, một giờ để tu tập chánh niệm thì câu chuyện không có giản dị như vậy.

Thí dụ khi chúng ta quan sát ghi nhận, nhưng có bao nhiêu thứ nảy sanh một lúc: nào là tâm tư phóng dật của mình, sự đau nhức của cơ thể, rồi nhìn trước mặt là hơi thở ra vào, tiếng động ở chung quanh, rồi giờ giấc thiền định. Ngay lúc đó thực tại phơi bày trước mặt chúng ta không phải chỉ là cái gì nhịp nhàng, mà thân và tâm của mình giống như một cái chợ. Nó giống như cái chợ nghĩa là muôn màu muôn sắc, những thứ để chú ý.

Chúng ta là người biết đi chợ thì làm sao có thể bước vào chợ đó mà không để cho mình bị lôi cuốn đi về tám hướng, không ngừng chú ý đến trăm ngàn thứ, mà chúng ta chỉ đi vào trong đó biết được đường đi, nẻo về. Biết được cái gì phải lựa chọn, biết được cái mình muốn mua, biết phải trả giá như thế nào, biết được cách sắp xếp lớp lang như thế nào để cuối cùng chúng ta có một giỏ thực phẩm mang về.

Đem chuyện đi chợ mà ví dụ về thiền thì rất khôi hài. Nhưng cũng tương tựa như vậy. Từ khi mình ngồi xuống để bắt đầu tu tập chánh niệm, thì không đơn giản như người ta nghĩ là ngồi xuống nhìn hơi thở ra vào. Phải mất một thời gian rất dài để người ta có thể quan sát những gì đang xảy ra để có khả năng trở về với nền tảng căn bản của mình là hơi thở. Thông thường nếu chúng ta không có kinh nghiệm, hễ chúng ta phóng tâm, chúng ta đau nhức thì một hồi, chúng ta lạc mất đề tài, đề mục chính của mình là hơi thở.

Với một người tu tập chánh niệm thì không có gì xảy ra ở thân tâm mình mà nó không phải là đối tượng của chánh niệm. Dù chúng ta tinh cần hay chúng ta không tin cần, dù là chúng ta khỏe hay chúng ta không khỏe, dù thỏai mái hay khó chịu, dù chúng ta ngồi thiền có tập trung được hay không tập trung được thì những trạng thái đó đối với con mắt của chánh niệm nó không có vấn đề gì hết. Cái gì xảy ra, chúng ta ghi nhận như vậy. Nhưng không phải là việc dễ dàng với một người mới vào tu tập. Chúng ta hay có thái độ phản ứng với nó. Thay vì chúng ta ghi nhận là mình đang tinh tấn hay đang dã dượi, mình đang phân tâm, cái tâm của mình thế này hay thế khác mà mình ghi nhận như vậy. Thì chúng ta lại phản ứng với nó. Hoặc là vui, hoặc là buồn, thậm chí có khi chúng ta đứng dậy, chúng ta không ngồi nữa.

Với một người có bản lãnh về chánh niệm thì đem tất cả những thứ đó đặt ra trước mặt mình. Cho dù nó có ra sao chăng nữa thì chỉ quan sát mà không có phản ứng. Đó là một phương diện hoàn toàn khác với chánh niệm mà chúng tôi trình bày trong buổi giảng này.

Ở đây Đức Phật Ngài dạy cho chúng ta thấy rằng nếu tôn giáo nói chung, Phật pháp nói riêng. Phật pháp ở đây không phải là Phật pháp kinh điển mà là Phật pháp trong sự hiểu biết của mình, mà sự hiểu biết đó khi diễn tả thành lời như chúng ta nghe mỗi ngày, sinh họat mỗi ngày. Chúng ta có thể rất thỏa mãn khi chúng ta nghe một câu Phật Pháp hay. Chúng ta thỏa mãn khi chúng ta trình bày vấn đề nào đó với ý nghĩa sáng sủa, dễ hiểu, dễ lãnh hội. 

Đức Phật không chê điều đó, không khích bác điều đó. Nhưng Đức Phật đã ca ngợi thuyết pháp đúng thời, thính pháp đúng thời. Đúng thời làm thiện pháp. Nhưng không có nghĩa là trong sự ngợi khen đó của Đức Phật như vậy là đủ. Như vậy là các con đã làm được điều cần phải làm. Ở bên cạnh đó thì đức Phật lưu ý chúng ta rằng những cái hoa có sắc mà không hương, lời hay mà không đem áp dụng được thì ngài nói rõ ràng là không làm thì không kết quả.

Kết quả là ở chỗ chúng ta đem áp dụng Phật pháp vào trong đời sống hay không. Chúng tôi biết rằng có những giai đọan, những thời đại mà ngay cả trong đạo người Phật tử lo sống với những từ ngữ ba hoa, dao to búa lớn. Chúng ta nghe như bao chùm luôn cả tam thiên, đại thiên xuống thế giới này. Chúng ta nói đến đại điện, chúng ta nói đến những cái mà những ý tưởng rất cao siêu, nghe rất đại đồng, nghe rất to lớn nhưng đem áp dụng trong đời sống hàng ngày thì không áp dụng được. Cái không áp dụng đó nó tạo nên vấn đề của chúng ta./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Chúng ta nên tự tâm niệm với chính mình vào buổi sáng hay buổi chiều trước khi chúng ta hành một pháp môn nào đó. Sau khi tự nhắn nhủ như vậy rồi, chúng ta khởi lên một quyết tâm rằng ta sẽ cải thiện lại, không để cho lỗi lầm xâm chiếm, không để cho vi phạm những lỗi lầm tiếp tục nữa. Khởi lên tâm niệm như vậy rồi thì chúng ta lại phải trú vào một đề tài, một đề mục tu tập. Đức Phật ngài dạy rằng hằng ngày phải tùy  niệm bốn hoặc là sáu pháp môn như là: tùy niệm ân đức Phật, niệm ân đức Pháp, niệm ân đức tăng, niệm ân đức của sự bố thí, trì giới hoặc là niệm ân đức của quí vị chư thiên, công hạnh của các vị chư thiên rồi đem so sánh với mình hay chúng ta niệm về trạng thái tịch tịnh v.v. hoặc là ta tùy niệm bốn pháp, niệm Phật, niệm tâm từ, niệm thân thể trược, niệm về cái chết là những đề tài mà ta phải thường xuyên tâm niệm, phải thường xuyên nhớ tưởng suy xét. 

TT Trí Siêu – Kinh Pháp Cú kệ 51 - 52 - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến, Giác Ngộ, Minh Triết cho đời sống

HÃY MỞ KHO CHÂU BÁU CỦA ÔNG 
Daiju đến thăm thiền sư Baso ở Trung Hoa. Baso hỏi: "Ông bạn đang cố gắng đạt tới điều gì?"

"Sự giác ngộ," Daiju trả lời.

"Ông bạn có một nhà châu báu của riêng bạn. Tại sao bạn còn tìm kiếm ở bên ngoài?" Baso hỏi.

Daiju hỏi: " kho châu báu của tôi ở đâu?"

Baso trả lời: "Điều gì mà bạn đang hỏi thì là kho châu báu của riêng bạn."

Daiju đã giác ngộ! Từ đó về sau ông cố thuyết phục những người bạn của mình: "Hãy mở kho châu báu của riêng mình và dùng xử dụng những châu báu này.

Chuyện Xưa Tích Cũ - Truyện Phù Đổng Thiên Vương


TRUYỆN PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG

Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Đời vua Hùng Vương thứ ba, nước ta sống trong cảnh thái bình, an lạc. Vua Tàu bấy giờ là Ân Vương tìm cách gây sự để kéo quân sang xâm chiếm nước ta.

Vua Hùng Vương bèn triệu quần thần, bàn kế hoạch ứng phó. Một đạo sĩ bàn với vua: -Nên cầu Long Quân (Rồng thần) thử xem sao.

Vua đồng ý, đắp đàn, đốt hương cầu tế suốt ba ngày, bỗng sấm sét nổi dậy. Ngoài ngã ba đường xuất hiện một ông lão hình dáng phi thường cao hơn sáu thước, bụng lớn, râu tóc bạc phơ. Vua biết điềm trời xui khiến nên đích thân ra đường mời ông lão vào hoàng thành, ông lão chẳng ăn uống, nói năng gì cả.

Vua nài nỉ: -Nay vua nhà Ân sắp xua quân đánh nước ta, nếu có mưu kế chi, xin ông dạy bảo.

Ông lão xủ quẻ rồi nói: -Ba năm nữa, giặc Ân mới tràn qua. Bây giờ vua hãy truyền lệnh cho quân sĩ luyện tập siêng năng. Mặt khác, vua phải cầu hiền, ai dẹp được giặc thì phong cho tước ấp …

Nói dứt lời, ông lão nọ bay bổng lên không trung biết mất. Vua hiểu đó là Long Quân.

Đúng như lời tiên tri, ba năm sau giặc Ân từ bên Tàu kéo sang. Vua sai sứ giả đi khắp chốn tìm nhân tài. Đến làng Phù Đổng, sứ giả hay tin trong làng có ông phú hộ, tuổi hơn sáu mươi mới sinh được đứa con trai ba tuổi. Tính tình của đứa bé khác hơn thiên hạ, nó không biết nói, cứ nằm ngửa suốt ngày.

Hay tin vua chiêu hiền, người cha bèn nói đùa với con: -Sinh thằng bé này thật vô dụng, phải cho nó biết đánh giặc cứu nước.

Bỗng nhiên đứa bé ngồi dậy, khai khẩu: -Hãy mời sứ giả vào đây, con sẽ liệu.

Sứ giả gặp đứa bé, ông ta chưa tin tưởng nơi năng lực của nó: -Mày đừng nói đùa. Đánh giặc là việc hệ trọng.

Đứa bé nói nhanh: -Sứ giả hãy tâu lại với nhà vua: hãy đúc cho ta một con ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh gươm sắt dài bảy thước, một cái nón thật dày … Ta sẽ phá giặc Ân tan tành.

Hay tin ấy, vua sực nhớ đến điềm của Long Vương năm trước, truyền lệnh rèn đúc những khí giới mà đứa bé quái dị nọ đòi hỏi.

Sau khi nhận thanh gươm, con ngựa và cái nón, đứa bé nói với mẹ: -Bữa nay mẹ nấu cơm thật nhiều để con ăn no, trước khi ra trận, gần đến ngày rồi.

Từ đấy, đứa bé lớn lên như thổi, hàng xóm phải đem trâu bò đến góp phần ăn cho đứa bé. Tuy nhiên đứa bé vẫn than rằng còn đói. Về quần áo, làng xóm phải chạy vạy mua sắm cho nó, sau rốt phải kiếm bông lau, bông sậy về kết thêm để che thân mà nó vẫn cho rằng chưa đủ.

Quân nhà Ân ỷ thế đông đảo, từ bên Tàu kéo sang đến Trấn Sơn. Đứa bé vung vai, duỗi chân đứng dậy, mình cao mười trượng. Sau khi nhảy mũi hơn mười tiếng, đứa bé vung gươm hét to: -Ta là thiên tướng đây!

Rồi cỡi ngựa sắt, đội nón sắt, xua quân đến dàn trận, ứng chiến với quân Tàu. Giặc nhà Ân bị tan vỡ, lớp chết, lớp đầu hàng. Tục truyền rằng lúc ấy con ngựa sắt vừa sải, vừa phun lửa.

Sau khi thắng trận, đứa bé cỡi ngựa bay về trời tại núi Sóc Sơn.

Vua Hùng Vương nhớ ơn, tôn đứa bé làm Phù Đổng Thiên Vương, dạy dân làng Phù Đổng hằng năm phải tế lễ.

Từ đó về sau, giặc Ân chẳng dám tràn qua nữa, dân chúng hưởng cảnh âu lạc thái bình suốt sáu trăm bốn mươi năm. Đời sau, có bài thơ ca tụng công đức Phù Đổng Thiên Vương:

Vệ linh năm tháng đám mây nhàn,
Muôn tía nghìn hồng chói thế gian.
Ngựa sắt ở trời, danh ở sử,
Uy linh lừng lẫy khắp giang san.

Người đời nay suy theo tích xưa cho rằng Phù Đổng Thiên Vương là người Việt đầu tiên biết sáng chế lại thiết giáp.

Chuyện cười trong ngày

Thay phần giữa là xong

Tại trạm sửa chữa ôtô, chủ xe hỏi chuyên gia:

- Phải làm gì với chiếc xe này bây giờ?

- Thay phần giữa.

- Giữa là đoạn nào hả ông?

- Tháo cản trước và sau ra, rồi đặt một chiếc xe mới vào khoảng giữa chúng, siết chặt lại là xong!

Sunday, January 26, 2014

Ngày 26-1-2014 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Sám hối như thế nào khi mình lỡ phạm đến Tam Bảo?

Hỏi : Sám hối như thế nào khi mình lỡ phạm đến Tam Bảo?

. (Câu hỏitrong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên )

TT Giác Đẳng: Việc sám hối khi mình phạm đến Tam Bảo thì ở đây là một quan niệm hết sức đặc biệt mà chúng ta phải để ý khi nào mà chúng ta phạm đến Tam Bảo. Cái tội mà hủy báng Tam Bảo là một trọng nghiệp nhưng nó có ba trường hợp.

Trường hợp thứ nhất là một người hủy báng Tam Bảo là bởi vì người này có tâm sân hận. Như trường hợp của nàng Kanà mà chúng ta được nghe đến trong bài kệ ngày hôm qua. Đó là câu chuyện của một nàng thiếu nữ từ bên nhà chồng trở về thăm nhà mẹ của mình. Rồi trong lúc về nhà của mẹ bởi vì thường khi mỗi lần về nhà thì mẹ hay làm bánh để mang về nhà chồng, lúc bà mẹ làm bánh xong thì có các vị tỳ kheo đi khuất thực đi ngang, bà mẹ thấy như vậy đem tất cả bánh cúng dường cho chư tỳ kheo, và không phải cúng cho một nhóm mà cúng cho bốn nhóm tỳ kheo như vậy trước sau, bởi vì trên con đường đi khuất thực thấy chư tăng đi ghé từng nhà, mà ai cúng xong thì tiếp tục đi tới thôi. (Thật ra Đức Phật Ngài có đặt ra luật cấm các vị tỳ kheo trong một ngôi chùa không được đi bát nhiều lần trên một con đường cũng là vì lý do này.) Thì chính vì lý do mẹ của Kana cúng dường bánh cho Chư Tỳ Kheo như vậy, nó đã tạo nên một sự việc là Kanà đã phải chờ để lấy bánh, khi lấy được bánh rồi thì chuyến đi về bị trễ, và chuyện này dẫn đến chuyện lục đục giữa vợ chồng rồi dẫn đến sự đổ vỡ của hôn nhân, và sau khi hôn nhân đổ vỡ thì Kanà về nhà mẹ mình sống và thường hay thống trách các vị tỳ kheo là tại vì các vị tỳ kheo mà nàng bị đổ vỡ hôn nhân như vậy, và vì lời nói của nàng cũng nặng chứ không phải là không nặng. Một lần Đức Phật đến nhà Ngài gọi Kanà lên và dạy cho Kanà biết về sự hơn thiệt, lúc đó Kana đã xin sám hối với Đức Phật và nghe pháp chứng được quả dự lưu như là câu chuyện Pháp Cú mà chúng ta nghe hôm qua, ở trong trường hợp đó là vì sân tâm nó khác.

Và trường hợp kế mà chúng tôi nói là vì tà kiến, tà kiến ví dụ như một người Phật tử đã qui y Tam Bảo rồi sau đó đi theo ngoại đạo mà phỉ báng lại Tam Bảo thì đó là một sự tổn hại, một sự tổn hại lớn lắm, sự tổn hại đó giống như một cây dừa hay cây cau mà chúng ta chặt đứt đầu ngọn cây thì nó khó có cơ hội mọc lại được. Một người không biết Tam Bảo, không biết Phật Pháp Tăng là gì, người đó nếu họ là người ngoại đạo hay đi theo ngoại đạo mà chỉ trích Phật Pháp Tăng thì việc đó tội không nặng, ở đây một người biết Phật Pháp Tăng đã học rồi nhưng mà vì tà kiến của mình mà đi theo ngoại giáo để phỉ báng lại Tam Bảo, thì người đó tương đương với một giới luật ở trong đạo Phật gọi là bất cộng trụ, tức là một điều không có cứu vãng được, thì người này sau này có sám hối đi nữa thì sự sám hối đó chỉ là một sự sám hối mảy may nhưng mà họ không có bao giờ có thể thành tựu lại được tam qui của mình.

Ở đây là một trường hợp rất tế nhị, một trường hợp rất đặc biệt khi đề cập đến trong luật cư sĩ.

Và thưa qúi vị, có một sự xúc phạm đến Tam Bảo khác mà ở đây đạo hữu Anidhaparami nói về sự vô ý phạm đến Tam Bảo, vô ý phạm đến Tam Bảo là trong trường hợp chúng ta học pháp mà chúng ta học sai, chúng ta diễn giảng sai lạc đi thì chúng ta tụng bài Uttamangena vandeham., tụng bài đó để xin sám hối nghiệp mà vô ý, mình có thành tâm thiện ý để diễn giảng Phật Pháp, nhưng mà mình đã diễn giảng một cách sai lạc bởi vì mình không đủ kiến thức để diễn giảng Phật Pháp, thì mình xin sám hối, thì chuyện này hoàn toàn mang một ý nghĩa khác.

Như vậy trong trường hợp phạm đến Tam Bảo chúng tôi chia ra ba phần như trên để qúi vị thấy rõ ./..

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử


Chúng ta nhớ rằng việc tu tập không đơn thuần chỉ là việc trốn vào rừng sâu hay là tìm một nơi thanh vắng tu tập một mình. Đức Phật vị đạo sư đầu tiên đã lập ra một đoàn thể có qui củ hẳn hòi gọi là tăng đoàn. Dù là một vị tỳ kheo tu tập như thế nào thì sự liên hệ đối với cộng đồng tăng lữ đối với tăng già đối với tập thể tu tập của mình vẫn là quan trọng. Và chúng tôi nói điều này thì phải nhấn mạnh đặc biệt là riêng đối với Phật giáo Nguyên Thủy (Phật giáo Nam Tông) như là cá nhân chúng tôi đang tu tập trong truyền thống Phật Giáo Nam Tông và Chư Tăng đang có mặt trong rơom Phật Pháp này thì phải nói một điều là Tăng già luôn luôn có một vị trí nhất định quan trọng. Ngay cả bây giờ sống ở xứ người như tại chùa Pháp Luân có rất nhiều việc ở chùa chúng tôi vẫn thỉnh ý kiến của HT Huyền Việt ở chùa Liên Hoa hay bàn thảo với Sư Trí Tịnh ở Florida, có lẽ đó là một thói quen khi Chư Tăng có việc gì thì cùng ngồi lại với nhau để đắn đo để quyết định. Và khi đọc bài kinh "Đại kinh người chăn bò"  đối với bản thân của chúng tôi rất là thấm thía vì thấy chúng ta muốn tu tập muốn lớn mạnh ở trong giáo pháp thì cái nhìn của chúng ta phải có trước, phải có sau, phải có người, phải có mình, phải có cá nhân, phải có đoàn thể, chứ không thể nào đơn giản được. Và hình ảnh mà Đức Phật đề cập trong bài kinh rất là cụ thể rất là sinh động.

TTGiác Đẳng - Đại kinh người chăn bò - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến, Giác Ngộ, Minh Triết cho đời sống

KHÔNG LÀM, KHÔNG ĂN 
Hyakujo, Thiền sư Trung Hoa, thường hay lao động cùng với các môn sinh của mình dù đã ở vào tuổi tám mươi, cắt tỉa vườn tược, quét dọn mặt đất, và chặt bới cây cối.

Các môn sinh cảm thấy phiền não khi thấy vị thiền sư trưởng lão làm lụng cực nhọc như vậy, nhưng họ biết rằng thiền sư sẽ không nghe theo lời khuyên của họ mà ngưng lại, vì thế nên họ dấu dụng cụ của thiền sư.

Ngày hôm đó vị thiền sư không ăn. Ngày hôm sau thiền sư không ăn, và ngày kế tiếp cũng vậy. "Sư Phụ có thể giận lẫy vì chúng mình dấu dụng cụ của Sư Phụ," đám môn sinh phỏng đoán, "chúng mình nên để dụng cụ lại chỗ cũ thì hơn."

Ngày mà họ mang trả lại dụng cụ, vị thiền sư làm việc và ăn như trước. Vào buổi tối, thiền sư dạy họ: "Không làm, không ăn."

Chuyện Xưa Tích Cũ - Mạnh mẫu dạy con


MẠNH MẪU DẠY CON
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Thầy Mạnh Tử là nhà hiền triết nổi danh ở Á Đông, học trò của đức Khổng Thử. 

Sở dĩ Mạnh Tử nên bậc thánh hiền, ngàn đời lưu danh, phần lớn đều nhờ công đức dạy dỗ của mẹ – bà Mạnh Mẫu. Hồi thầy Mạnh Tử còn nhỏ, nhà ở gần nghĩa địa, suốt ngày bên cạnh nhà toàn là cảnh thê thảm: đào huyệt, kẻ la người khóc. 

Tuổi nhỏ hay bắt chước, thầy Mạnh Tử cũng ra xem, khóc la như người lớn. 

Bà Mạnh Mẫu nói: -Nếu cứ ở đây lâu ngày, con ta sẽ hư hỏng tính tình. 

Sau đó bà dời nhà đến gần chợ. 

Hằng ngày thầy Mạnh Tử ra chợ, thấy thiên hạ mua bán nên về nhà thầy cũng bắt chước buôn bán với các trẻ con lân cận. Bà mẹ không vừa ý: -Ở đây lâu ngày, con ta khó thành người. 

Bà lại dời nhà đến gần trường học. Thấy đám trẻ con đến trường siêng năng học hành, ăn nói có lễ phép, thầy Mạnh Tử cũng bắt chước theo chúng, đòi với mẹ cho mình đi học. 

Ba Mạnh Mẫu rất đỗi vui mừng: -Chỗ này là chỗ tốt, ta nên ở. 

Một hôm nọ, thầy Mạnh Tử thấy người hàng xóm thọc huyết heo. Thầy liền chạy về nhà hỏi mẹ: -Thưa mẹ, họ giết heo để làm gì vậy? 

Lúc vui miệng, bà Mạnh Mẫu trả lời: -Họ giết heo để cho con ăn thịt. 

Nói xong, bà vô cùng hối hận nghĩ thầm rằng: “Con mình còn bé, chẳng lẽ mình là mẹ nó mà lại nói dối.” Tuy trong nhà túng hụt, ngay buổi sáng hôm ấy bà cũng ráng nhín nhút, mua miếng thịt heo đem về cho con ăn. 

Hôm nọ, thầy Mạnh Tử đang học trong lớp bỗng nhiên ham chơi, bỏ lớp học chạy về nhà. 

Bà Mạnh Mẫu ngồi dệt vải trên khung cửi, thấy con hư hỏng như vậy liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt dang dở trên khung. 

Thầy Mạnh Tử sợ sệt, chưa hiểu vì sao mẹ hành động như thế. 

Mẹ giải thích: -Việc học hành của con cũng giống như việc dệt cửi của mẹ. Con bỏ học chẳng khác nào mẹ cắt đứt tấm vải này. 

Mạnh Tử nghe qua, xin lỗi mẹ, trở vào lớp học. Từ đấy, thầy siêng năng hơn trước, lớn lên trở thành bực đại thần. Đó cũng là nhờ công ơn dạy dỗ của mẹ từ khi thầy còn bé.