Saturday, April 30, 2016

Ngày 30-4-2016 Suy Niệm Trong Ngày

Chuyện ngắn - Cát và Đá

Cát và Đá
Bài sưu tầm trên Net

Có hai người bạn đang dạo bước trên sa mạc. Trong chuyến đi dài, hai người nói chuyện với nhau và đã có một cuộc tranh cãi gay gắt.

Không giữ được bình tĩnh, một người đã tát người bạn của mình. Người kia rất đau nhưng không nói gì. Anh chỉ lặng lẽ viết lên cát rằng: "Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã tát vào mặt tôi."

Họ tiếp tục bước đi cho tới khi nhìn thấy một ốc đảo, nơi họ quyết định sẽ dừng chân và tắm mát.

Người bạn vừa bị tát do sơ ý bị trượt chân xuống một bãi lầy và ngày càng lún sâu xuống. Nhưng người bạn kia đã kịp thời cứu anh.

Ngay sau khi hồi phục, người bạn suýt chết đuối khắc lên tảng đá dòng chữ: "Hôm nay, bạn tốt nhất của tôi đã cứu sống tôi."

Người bạn kia hết sức ngạc nhiên bèn hỏi: "Tại sao khi tớ làm cậu đau, cậu lại viết lên cát còn bây giờ lại là một tảng đá?"

Và câu trả lời anh nhận được là: "Khi ai đó làm chúng ta đau đớn, chúng ta nên viết điều đó lên cát nơi những cơn gió của sự thứ tha sẽ xóa tan những nỗi trách hờn.

Nhưng "Khi chúng ta nhận được điều tốt đẹp từ người khác, chúng ta phải ghi khắc chuyện ấy lên đá nơi không cơn gió nào có thể cuốn bay đi."

Hãy học cách viết những nỗi đau lên cát và khắc tạc những niềm vui và hạnh phúc bạn tận hưởng trong cuộc đời lên tảng đá để mãi không phai.

Những chuyện ngụ ngôn hay - Muỗi và Sư Tử

MUỖI VÀ SƯ TỬ

Một con Muỗi rất muốn trở thành Chúa sơn lâm, bèn nghĩ: "Trong khu rừng này Sư tử là Chúa sơn lâm, như vậy chắc hẳn là người mạnh nhất. Nếu mình có thể đánh bại nó, thế thì mình có thể đường đường chính chính làm Chúa sơn lâm rồi".

Muỗi nhất định sẽ tuyên chiến với Sư tử. Muỗi bay đến bên Sư tử, và nói:

- Chúa sơn lâm, trong khu rừng này chỉ có tôi là không sợ anh. Không tin anh thử thì biết ngay.

Muỗi cứ bay vo ve trước mặt Sư tử. Về cơ bản, Sư tử chẳng bao giờ thèm để mắt đến loài muỗi nhỏ bé này, chỉ là tiện chân khua mấy cái.

Muỗi lại hỏi:

- Lẽ nào anh không dám chấp nhận lời thách đấu của tôi? Nếu anh còn muốn làm Chúa sơn lâm thì hãy nhận lời thách đấu đi. Anh dùng móng vuốt vồ tôi hay là dùng răng để cắn tôi?

Muỗi lại vo ve, xông thẳng vào Sư tử, đốt vào xung quanh mũi của Sư tử, những chỗ mà không có lông. Sư tử vô cùng tức giận, nói:

- Con muỗi ranh này, dám coi thường ta hả? Thế thì ta sẽ đọ sức với mi.

Nói xong, Sư tử che mũi đi. Muỗi bay tới bay lui, Sư tử dùng móng vuốt cào nát hết cả mặt và mũi mà vẫn không tóm được Muỗi. Chán quá, Sư tử ta đành bỏ đi.

Sau khi Muỗi thắng Sư tử, luôn hát vang bài ca thắng lợi và khúc ca thắng lợi đi khắp mọi nơi. Muỗi vừa bay vừa hét:

- Ta đã thắng Sư tử, ta đã trở thành Chúa sơn lâm, ta là người mạnh nhất.

Muỗi vô cùng sung sướng bay qua bay lại. Đột nhiên, Muỗi bị dính chặt vào mạng nhện, trước khi bị Nhện ăn, Muỗi mới than thở rằng:

- Ta đã thắng kẻ mạnh nhất là Sư tử, nhưng lại bị một con nhện bé tí tẹo tiêu diệt.

Lời bàn:

Trên thế giới này, không có kẻ nào là mạnh tuyệt đối, và cũng không có kẻ yếu hoàn toàn. Những kẻ vô cùng mạnh cũng có nhược điểm của mình, và những kẻ yếu cũng có bản lĩnh riêng của mình. Kẻ mạnh và kẻ yếu, trong một hoàn cảnh nhất định nào đó, có thể hoán đổi vị trí cho nhau.

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

KHÔNG GÌ HIỆN HỮU 


Yamaoka Tesshu, khi còn là một thiền sinh trẻ, đi thăm viếng hết thiền sư này đến thiền sư nọ. Ông đến thăm Dokuon ở Shokoku.

Muốn tỏ lộ sự chứng ngộ của mình, ông nói: "Tâm, Phật, và chúng sinh, tất cả, không hề hiện hữu. Bản chất thực sự của mọi hiện tướng là không. Không có thực chứng, không có si mê, không có hiền triết, không có phàm tục. Không có ban phát và không có gì để thụ nhận."

Dokuon, đang yên lặng hút thuốc, không nói gì. Bỗng nhiên ông đập mạnh vào Yamaoka bằng cái ống điếu trúc của ông. Chuyện đó làm cho chàng trẻ tuổi rất giận dữ.

"Nếu không có gì hiện hữu," Dokuon hỏi, "vậy cơn giận này từ đâu đến?"

Những Điển Tích Hay Trong Chuyện Kiều - Hương Thừa

"Trông theo nào thấy đâu nào,
HƯƠNG THỪA dường hãy ra vào đâu đây"
(Câu 215, 216. Kiều mơ màng nghe mùi hương của Đạm Tiên).

Câu này lấy ý ở "Tây Sương Ký": "Lan xạ hương nhưng tại" nghĩa là người đi rồi mà mùi hương hãy còn phảng phất.

Đây là cảnh thứ IV, hồi I của phần thứ nhất tuồng Tây Sương Ký, tả cảnh Trương Quân Thụy trông thấy Thôi Oanh Oanh trong vườn hoa tư dinh họ Thôi phía Tây chùa Phổ cứụ Thôi Oanh Oanh đã vào nhà rồi mà Trương Quân Thụy còn ngẩn ngơ nhìn theo tiếc nuối:
"..........
Vườn hoa lê đóng khúc nào
Tường cao, cao quá, kế cao bằng trờị
Trách trời sao chẳng chiều người
Làm khuây chẳng được, đứng lười không đang.
Nghĩ hươu, tính vượn, trăm đường,
HƯƠNG LAN CÒN THOẢNG, TIẾNG VÀNG ĐÃ XẠ
Gió lay cành liễu la đà,
Tơ hồng vướng vít, cánh hoa tơi bờị
Rèm châu lấp lánh mặt trời,
Nuốt thầm nước bọt, trông hoài nẻo xa..." 

Nguồn:Vietcyber.com

Chuyện cười trong ngày

Mua thuốc bắc..

Ba đứa trẻ vào một tiệm thuốc bắc 1 lượt. Ðứa thứ 1 mua 500 đồng cam thảo. Ông thầy thuốc bắc thang leo lên ì ạch bưng cái thấu ở tuốt trên kệ cao xuống. Bán xong, ông leo lên cất cái thấu trở lại chỗ cũ. Sau khi tính tiền, ông hỏi đứa thứ 2 mua cái gì:

– Dạ con mua 500 đồng cam thảo. Ông thầy bực mình, ì ạch leo lên lấy thấu cam thảo xuống. Sợ như lần trước, ông hỏi luôn đứa thứ 3:

– Còn mày mua 500 đồng cam thảo luôn hả? Thằng nhỏ lắc đầu. Ông thầy yên chí, leo lên cất cái thấu cam thảo lên kệ rồi hỏi nó mua gì. Thằng bé nói: Dạ ông bán cho con 1000 đồng cam thảo.

Friday, April 29, 2016

Ngày 29-4-2016 Suy Niệm Trong Ngày

Chuyện ngắn - Những đứa trẻ đá bóng

NHỮNG ĐỨA TRẺ ĐÁ BÓNG

Có 1 ông già sống cô đơn một mình, ngay bên cạnh nhà ông là một khoảng sân rất rộng. Lũ trẻ trong vùng rất hay tụ tập đá bóng ở khoảng sân này. Cứ chiều chiều là chúng hò hét, hô hào đá bóng, và rất nhiều lần sút bóng vào tường, vào cửa sổ nhà của ông.

***

Người già cần sự ưa yên tĩnh tất nhiên không thích điều đó, ông thậm chí còn phải bỏ tiền ra sửa cửa sổ nữa cơ đấy. Rất nhiều lần ông ra quát tháo, cầm gậy ra xua đuổi, lũ trẻ chạy biến mất và ... hôm sau chúng lại quay lại. Cuối cùng ông già nghĩ ra 1 phương pháp.
Ngày hôm ấy, lũ trẻ lại đá bóng, nhưng thay vì mọi lần vừa đá vừa phải canh chừng xem ông già có đuổi mình không, lũ trẻ rất ngạc nhiên vì ông già ra xem chúng nó đá, còn hô hào cổ vũ nữa. Khi một đứa ghi bàn, ông gọi cả lũ vào và nói rằng: "Các cháu đá hay lắm, ông sẽ thưởng cho mỗi bàn thắng 10 đồng, các cháu nhớ ghi thật nhiều bàn thắng nhé".

Không có gì có thể diễn tả được niềm vui của lũ trẻ lúc đó, bình thường đá bóng thì bị đuổi, bây giờ được đá thỏa thích, thậm chí còn được tiền nữa. Lũ trẻ đá rất hăng, ghi bàn rất nhiều. Ông già giữ lời hứa, cứ mỗi bàn thắng lũ trẻ nhận được 10 đồng.

Ngày hôm sau, lũ trẻ lại đến đá bóng, và trước khi đá, ông già gọi lũ trẻ ra và nói: "Các cháu đá hay quá, xuất sắc quá, nhưng mà ông không còn nhiều tiền, nên hôm nay ông chỉ cho các cháu 7 đồng mỗi bàn thắng thôi". Lũ trẻ chưng hửng vì được cho ít tiền hơn, nhưng mà không sao, vẫn được 7 đồng mà. Chúng nó lại hò hét, lại đá, lại ghi bàn và lại nhận tiền.

Thêm một ngày trôi qua, lũ trẻ lại đến, trong lòng đã có suy nghĩ, không biết hôm nay ông ấy cho mình bao nhiêu tiền. Ông già vẫn tươi cười và nói: "Hôm nay ông chưa lĩnh lương hưu, nên ông chỉ có thể cho các cháu 5 đồng thôi" . Lũ trẻ vẫn đá, nhưng không khí trở nên nặng nề hơn.

Lại thêm một ngày, lũ trẻ tiếp tục đến đá bóng, ông già nói: "Hôm nay cháu nào ghi bàn sẽ được 2 đồng, nhưng hãy đá thật hay nhé". Lũ trẻ thấy khó chịu, tại sao chỉ được 2 đồng mà mình phải cố gắng, phải ghi bàn làm gì. Vài đứa đá hay trong đội đã bỏ về, nghĩ rằng mình đang bị ông già bóc lột sức lao động.

Ngày hôm sau, lũ trẻ đến với tâm trạng uể oải, ông già tươi cười nói: "Các cháu ơi, hôm nay ông hết tiền rồi, nhưng các cháu cứ đá cho vui". Lũ trẻ tức tối bỏ về, trả lại cho ông già một khoảng sân yên lặng...

(Theo sponsell.com)

***

Những đứa trẻ lúc đầu đá bóng vì đam mê, vì đây là một trò chơi mang lại niềm vui, nhưng sau đó, chúng đá vì Tiền. Và dần dần bị lệ thuộc vào nó.

Còn chúng ta? Có bao giờ chúng ta đã lãng quên những đam mê, niềm vui của chính mình, chỉ vì tiền và những thứ vật chất đầy cám dỗ của cuộc đời?

Những chuyện ngụ ngôn hay - Lũ ếch muốn có vua

LŨ ẾCH MUỐN CÓ VUA

Lũ ếch đã chán chường mệt mỏi với việc tự trị. Chúng đã được tự do quá nên lại đâm ra hư hỏng, chúng chẳng làm gì, cứ ngồi chán chường kêu ộp ộp và muốn có một chính phủ giúp cho chúng có được cuộc sống đế vương hoàng tộc, và cai quản chúng theo một cách thức để chúng biết là chúng có người đứng đầu cầm quyền. Chúng ta không thể vô chính phủ như thế này nữa, chúng tuyên bố. Thế là chúng trình thư kiến nghị lên thần Jupiter để xin một ông vua cho chúng.

Thần Jupiter thấy chúng thô thiển và ngu ngốc quá, nhưng muốn chúng không kêu gào nữa và để cho chúng biết là chúng có vua, thần liền ném xuống một khúc gỗ lớn, rõi xuống ao văng nước lên tung tóe. Lũ ếch nấp mình vào đám lau sậy, nghĩ rằng chúng đã có một ông vua mới quyền uy đáng sợ.

Nhưng chẳng bao lâu, chúng đã phát hiện ra Vua Khúc Gỗ của chúng hiền lành ít nói chẳng khác gì cục đất. Chẳng mấy chốc mấy con ếch con đã dùng vua để làm cái bệ nhảy để lao xuống nước, còn mấy ông ếch già lại dùng vua để làm nơi hội họp, ở đó chúng lớn tiếng phàn nàn với thần Jupiter về chính phủ của chúng.

Để dạy cho lũ ếch một bài học, vị thần của các thần này liền phái xuống một con Ngỗng để làm vua nước ếch. Con Ngỗng tỏ ra khác hẳn so với vị vua Khúc Gỗ cũ. Nó gộp gộp quát lũ ếch đứng nghiêm, quay trái, quay phải suốt ngày, chẳng mấy chốc lũ ếch đã nhận ra sự ngu ngốc của mình. Ộp ộp rên rỉ, chúng van nài thần Jupiter rút lại vị vua tàn bạo này không thì cả lũ ếch của chúng chắc sẽ chết hết.

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

QUÍ HƠN NGỌC 


Một người phụ nữ lịch duyệt đi du lịch trong vùng núi đã tìm thấy một viên đá qúi trong giòng nước. Ngày hôm sau bà ta gặp một du khách khác bị đói, và người phụ nữ lịch duyệt này đã mở túi của mình để chia thực phẩm của mình. Người du khách đói kia đã nhìn thấy viên đá quí và hỏi người phụ nữ xin người phụ nữ cho viên đá cho mình. Bà ta đã làm mà không hề lưỡng lự. Người du khách rời khỏi, vui mừng trong vận may của mình. Ông ta đã biết viên đá có giá trị đủ để cho ông ta một cuộc sống yên ổn suốt đời.

Nhưng vài ngày sau ông ta đã trở lại để trả viên đá cho người phụ nữ lịch duyệt. "Tôi đã suy nghĩ," ông ta nói, "Tôi biết giá trị của viên đá như thế nào, nhưng tôi trả nó lại trong sự hy vọng rằng bà có thể cho tôi cái gì quí giá hơn. Cho tôi cái gì mà bà có ở trong tâm bà mà điều đó đã làm cho bà cho tôi viên đá đó 

Điển Hay Tích Lạ - Khúc phượng cầu hoàng

Khúc phượng cầu hoàng

Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh, người ở Thành Đô đời nhà Hán. Người rất đa tài, văn hay, đàn giỏi.
    Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: "Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử kiều" (Không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa).
    Nhưng vốn con người phóng lãng hào hoa rất mực nên mua được một chức quan nhỏ, làm trong ít lâu, chán, cáo bịnh, qua chơi nước Lương, rồi trở về nước Thục. Đến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu.
    Trong khi đến đất Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quan lệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trạc Vương Tôn, vốn viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu đánh cho một bài.
    Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc "Phượng cầu hoàng (Chim phượng trống tìm chim phượng mái).
        Chim phượng, chim phượng về cố hương,
        Ngao du bốn bể tìm chim hoàng
        Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
        Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
        Có cô gái đẹp ở đài trang,
        Nhà gần người xa não tâm tràng.
        Ước gì giao kết đôi uyên ương,
        Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.
    Nguyên văn:
        Phượng hề, phượng hề quy cố hương,
        Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,
        Thời vị ngộ hề vô sở tương,
        Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.
        Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,
        Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.
        Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
        Tương hiệt cương hề cộng cao tường.
    Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê, đương đêm bỏ nhà đi theo chàng. Trác ông tức giận, quyết định từ con.
    Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm.
    Sau Hán Vũ Đế đọc bài "Tử hư phú" của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức tước. Lại sai chàng cầm cờ tiết, thay nhà vua về Ba Thục chiêu an bọn phụ lão tùng phục nhà Hán. Lần này thỏa chí bình sinh, Tương Như áo gấm vinh quy được người đón rước long trọng. Nhưng làm quan ít lâu, lại chán, cáo bịnh lui về quê.
    Trong "Bích Câu kỳ ngộ" có câu:
        Cầu hoàng tay lựa nên vần,
        Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.
    Và, trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du cũng có câu:
        Khúc đâu Tư Mã phượng cầu,
        Nghe ra như oán, như sầu phải chăng!
    đều do điển tích trên.

Chuyện cười trong ngày

Giống nhau như đúc…

 - Trông nhà ngươi giống ta như như đúc, – công tước nói với một chàng trai tình cờ gặp ngoài đường. Mẹ nhà ngươi có khi nào đã từng làm người hầu trong cung điện của nhà ta hay không?

- Bẩm không ạ,  chàng trai được hỏi lễ phép trả lời, chỉ có cha em là đã có thời gian từng làm người quản ngựa cho quý bà sinh ra ngài  thôi ạ.

Thursday, April 28, 2016

Ngày 28-4-2016 Suy Niệm Trong Ngày

Chuyện ngằn - Người Mỹ dạy bài học cô bé Lọ Lem

NGƯỜI MỸ DẠY BÀI HỌC CÔ BÉ LỌ LEM NHƯ THẾ ĐẤY!

Sau 12 giờ đêm, mọi thứ đều trở lại nguyên dạng như cũ, thế nhưng đôi giày thủy tinh của Cinderella lại không trở về chỗ cũ.

***

Giờ học văn bắt đầu. Hôm nay thầy giảng bài Chuyện Cô bé Lọ Lem.

Trước tiên thầy gọi một học sinh lên kể chuyện Cô bé Lọ lem. Em học sinh kể xong, thầy cảm ơn rồi bắt đầu hỏi.

Thầy: Các em thích và không thích nhân vật nào trong câu chuyện vừa rồi?

Học sinh (HS): Thích Cô bé Lọ Lem Cinderella ạ, và cả Hoàng tử nữa. Không thích bà mẹ kế và chị con riêng bà ấy. Cinderella tốt bụng, đáng yêu, lại xinh đẹp. Bà mẹ kế và cô chị kia đối xử tồi với Cinderella.
Thầy: Nếu vào đúng 12 giờ đêm mà Cinderella chưa kịp nhảy lên cỗ xe quả bí thì sẽ xảy ra chuyện gì?

HS: Thì Cinderella sẽ trở lại có hình dạng lọ lem bẩn thỉu như ban đầu, lại mặc bộ quần áo cũ rách rưới tồi tàn. Leo ôi, trông kinh lắm !

Thầy: Bởi vậy, các em nhất thiết phải là những người đúng giờ, nếu không thì sẽ tự gây rắc rối cho mình. Ngoài ra, các em tự nhìn lại mình mà xem, em nào cũng mặc quần áo đẹp cả. Hãy nhớ rằng chớ bao giờ ăn mặc luộm thuộm mà xuất hiện trước mặt người khác. Các em gái nghe đây: các em lại càng phải chú ý chuyện này hơn. Sau này khi lớn lên, mỗi lần hẹn gặp bạn trai mà em lại mặc luộm thuộm thì người ta có thể ngất lịm đấy (Thầy làm bộ ngất lịm, cả lớp cười ồ).

Bây giờ thầy hỏi một câu khác. Nếu em là bà mẹ kế kia thì em có tìm cách ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử hay không? Các em phải trả lời hoàn toàn thật lòng đấy !

HS: (im lặng, lát sau có em giơ tay xin nói) Nếu là bà mẹ kế ấy, em cũng sẽ ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội.

Thầy:Vì sao thế ?

HS: Vì ... vì em yêu con gái mình hơn, em muốn con mình trở thành hoàng hậu.

Thầy: Đúng. Vì thế chúng ta thường cho rằng các bà mẹ kế dường như đều chẳng phải là người tốt. Thật ra họ chỉ không tốt với người khác thôi, chứ lại rất tốt với con mình. Các em hiểu chưa? Họ không phải là người xấu đâu, chỉ có điều họ chưa thể yêu con người khác như con mình mà thôi.

Bây giờ thầy hỏi một câu khác: bà mẹ kế không cho Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử, thậm chí khóa cửa nhốt cô bé trong nhà. Thế tại sao Cinderella vẫn có thể đi được và lại trở thành cô gái xinh đẹp nhất trong vũ hội ?

HS: Vì có cô tiên giúp ạ, cô cho Cinderella mặc quần áo đẹp, lại còn biến quả bí thành cỗ xe ngựa, biến chó và chuột thành người hầu của Cinderella.

Thầy: Đúng, các em nói rất đúng! Các em thử nghĩ xem, nếu không có cô tiên đến giúp thì Cinderella không thể đi dự vũ hội được, phải không?

HS: Đúng ạ!

Thầy: Nếu chó và chuột không giúp thì cuối cùng Cinderella có thể về nhà được không?

HS: Không ạ!

Thầy: Chỉ có cô tiên giúp thôi thì chưa đủ. Cho nên các em cần chú ý: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta đều cần có sự giúp đỡ của bạn bè. Bạn của ta không nhất định là tiên là bụt, nhưng ta vẫn cần đến họ. Thầy mong các em có càng nhiều bạn càng tốt.

Bây giờ, đề nghị các em thử nghĩ xem, nếu vì mẹ kế không muốn cho mình đi dự vũ hội mà Cinderella bỏ qua cơ hội ấy thì cô bé có thể trở thành vợ của hoàng tử được không?

HS: Không ạ! Nếu bỏ qua cơ hội ấy thì Cinderella sẽ không gặp hoàng tử, không được hoàng tử biết và yêu.

Thầy: Đúng quá rồi! Nếu Cinderella không muốn đi dự vũ hội thì cho dù bà mẹ kế không ngăn cản đi nữa, thậm chí bà ấy còn ủng hộ Cinderella đi nữa, rốt cuộc cô bé cũng chẳng được lợi gì cả. Thế ai đã quyết định Cinderella đi dự vũ hội của hoàng tử?

HS: Chính là Cinderella ạ.

Thầy: Cho nên các em ạ, dù Cinderella không còn mẹ đẻ để được yêu thương, dù bà mẹ kế không yêu cô bé, những điều ấy cũng chẳng thể làm cho Cinderella biết tự thương yêu chính mình. Chính vì biết tự yêu lấy mình nên cô bé mới có thể tự đi tìm cái mình muốn giành được. Giả thử có em nào cảm thấy mình chẳng được ai yêu thương cả, hoặc lại có bà mẹ kế không yêu con chồng như trường hợp của Cinderella, thì các em sẽ làm thế nào ?

HS: Phải biết yêu chính mình ạ!

Thầy: Đúng lắm! Chẳng ai có thể ngăn cản các em yêu chính bản thân mình. Nếu cảm thấy người khác không yêu mình thì em càng phải tự yêu mình gấp bội. Nếu người khác không tạo cơ hội cho em thì em cần tự tạo ra thật nhiều cơ hội. Nếu biết thực sự yêu bản thân thì các em sẽ tự tìm được cho mình mọi thứ em muốn có. Ngoài Cinderella ra, chẳng ai có thể ngăn trở cô bé đi dự vũ hội của hoàng tử, chẳng ai có thể ngăn cản cô bé trở thành hoàng hậu, đúng không?

HS: Đúng ạ, đúng ạ!

Thầy: Bây giờ đến vấn đề cuối cùng. Câu chuyện này có chỗ nào chưa hợp lý không?

HS: (im lặng một lát) Sau 12 giờ đêm, mọi thứ đều trở lại nguyên dạng như cũ, thế nhưng đôi giày thủy tinh của Cinderella lại không trở về chỗ cũ.

Thầy: Trời ơi! Các em thật giỏi quá! Các em thấy chưa, ngay cả nhà văn vĩ đại (nhà văn Pháp Charles Perrault, tác giả truyện Cô Bé Lọ Lem – chú thích của người dịch) mà cũng có lúc sai sót đấy chứ. Cho nên sai chẳng có gì đáng sợ cả. Thầy có thể cam đoan là nếu sau này có ai trong số các em muốn trở thành nhà văn thì nhất định em đó sẽ có tác phẩm hay hơn tác giả của câu chuyện Cô bé Lọ lem! Các em có tin như thế không?

Tất cả học sinh hồ hởi vỗ tay reo hò.

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

ÂM THANH CỦA HẠNH PHÚC 


Sau khi Bankei viên tịch, một người mù sống bên cạnh ngôi chùa của thiền sư kể với người bạn: "Từ khi tôi mù, tôi không thể nào nhìn thấy được mặt người, cho nên tôi phải đoán tâm tánh của người qua thanh âm tiếng nói của người đó. Thông thường khi tôi nghe thấy ai chúc mừng người khác được hạnh phúc hay thành công, tôi cũng nghe được một giọng ganh tị thầm kín. Khi nghe lời chia buồn với điều bất hạnh của người khác, tôi nghe có sự hài lòng và thỏa mãn, như là người đang chia buồn nhưng thật ra là sung sướng vì có gì đó còn lại để kiếm được trong thế giới của ông ta.

"Với tất cả kinh nghiệm của tôi, tuy nhiên, giọng nói của Bankei luôn luôn chân thành. hễ khi nào ông bầy tỏ sự vui sướng, tôi chỉ nghe thấy giọng vui thôi, và mỗi khi ông phiền muộn, tôi chỉ nghe thấy một giọng phiền muộn."

Những chuyện ngụ ngôn hay - Câu chuyện ốc sên

CÂU CHUYỆN ỐC SÊN

"Chúng ta không dựa vào trời, cũng chẳng dựa vào đất, chúng ta dựa vào chính bản thân chúng ta"
Ốc sên con ngày nọ hỏi mẹ:

"Mẹ ơi! Tại sao chúng ta từ khi sinh ra phải đeo cái bình vừa nặng vừa cứng trên lưng như thế? Thật mệt chết đi được!"

"Vì cơ thể chúng ta không có xương để chống đỡ, chỉ có thể bò, mà bò cũng không nhanh" - Ốc sên mẹ nói.

"Chị sâu róm không có xương cũng bò chẳng nhanh, tại sao chị ấy không đeo cái bình vừa nặng vừa cứng đó?"

"Vì chị sâu róm sẽ biến thành bướm, bầu trời sẽ bảo vệ chị ấy".

"Nhưng em giun đất cũng không có xương, cũng bò chẳng nhanh, cũng không biến hoá được, tại sao em ấy không đeo cái bình vừa nặng vừa cứng đó?"

"Vì em giun đất sẽ chui xuống đất, lòng đất sẽ bảo vệ em ấy".

Ốc sên con bật khóc, nói: "Chúng ta thật đáng thương, bầu trời không bảo vệ chúng ta, lòng đất cũng chẳng che chở chúng ta".

"Vì vậy mà chúng có cái bình!" - Ốc sên mẹ an ủi con - "Chúng ta không dựa vào trời, cũng chẳng dựa vào đất, chúng ta dựa vào chính bản thân chúng ta".

Điển Hay Tích Lạ - Đồng Tiền Vạn Lịch

Đồng tiền Vạn Lịch

Ngày xưa có một người lái buôn tên là Vạn Lịch. Hắn ta buôn to, giàu có vào hạng nhất nhì trong nước. Hắn có ngót một trăm chiếc thuyền dùng vào việc chở hàng. Chiếc thuyền riêng của Lịch có buồng ăn, buồng nằm... Không khác gì nhà ở trên đất. Xung quanh chỗ ngồi trang sức bằng gấm vóc. Đồ đùng toàn bằng vàng bạc. Lịch có một người vợ trẻ và đẹp là Mai Thị. Trong những lúc đi buôn bán xa, hắn thường ngờ vợ không thực lòng với mình. Hắn hay xét nét từng li từng tí làm cho nàng tuy sung sướng nhưng cũng rất khổ tâm. Một hôm thuyền của Lịch đậu ở một bãi vắng. Mai thị ngồi trước mũi nhìn ra ngoài. Bỗng có một người đánh giậm ở đâu đến cạnh thuyền xin một miếng trầu. Mai thị thấy người đó đóng khố , mình mẩy lấm láp thì thương hại, hỏi thăm mấy câu rồi lấy mấy miếng trầu trong cơi vàng đem cho. Lịch đang ngủ chợt thức giấc thấy thế, cơn ghen nổi lên đùng đùng. Chờ cho anh đánh giậm đi khỏi, hắn gây chuyện với vợ rồi xỉ vả nàng thậm tệ. Mặc dầu Mai thị thề thốt hết lời nhưng hắn không nghe. Hắn trả xống áo cho nàng, vứt cho một thoi vàng, một thoi bạc và đuổi đi ngay.

Mai thị bơ vơ một mình trên bãi biển. Nàng gặp lại người đánh giậm bèn gạt nước mắt kể lể sự tình. Anh chàng đánh giậm ngẩn ngơ cả người, không hiểu ra làm sao cả. Khi biết anh ta chưa có vợ lại sống một thân một mình, nàng bảo:

-Hắn bảo tôi dan díu với anh. Chả là số tôi không lấy được kẻ giàu sang, tôi xin lấy anh làm chồng, dù có khổ sở thế nào đi nữa tôi cũng chịu được. Chúng ta sẽ làm ăn nuôi nhau. Anh chàng đánh giậm không biết từ chối thế nào, cuối cùng dẫn người đàn bà kia về túp lều của mình dựng bên bờ sông. Và họ trở nên vợ chồng. Hàng ngày chồng vẫn làm nghề cũ, còn vợ thì ở nhà chăn nuôi gà vịt. Tuy nghèo nhưng họ sống êm ấm, không xô xát với nhau bao giờ.

* * *

Ba năm trôi qua. Một hôm trời mưa, chồng rỗi việc ở nhà, vợ ngồi vá áo. Chồng thấy đàn gà thi nhau mổ thóc ở thúng, sẵn có thỏi vàng của vợ trong thúng khâu, hắn không biết là vật gì liền cầm lấy ném đàn gà. Chẳng may ném mạnh quá thỏi vàng văng luôn xuống sông. Thấy vậy, vợ trách chồng:

-Kìa, người sao mà ngu đần thế! Anh có biết anh vừa ném cái gì không? Chồng đáp gọn lỏn:

-Chả biết.

-Đấy là vàng quý nhất ở trên thế gian đấy.

-Thứ ấy thì thiếu gì. Những lúc bắt cá ở một vũng kia tôi vẫn nhặt được luôn nhưng không biết dùng làm gì nên lại vứt bỏ.

Đến lượt vợ lại ngẩn cả người, liền hối hả giục chồng đi lấy về. Quả nhiên đó là vàng thực và lạ thay mỗi thỏi đều có dấu hiệu riêng của Vạn Lịch. Nguyên do Vạn Lịch từ ngày đuổi vợ, buôn bán có phần thua lỗ. Một chuyến bị bão, thuyền đắm, Lịch chỉ thoát được thân còn bao nhiêu vàng bạc của cải đều chìm xuống nước và trôi giạt vào đây. Thế là kho vàng của Lịch lại thuộc về tay vợ chồng Mai thị. Từ khi có của, Mai thị bèn xây dựng nhà cửa và sắm ăn sắm mặc cho chồng. Thấy chồng quá ngờ nghệch, vợ bảo phải năng chơi bời với người ta để học khôn học khéo hòng mở mặt với đời. Chồng nghe lời, vào xóm gạ chuyện với mọi người để làm quen nhưng chả có ai thèm chơi với thằng nghèo lại nổi tiếng đần độn. Luôn mấy hôm liền, hắn đi không về rồi. Vợ hỏi: 

"Đã chơi được với ai chưa?". 

"Chưa". 

Mai thị lắc đầu nói một mình rằng: "Người đâu u mê đến thế. Suốt mấy hôm trời mà không làm quen được một ai. Họa có chơi với phỗng thì được!". 

Nghe nói thế, chồng tưởng vợ bảo mình không chơi với người thì chơi với phỗng, bèn tìm đến một ngôi đền vắng ở xa xóm. Hắn lân la toan làm quen với mấy bức tượng phỗng đặt ở hai bên sân đền. Thấy tượng phỗng nhe răng cười, hắn cũng cười theo, rồi lại quàng vai bá cổ làm như chơi đùa với người thật. Sau đó hắn đi mua bún lòng về mời ăn, nhét cho mỗi tượng một miếng vào miệng. Cuối cùng chẳng thấy phỗng nói gì, hắn tức mình xô phỗng từ trên bệ lăn kềnh xuống đất rồi bỏ ra về. Khi vợ hỏi, hắn kể lại tình thực. Mai thị giẫm chân kêu trời, đành giữ chồng lại nhà để dạy khôn cho hắn. Không ngờ ngôi đền mà anh chàng đánh giậm đến chơi lại là nơi phát tích của nhà vua. Tự nhiên, sau khi anh đánh giậm xô đổ tượng phỗng, nhà vua bị đau bại một nửa người. Bao nhiêu danh y được triệu vào cung chữa bệnh cho thiên tử đều lắc đầu bó tay. Một ông quan thái bốc gieo quẻ báo tin rằng ngôi đền này động. Lập tức triều đình phái quan tỉnh về làm lễ tạ. Pho thượng phỗng đổ xuống đất làm cho họ chú ý. Nhưng khi định dựng tượng dậy thì lạ thay, hàng chục người mó vào đều nâng không nổi. Quan truyền cho mấy cơ lính dùng đòn dây xúm vào cùng khiêng nhưng rốt cuộc tượng vẫn không hề nhúc nhích. Tin ấy bắn về kinh đô, nhà vua rất lo, liền sai yết bảng cho tất cả thần dân ai có phép gì dựng được phỗng lên bệ thì sẽ hậu thưởng. Hôm ấy Mai thị đi chợ qua đó thấy bảng yết thế, bèn về hỏi chồng:

-Hôm ấy anh làm thế nào đẩy ngã pho tượng xuống được? 

Hắn đáp:

-Tôi chỉ khẽ ẩy một cái là đổ ngay.

-Thế bây giờ có dựng lên được không?

-Làm gì mà chả được! 

Vợ bèn cùng chồng ra giật bảng xin quan cho vào nâng thử. Quả nhiên khi người đánh giậm mó tay vào tượng liền đứng lên được. Từ hôm đó nhà vua khỏi bệnh. Vua sai lấy vàng bạc thưởng cho vợ chồng Mai thị nhưng họ không nhận, chỉ xin làm một chân tuần ty ở sông Cả. Chức vụ tuần ty chỉ ngồi thu thuế không cần biết chữ. Vua ưng cho ngay. Hai vợ chồng liền đi nhậm chức. Sẵn vàng bạc, họ đưa ra xây dựng nhà cửa rất nguy nga ở bên cửa sông. Từ đó họ nổi tiếng giàu có trong vùng. Một hôm, thuyền của Vạn Lịch đi qua đấy, đỗ lại ở cửa tuần cho người lên nộp thuế. Mai thị biết vậy liền ra lệnh bắt chủ phải thân đến nộp. Tiến vào công đường, Lịch xiết bao kinh ngạc khi thấy ngồi trước án là người vợ cũ của mình cùng anh chàng đánh giậm ngày xưa. 

Mai thị mỉa mai bảo hắn:
 Biết rằng anh vẫn đi buôn,
 Em về kiếm chốn nha môn ngồi tuần. 
Dù anh buôn bán xa gần, 
Làm sao tránh khỏi cửa tuần em đây. 

Nghe câu ấy, Vạn Lịch vô cùng xấu hổ. Hắn từ tạ trở về thuyền. Vừa thẹn vừa uất, hắn nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn lại vợ lần nữa. Đoạn hắn làm giấy kê khai tất cả của cải đem biếu Mai thị nói là để chuộc lỗi xưa, rồi đâm cổ tự tử. Mai thị thấy vậy lấy làm hối hận. Sau đó nàng đem bao nhiêu tài sản của Vạn Lịch, tâu vua xin đúc một thứ tiền gọi là "tiền Vạn Lịch" rồi đem phân phát cho những người nghèo khổ. Ngày nay thỉnh thoảng người ta vẫn còn nhặt được một vài đồng tiền đó. Người ta còn có câu hát: 

Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng,
Anh tiếc công anh dan díu với nàng bấy lâu.

Chuyện cười trong ngày

Con gì?

- A (thở dài): Có đôi lúc tớ cũng ko biết tớ có phải là con người ko?
- B: Tại sao vậy?
- A: Lúc tớ cười thì nhỏ hàng xóm bảo tớ như đười ươi, lúc tớ ko hiểu bài thì anh tớ bảo ngu như heo và những lúc tớ quên tắm thì em gái tớ bảo tớ hôi như cú!

Wednesday, April 27, 2016

Ngày 27-4-2016 Suy Nghiệm Trong Ngày

Chuyện ngắn - Bán chữ

BÁN CHỮ

- Tôi yêu cầu các em phải đi học thêm! – Quắc mắt nhìn lũ học trò chẳng hiểu mô tê gì, tôi nói tiếp - Các em có nghe tôi nói không?
Vẫn im lặng.
Trống đổi tiết. Tôi hết giờ dạy. Xuống phòng hội đồng nhìn đồng nghiệp cười nói vui vẻ, tôi tự trách mình sao cứ để cuộc sống đến bây giờ vẫn khốn đốn. Không biết có phải cái chất tiểu tư sản làm bản tính tôi ngại khó, ngại khổ trong việc cạnh tranh để sinh tồn hay vì sỉ diện?

Rời khỏi trường, đầu óc tôi miên man với những nghĩ suy gần như là đốn mạt đang gặm nhấm linh hồn tôi. Tôi quyết định dạy thêm để tồn tại. Phải bằng mọi giá bắt buộc lũ học trò đến nhà tôi học thêm. Phải bằng mọi giá, mọi giá mới được...
Dắt chiếc xe đạp vào nhà, tôi cất tiếng lấy lòng vợ:

- Có chuyện gì cần anh làm không nào?

Im lặng.

- Em mệt hả? Cứ nghỉ cho khỏe. Mọi chuyện để đó, anh làm cho.

Vợ tôi cất tiếng:

- Tôi ở nhà là để phục vụ anh chắc!

Tôi sững sờ:

- Ơ hay! Sao bữa nay em nói vậy? Có khi nào anh coi thường em đâu?

- Tôi chán cảnh tù túng này rồi! Nhờ anh đi xin việc, anh cứ khất hẹn... Tôi đi làm để mình tôi ăn chắc?

Tôi xẵng giọng:

- Em không biết anh chẳng quen thân ai ngoài lũ học trò. Vả lại, em đã lớn tuổi, cơ quan, xí nghiệp nào nhận người quá tuổi như em?

- Tôi già rồi chứ gì? Ờ! Tôi già rồi, hèn gì...

Bữa trưa hôm ấy, tôi đắng cả cuống họng. Cơm nuốt chẳng trôi. Hai đứa con tôi lại thúc bên tai tôi:

- Ba! Cho con tiền nộp học phí.

- Ba! Cho con tiền mua vở.

Ăn cơm xong, tôi lên giường nằm. Đầu óc tôi cuốn theo cơn lốc nghề nghiệp.

Trước đây, khi còn trẻ, tôi đâu có tính toán phải làm nghề nọ, nghề kia đâu... Được vào trường sư phạm, tôi vẫn chưa có khái niệm về nghề dạy học. Đơn giản là tôi được đọc Tố tâm của Hoàng Ngọc Phách. Thế là tôi muốn trở thành người cầm bút và dạy học. Việc đời cứ tưởng êm xuôi theo mộng ước của mình, thế nhưng đời đâu là ly nước trà cúng, mà đời là biển lớn khi tôi lao vào cuộc sống để sinh tồn.

Rồi xí nghiệp chỗ vợ tôi làm bị giải thể. Vợ tôi thành người thất nghiệp và biến thành người nội trợ hay nói. Không biết có phải không có việc làm, người ta thường tạo ra cớ để nói cho quân bình trạng thái tâm thần?

***

Tôi mở lớp dạy thêm như bao đồng nghiệp khác. Tôi dạy thêm văn. Chứ còn cách nào khác để kiếm thêm tiền trong thời buổi cạnh tranh này.

Giờ trả bài tập làm văn, các học sinh nhìn tôi ái ngại. Rồi, em lớp phó học tập đứng lên nói:

- Thưa thầy! Sao điểm cả lớp ít thế, thầy?

Tôi được dịp tấn công:

- Tại các em không chuẩn bị bài kỹ. Phải đi học thêm mới có thể tiến bộ! Các em nghĩ xem, ăn vào nó không nở bề dọc thì nó nở bề ngang. Học thêm thì nó cũng thế!

Tôi vừa dứt lời, cả lớp nhao nhao:

- Thầy! Thầy dạy thêm cho chúng em đi thầy!

Rồi thầy trò chúng tôi ngã giá về việc dạy học thêm.

Lòng tôi mừng khấp khởi. Về nhà, tôi quên cả cơm trưa. Tôi hì hục một mình kê dọn lại bàn ghế để làm công việc dạy học theo nghĩa của nền kinh tế cạnh tranh lấy đồng tiền làm thước đo mọi giá trị.

Học trò đến đông. Không đủ chỗ ngồi. Các em phải đứng mà học thêm.

Tôi dạy bày tỉ mỉ, rất chân thành với các em. Rồi... cứ thế... ngày lại ngày...

***



Lại đến giờ các học sinh nhận lại bài tập làm văn. Các em xem lại các lỗi tôi đã phê vào bài làm. Có tiếng xì xào. Tôi đập thước trên bàn hỏi:

- Làm gì mà ồn thế?

- Thưa thầy, bài em làm giống như bạn Tuấn mà bạn lại nhiều điểm hơn em? - Sơn đứng dậy kiện. Sơn là học sinh không đi học thêm môn văn.

- Thế, em mấy điểm? Tuấn mấy điểm?

- Dạ! Em được 4 điểm, còn Tuấn được 8 điểm.

Tôi nghiêm mặt, đập thước xuống bàn, nói to:

- Có thật không? Đem bài lên cho tôi xem nào!

Đối chiếu hai bài của Sơn và Tuấn: giống nhau, không sai một tí nào, giống như bài văn tôi đã dạy thêm.

Tôi bán chữ. Tôi bán cháo phổi. Tôi cũng bán dần lương tâm nhà giáo... Tôi ấp úng nói:

- Thầy... thầy xin lỗi! Thầy lộn...

Tôi cúi mặt, sửa điểm cả hai bài. Cả hai bài đều đạt điểm 2. Rồi tôi tuyên bố:

- Thầy huỷ bài này. Không lấy điểm vào sổ. Thầy ra lại đề khác cho các em. Chúng ta phải làm lại! Chúng ta phải làm lại. Cả thầy và các em. Các em hiểu không?

Tôi bước ra khỏi phòng học. Sân trường đầy nắng mai rực rỡ. Những con chim sẻ thanh thản ríu rít hoà tiếng cười của lũ học trò trong giờ ra chơi.

Tháng Tư, 1995

Phan Trang Hy

Những chuyện ngụ ngôn hay - Lão hà tiện

LÃO HÀ TIỆN

Ngày xửa ngày xưa, có một lão hà tiện yêu tiền hơn yêu cuộc sống của mình. Ông ta có một đữa con mười tuổi và rất nhiều nô bộc trong nhà. Lão hà tiện thấy của mình cứ ra ra vào vào, trong lòng rất lo lắng. Hắn nghĩ, nếu nô bộc lấy cắp đồ đạc của mình mà mình không biết thì rõ ràng là đã mất quá nhiều!

Lão hà tiện liền đuổi việc tất cả nô bộc trong nhà, bán cả nhà, đổi toàn bộ tài sản của mình thành vàng và chôn xuống đất. Hắn và đứa con trai ở trong hai căn phòng nhỏ, sống cuộc sống bình thường như những người khác. Không lâu sau đó, lão hà tiện lại có nỗi khổ khác, lão e rằng tiền vàng mà mình chôn dưới đất sẽ bị ai đó phát hiện ra. Thế là ngày nào lão cũng đào tiền vàng lêu kiểm tra, chỉ khi tận mắt nhìn thấy những đồng tiền vàng óng lão mới yên tâm.

Hành động kỳ quặc ccó của lão hà tiện khiến mọi người chú ý, đặc biệt là người chăn cừu hàng xóm. Có một hôm, lão hà tiện lại đến chỗ giấu vàng, đảo mắt nhìn quanh thấy không có ai mới dám nhẹ nhàng đào hòm tiền vàng lên, đếm đi đếm lại, sau đó lại chôn vào chỗ cũ, yên tâm về nhà. Người chăn cừu nấp đằng sau một cái cây đã nhìn thấy tất cả. Thế là anh liền đến chỗ lão hà tiện chôn hòm tiền vàng, đào lên và mang chia cho những người nghèo trong làng.

Ngày hôm sau, lão hà tiện lại đến chỗ chôn tiền vàng kiểm tra, khi phát hiện ra tiền vàng không còn nữa, liền ôm mặt khóc rưng rức. Có người thấy vẻ đau khổ của lão hà tiện liền hỏi nguyên do và an ủi:

- Ông đừng buồn nữa, tiền vàng tuy là của ông, nhưng từ trước đến nay ông chưa dùng gì đến nó, như vậy còn có ý nghĩa gì nữa? Bây giờ tuy không còn tiền nữa, nhưng nếu tiền có thể phát huy được tác dụng của nó, thì ông cũng nên cảm thấy vui mừng thay nó chứ, phải không?

Lời bàn:

Tiền dù có nhiều đến mấy nhưng không phát huy được tác dụng của nó thì cũng chỉ giống như đống sắt vụn mà thôi.

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

THAM LAM 


Đi ngang qua một vị tu sĩ đang cầu nguyện trong lúc đi chung quanh toà thánh, Geshe Tenpa nói,

"Thú vị xiết bao để mà đi chung quanh nơi thiêng liêng, nhưng bạn biết là, thực hành Giáo Pháp kỳ diệu thì tốt hơn nhiều."

Vị tu sĩ tiếp nhận những lời nói vào tâm và bắt đầu nghiêm túc học thánh kinh. Một ngày Geshe Tenpa đi ngang qua vị tu sĩ và phê bình,

"Thú vị xiết bao để học thánh kinh, nhưng bạn biết là, thực hành Giáo pháp kỳ diệu thì tốt hơn nhiều."

Vị tu sĩ tiếp nhận những lời nói vào tâm và đã chọn tập trung sâu vào thiền định. Một ngày Geshe Tenpa đi ngang qua vị tu sĩ và nói,

"Sung sướng xiết bao được chìm đắm vào một điểm của thiền định, nhưng bạn biết là, thực hành Giáo pháp kỳ diệu thì tốt hơn nhiều."

Vị tu sĩ đã hết sức bối rối. Ông khẩn cầu trong sự tuyệt vọng, "Thưa Ngài Thiền Sư, hãy dạy tôi làm gì."

Geshe Tenpa mỉm cười và trả lời, "Chỉ ngừng sự nắm chặt vào những sự vật."

Điển Hay Tích Lạ - Củi đậu đun hột đậu

 Củi đậu đun hột đậu

Đời Tam Quốc (220-264), Tào Thực tự Tử Kiến là con thứ ba của Tào Tháo, vốn có tài làm thơ hay, được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán nhưng có tính phóng túng. Tào Tháo thương lắm nhưng không thể truyền ngôi cho một chàng giàu tâm hồn nghệ sĩ ấy được.
    Tháo chết, truyền ngôi cho con cả là Tào Phi. Thực bản tính ngông nghênh bất phục, có ý chống lại ông vua anh. Phi giận lắm, truyền người bắt Thực đến định làm tội. Nhưng vì yêu tài Thực nên Phi bảo:
    - Ta với mày tuy tình anh em nhưng nghĩa vua tôi, sao dám cậy tài miệt lễ? Ngày tiên quân còn, mày thường đem văn chương khoe giỏi lòe đời. Ta rất nghi, có lẽ mày nhờ người khác làm giúp. Vậy giờ đây ta ra hạn: đi bảy bước phải làm xong một bài thơ. Nếu làm được thì tha tội chết; bằng không xong, ta quyết chẳng dung.
    Thực nói:
    - Xin ra đề cho.
    Trên điện sẵn có treo bức tranh thủy mặc, vẽ hai con trâu chém nhau bên bức tường đất. Một con rơi xuống giếng chết. Tào Phi trỏ vào bức tranh, bảo:
    - Hãy lấy bức họa kia làm đề. Nhưng trong thơ cấm phạm vào những chữ "Ngưu", "Đẩu", "Tường", "Trụy", "Tỉnh", "Tử" (Trâu, chọi, tường, rơi, giếng, chết).
    Thực đi khoan thai. Vừa hết bảy bước, liền cất tiếng ngâm:
        Hai tấm thân đi đường,
        Trên đầu bốn khúc xương.
        Gặp nhau tựa sườn núi.
        Bỗng đâu nổi chiến trường.
        Đôi bên đua sức mạnh,
        Một địch lăn xuống hang.
        Đâu phải thua kém sức,
        Chẳng qua sự lỡ làng.
    Nguyên văn:
        Lưỡng nhục tề đạo hành,
        Đầu thượng đới ao cốt.
        Tương ngô do sơn hạ,
        Huất khởi tương đường đột.
        Nhị địch bất câu cương,
        Nhất nhục ngọa thổ quật.
        Phi thị lực bất hư,
        Thịnh khí bất tiết tất.
    Tào Phi cùng tất cả quần thần đều giựt mình, nức nở khen. Phi lại hỏi:
    - Bảy bước thành thơ, ta còn cho là nhàm. Mày có thể ứng khẩu đọc ngay một bài được chăng?
    Thực đáp:
    - Xin ra đề cho.
    Phi nói:
    - Ta với mày là anh em. Cứ lấy câu đó làm đầu đề. Nhưng cấm dùng hai chữ "Huynh", "Đệ".
    Thực chẳng cần nghĩ ngợi một giây, ứng khẩu đọc ngay:
        Củi đậu đun hột đậu
        Đậu trong nồi khóc kêu:
        Cùng sinh trong một gốc,
        Bức nhau chi đến điều.
    Nguyên văn:
        Chữ đậu nhiên đậu cơ,
        Đậu tại phẩu trung khấp.
        Bản thị đồng căn sinh,
        Tương tiễn hà thái cấp.
    Phi nghe cảm động, sa nước mắt, liền tha cho, nhưng giáng Tào Thực làm An Hương Hầu.
    Ở Việt Nam trong thời Tây Sơn (1771-1802), hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ xuýt đánh nhau để tranh quyền. Nguyễn Nhạc yếu thế, phải khóc nói với em:
    - Bì oa chữ nhục, đệ tâm hà nhẫn?
    Nghĩa là: nồi da nấu thịt, lòng em sao nỡ? Nên Nguyễn Huệ cảm động rồi cả hai hòa nhau.
    Ở tỉnh Bình Định, mỗi khi người ta đi săn được hươu nai gì thì lột da ra làm nồi mà nấu thịt. Do đó ca dao Bình Định có câu:
    Da nai mà nấu thịt nai,
    Việc đời như thế không ai động lòng.
    Thịt nai mà chín bên trong,
    Da nai cũng cháy còn mong nỗi gì!
    Cảm động lời nói của Nguyễn Nhạc, người Bình Định đem lời đó diễn bằng câu ca dao:
    Lỗi lầm anh vẫn là anh,
    Nồi da xáo thịt sao đành hỡi em?
    Đời nhà Nguyễn (1802-1945) vua Tự Đức giết anh là Hồng Bảo để củng cố địa vị ngai vàng của mình. Một hôm, trong một buổi chầu, nhà vua vô ý để răng cắn nhằm lưỡi mới khiến quần thần làm bài thơ chơi, nhưng trong thơ cấm dùng tiếng "Răng", "Lưỡi".
    Đây là bài thơ của cụ Nguyễn Hàm Ninh:
        Ngã sinh chi sơ nhữ vị sinh,
        Nhữ sinh chi hậu ngã vi huynh.
        Bất tư cộng hưởng trân cam vị;
        Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình.
    Tạm dịch:
        Thuở tớ sinh ra, mày chửa sinh,
        Mày sinh sau tớ, tớ là anh.
        Ngọt bùi chẳng nghĩ cùng nhau hưởng,
        Xương thịt đành tâm nỡ dứt tình.
    Nhà vua khen hay, thưởng một chữ một nén vàng; nhưng vì cho bài có ý "móc", nên bắt phạt mỗi chữ đánh một roi.
    "Củi đậu đun hột đậu", "Nồi da xáo thịt", "Răng cắn lưỡi" thành ngữ điển tích này đều có một ý nghĩa như nhau.

Chuyện cười trong ngày

Chết trùng giờ

Tại một bệnh viện, trong khu chăm sóc đặc biệt, các bệnh nhân luôn luôn chết trên cùng một cái giường vào 11 giờ sáng Chủ Nhật, bất kể họ đang trong tình trạng nào.

Điều này làm các bác sĩ bối rối và có một vài người đã nghĩ là có một thế lực siêu nhiên nào đó.  Không ai có thể lý giải điều bí ẩn, nên một nhóm chuyên gia quốc tế đã được thành lập để điều tra nguyên nhân.

Sáng Chủ Nhật tiếp đó, vài phút trước lúc 11 giờ, tất cả các bác sĩ và y tá hồi hộp đứng ngoài phòng để tận mắt chứng kiến hiện tượng đặc biệt,Mọi người với khuôn mặt căng thẳng, có người lâm râm cầu nguyện.

Khi đồng hồ điểm đúng 11 giờ, các bác sĩ và y tá thấy người quét dọn của bệnh viện (làm việc part-time vào Chủ Nhật) bước vào phòng bệnh, rút ổ phích cắm hệ thống máy trợ tim và phổi nhân tạo của bệnh nhân để... cắm máy hút bụi !!!

Tuesday, April 26, 2016

Ngày 26-4-2016 Suy Niệm Trong Ngày

Chuyện ngắn - Lòng hiếu của con chim Oanh Vũ

Lòng Hiếu của con chim Oanh Vũ

Thuở xưa, ở núi Tuyết Sơn có một con chim Oanh Vũ, cha mẹ đều mù, thường đi tìm trái cây thơm chín, dâng cha mẹ dùng. Lúc bấy giờ, có vị điền chủ mới cấy lúa bèn phát nguyện rằng: 
“Lúa tôi đây, xin nguyện cho chúng sanh ăn dùng”. 
Chim Oanh Vũ thấy vị điền chủ phát tâm bố thí như vậy, bèn thường bay xuống lấy lúa cúng dường cha mẹ. Người điền chủ đi xem lúa, thấy loài chim loài sùng phá hại lúa, bèn nổi giận đặt lưới bắt được chim Oanh Vũ. Chim Oanh Vũ thưa vị điền chủ rằng:
 “Trước đây ông có lòng tốt bố thí nên tôi mới dám lấy của ông, sao lại đặt lưới bắt tôi?”.
 Người điền chủ hỏi:
 “Ngươi lấy lúa làm gì?”. 
Chim Oanh Vũ đáp:
 “Tôi có cha mẹ mù, nên phải lấy lúa cúng dường”. 
Vị điền chủ nói rằng:
 “Từ nay về sau, ngươi cứ lấy lúa mà dùng, đừng e ngại gì cả”. 
Loài súc sanh còn biết hiếu thuận với cha mẹ huống nữa là người.

Chim Oanh Vũ là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca. Người điền chủ là tiền thân ông Xá Lợi Phất.

Những chuyện ngụ ngôn hay - Chim tu hú và hai nhà vua

Chim tu hú và hai nhà vua

Khi chim ưng làm vua rất thích nghe bầy chim thổi sáo. Ngày hội nhạc, chim ưng cho môt ngàn con chim cùng thổi sáo chung một lúc. Trog một ngàn con chim đó có Tu hú là không biết thổi, nhưng cũng cứ dự phần vào để kiếm miếng ăn vua cho. Khi chim ưng thôi giữ chức, chim Phượng hoàng được lên thay. Vua mới này cũng rất thích nghe thổi sáo, nhưng lại chỉ muốn nghe tiếng thổi của từng cây sáo một. Tu hú biết mình sắp bị lộ liền xin ra khỏi ban nhạc. Chim Hạc là nhạc trưởng thấy thế hỏi:
- Vì sao đang làm ăn khá thế mà xin nghỉ?
Tu hú đáp:
- Làm ăn chung thì dựa dẫm nhau được chứ làm ăn riêng thì biết dựa vào ai?

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

LÀM KHÁC BIỆT 


Một người bạn đi bộ dọc theo bãi biểnMexican vắng hoe lúc mặt trời lặn. Lúc anh ta đi bộ dọc theo bãi biển, anh bắt đầu nhìn thấy một người đàn ông ở tầm xa. Lúc anh ta tới gần, anh nhận thấy rằng đó là một người thổ dân địa phương cứ cúi xuống, nhặt một cái gì đó lên và liệng nó ra ngoài nước. Anh ta cứ tiếp tục ném mạnh những sinh vật ra ngoài biển nhiều lần. Ngay cả lúc người bạn của tôi đến gần hơn, anh đã nhận ra rằng người đàn ông đó đã nhặt những con sao biển trên bãi biển, và, một con cho một lần, người đàn ông đó đã ném chúng trở vào trong nước. Người bạn tôi đã không hiểu được.

Anh tiến tới gần người đàn ông đó và nói: "Chào bạn buổi tối. Tôi đã cảm thấy ngạc nhiên điều gì bạn đang làm."

"Tôi liệng những con sao biển này trở về biển. Bạn thấy, ngay bây giờ nước thủy triều xuống thấp và tất cả những con sao biển này đã bị đưa lên trên bờ. Nếu tôi không liệng chúng trở lại biển, chúng sẽ chết trên đây vì thiếu oxygen.

"Tôi hiểu," bạn tôi trả lời, "nhưng có đến hàng ngàn con sao biển ở trên bãi biển này. Anh không có thể làm cho tất cả chúng. Đơn giản là có quá nhiều. Và bạn có nhận thức được hay không rằng việc này có thể xảy ra trên hàng trăm bãi biển dọc theo bờ biển này. Có thể bạn không thấy rằng bạn không có thể làm nên sự khác biệt?

Người dân cư thổ dân mỉm cười, cúi xuống và nhặt con sao biển khác, và anh ta liệng nó trở lại biển, anh ta trả lời, "Tạo một sự khác biệt cho con này!"

Sưu tầm - Sự thật về "siêu kim loại" đồng đen

Những bí ẩn và sự thật về “siêu kim loại” đồng đen
Cổ vật tinh hoa ( Nguồn: VTC)

"Con vàng, mẹ bạc, bố đồng đen" từ trước đến nay vẫn là câu chuyện được lưu truyền trong dân gian. Có lẽ, vì vậy mà đồng đen được coi như một thứ kim loại quý hiếm hơn cả vàng bạc.
Hiện vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu và cũng chưa có một kết luận nào được đưa ra nên đồng đen mãi vẫn chỉ là một ẩn số.

Quý giá từ những câu chuyện được lưu truyền 

Những người yêu Hà Nội không ai không biết tới câu chuyện về trâu vàng Hồ Tây có liên quan tới tượng đồng đen. Theo sự tích trâu vàng Hồ Tây- kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do giáo sư Nguyễn Đổng Chi biên soạn thì tục truyền rằng: Minh Không Hòa Thượng (tức Không Lộ thiền sư) sang Trung Quốc để trị bệnh cho hoàng đế Trung Hoa. 

Đến khi đức vua khỏi bệnh, bèn lệnh ban thưởng cho đại sư, hỏi người muốn gì. Đức Không Lộ mới hỏi xin bệ hạ cho bần tăng một lượng đồng đen chứa vừa trong cái tay nải này. Được chuẩn y, hòa thượng vào trong kho để lấy. Kì lạ là toàn bộ kho đồng của nước Trung Hoa khi bỏ vào chưa đủ một tay nải của Huyền Không Hòa thượng. Đức vua Trung Hoa rất tiếc nhưng lỡ hứa rồi nên vẫn phải ngậm ngùi cho đi.

Đến khi về nước, Huyền Không mới dùng chỗ đồng đen ấy đúc thành một cái chuông rất lớn đặt ở chùa Trấn Vũ. Chuông đồng đúc xong khi gióng lên tiếng vang xa khắp thiên hạ, tiếng bay sang cả triều đình Trung Hoa. Đồng thời, có một bức tượng con trâu đúc bằng vàng rất lớn được đặt trong cung vua. 

Nghe tiếng chuông, trâu vàng tưởng mẹ gọi bèn cựa mình phóng sang Đại Việt rồi nằm phủ phục bên chân chuông đồng. Cho rằng, nếu tiếp tục gióng chuông thì vàng của các nước lân bang sẽ tụ về Đại Việt, nguy cơ về một cuộc chiến tranh sẽ đến gần, ngài Minh Không mới quyết định ném cái chuông xuống hồ Tây.
 Tiếng chuông âm vang lần cuối, con trâu vàng bèn nhảy xuống hồ với mẹ. Đức Không Lộ mới truyền rằng: Về sau, nếu gia đình nào có đủ 10 đứa con trai đến bên hồ gọi thì sẽ lấy được cả chuông và trâu vàng. Có gia đình có 9 đứa con trai và nuôi thêm một cậu bé cho đủ 10, đến khi những đứa bé đã lớn, họ đến bên hồ và gọi chuông, trâu vàng. 

Chuông nổi lên, gia đình buộc dây thừng vào nấm chuông và kéo vào bờ. Đến khi vào gần đến nơi thì quả chuông quá nặng, người cha mới giục cậu con út: "Nuôi ơi, cố lên!”. Trâu vàng phát hiện ra đứa con thứ 10 là con nuôi nên cùng mẹ lặn xuống hồ. 

Từ đó về sau, không ai có đủ 10 đứa con trai để gọi trâu vàng lên nữa. Dân gian vẫn truyền tai nhau rằng những đêm thanh vắng vẫn thấy chuông đồng nổi lên và trâu vàng bơi lội quanh mẹ nó.

Số đồng đen còn dư được đem đúc thành những nhạc khí mà về sau người đời vẫn tôn lên là An Nam tứ đại khí. Thực hư thế nào chưa rõ, chỉ biết hiện nay vẫn còn một bức tượng Huyền Thiên Trấn Vũ cũng được cho là đúc bằng đồng đen.

Trên bức tượng Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Quán Thánh vẫn còn ghi lại quá trình đúc tượng vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677) đời Lê Hy Tông. Tượng cao 3,96m, chu vi 8m, nặng 4 tấn, tọa trên tảng đá cẩm thạch cao 1,2m. 

Tượng có khuôn mặt vuông chữ điền nghiêm nghị nhưng bình thản, hiền hậu. Mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xõa không đội mũ, mặc áo đạo sĩ ngồi trên bục đá với hai chân để trần. Bàn tay trái của tượng đưa lên ngang ngực bắt ấn thuyết pháp, tay phải úp lên đốc kiếm, kiếm chống lên lưng rùa nằm giữa hai bàn chân, quanh lưỡi kiếm có con rắn quấn từ dưới lên trên. 

Đây được coi như một trong những công trình nghệ thuật, kiến trúc độc đáo của các nghệ nhân Việt Nam cách đây 3 thế kỉ. 

Do được truyền đúc bằng đồng đen nên trong chiến tranh, loạn lạc, bất chấp những lời nguyền, những truyền thuyết linh thiêng về đức Huyền Thiên Trấn Vũ, giới đạo tặc vẫn tìm cách để biến làm của riêng mình. Ở chân tượng vẫn còn dấu tích của việc đập phá và tìm cách di dời, tuy nhiên với nhiều lý do khác nhau, pho tượng vẫn không bị mất đi. 

Những người già sống xung quanh vẫn còn kể lại, từ thời Pháp thuộc, chính quyền đô hộ đã nhiều lần muốn đem bức tượng đi, thậm chí đốt bằng đèn khò cũng chỉ làm pho tượng nóng đỏ lên, một thời gian sau lại đen óng trở lại.

Điểm qua một hai câu chuyện cũng đủ thấy đồng đen được lưu truyền trong dân gian rất quý và hiếm. Theo các chuyên gia, có thể hiểu theo hai cách: Đồng đen là một kĩ nghệ đúc đồng thuộc loại khó và đã thất truyền nên những đồ vật đúc bằng đồng đen đều thuộc loại quý hiếm. 

Thứ hai, đồng đen còn có những công dụng khác, có phần linh thiêng và bí hiểm. Phần truyền thuyết này, trong quá trình lưu truyền trong dân gian lại càng được bồi đắp vào và biến hóa cho thêm phần linh thiêng, huyền bí.

Vì quý và hiếm nên cuộc tìm kiếm đồng đen đã bắt đầu từ hàng ngàn năm nay trong lịch sử. Có nhu cầu đương nhiên sẽ có nguồn cung cấp. Câu chuyện về nguồn cung cũng dẫn đến những thương vụ bất thành trong lịch sử. 

Dựa vào cái tiếng của đồng đen để trục lợi, buôn bán gian lận vẫn hấp dẫn những kẻ hám của. Và vì vậy, những vụ án về đồng đen vẫn tiếp diễn và những người bị mê hoặc bởi tính năng của nó vẫn tiếp tục bị lừa.

Có hay không có thứ gọi là đồng đen?

Để đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi kể trên, chúng tôi đã tìm đến với một chuyên gia về đồ cổ hàng đầu ở Việt Nam là ông Vũ Tá Hùng. Tiếp chuyện với chúng tôi, ông Hùng có cho xem một vài cổ vật được xem như là đồng đen. Chiếc ấm đầu gà thời Thương Chu, chiếc thạp đời nhà Hán, là những cổ vật hiện chỉ còn lác đác một hai thứ tương tự trên thế giới. Hỏi về đồng đen, ông Hùng chỉ cười: “Những thứ này thực chất chỉ là đồng đỏ đúc thành”.

Sau khi dùng giấy giáp cọ sát vào một trong số các cổ vật bằng đồng đen, mài một lớp rất nhẹ thì đằng sau lớp vỏ đen nhánh là một màu đồng ánh đỏ. Kĩ nghệ đúc đồng thời Thương Chu được xem như là một trong những đỉnh cao của công nghệ đúc đồng trên thế giới. 

Cho tới thời điểm hiện tại, khi khoa học kĩ thuật đã phát triển ở trình độ cao, vẫn không thể nào đúc được những vật có độ tinh xảo và chất lượng cao như ở thời đại cách đây gần 3.000 năm trước.

Kĩ thuật đúc đồng đỏ là rất khó so với kĩ thuật đúc đồng vàng bởi vì đồng đỏ chỉ nóng chảy ở nhiệt độ hơn 2.000 độ C (tương đương với độ nóng chảy của gốm sứt), trong khi đó, nhiệt độ nóng chảy của đồng vàng chỉ ở 1.000 độ C. Trong thành phần của đồng đỏ bao gồm đồng, vàng và một số hợp chất khác, tỉ lệ và cách thức đến nay đã thất truyền. 

Có những chiếc ấm, chiếc thạp được đúc công phu đến mức tất cả những chi tiết bên ngoài như quai, vòi, họa tiết đúc chìm, nổi đều là một khối duy nhất, không có sự can thiệp của những mối nối từ trong cho đến ngoài.

Muốn đúc được đồng đỏ, phải làm những bộ khuôn có sức chịu nhiệt cao, khuôn không được đốt nóng như độ nóng chảy của đồng. Có sự chênh lệch nhiệt độ giữa khuôn và đồng nên khi rót dung dịch đồng vào, thông thường sẽ bị lỗi. Có những chỗ nóng chảy được thì đồng chảy được vào khuôn, những chỗ không đều, khi ra thành phẩm sẽ bị lỗi, bị rỗ bề mặt. 

Từ trước đến nay, rất nhiều nơi đã từng làm thử nhưng đều bất thành. Có đổ được đồng với tỉ lệ vàng cao, độ phong hóa thấp thì những sản phẩm cũng không thể chau chuốt như thời kì trước đây hàng ngàn năm, vẫn cần có bàn tay gia công của người thợ. 

Một khi đã có dấu vết của sự gọt giũa thì cùng với thời gian, những chỗ này sẽ dần phong hóa và tạo thành những rãnh, làm lộ ra đường nét không thật của sản phẩm, phần khác nếu không được bảo quản tốt còn bị sùi, bị xanh rỉ, bào mòn… 

Do trong thành phần có vàng nên khi mới đúc, loại đồng này sẽ có màu hơi đỏ, còn gọi là đồng mắt cua. Khi đúc chuông, nhất là những chuông lớn và các công trình có liên quan tới đền đài, miếu mạo là những nơi linh thiêng thì thường có sự đóng góp của đệ tử thập phương. Vì sùng tín, họ thường rút vàng ném vào nồi đồng đang đun chảy. Có những chiếc chuông được cho là bằng đồng đen, khi đánh vào thì tiếng vang rất xa.

Nếu gọi một cách chính xác, đồng đen chỉ là những đồ đồng có màu đen nhánh. Từ thời nhà Hán đã có những chiếc gương đồng nổi tiếng cũng bằng đồng đen. Độ đen nhánh cao của bề mặt gương có độ phản chiếu đã đảm nhận luôn vai trò của một chiếc gương soi trong thời đại thủy tinh chưa thực sự phát triển. 



Là một người nhiều năm nghiên cứu về cổ vật, cũng đã có trong tay hàng chục cổ vật được người trong giới công nhận là đồng đen nhưng ông Hùng cũng thừa nhận: Cho đến nay trên thế giới chưa có một nơi nào, một tài liệu nào công bố về thứ gọi là đồng đen nguyên chất. Có chăng chỉ là những thứ đồng đỏ từ thời Thương Chu cách đây 3.000 năm. Mức độ linh thiêng và quý giá của nó thực chất là ở kĩ thuật đúc đồng mà cho đến nay đã thất truyền. Mọi thứ còn lại chỉ là những giả thuyết.

Cổ vật tinh hoa ( Nguồn: VTC)

Chuyện cười trong ngày

Xe Hơi và Vĩ Nhân

Một chàng trai mới lớn sau khi thi được bằng lái xe liền đề nghị cha mình cho sử dụng chung xe hơi. Người cha ra điều kiện.

- "Nếu điểm học ở trường của con khá lên, và cắt mái tóc dài rũ rượi của con đi, thì lúc đó chúng ta sẽ nói chuyện."

Một tháng sau, chàng trai trở về nhà và hỏi cha đã đồng ý cho mình dùng chung xe chưa. Người cha đáp:

- "Cha thực sự tự hào về con. Điểm số của con đã khá lên. Thế nhưng con vẫn chưa đi cắt tóc..."

Người con ngắt lời:

- "Cha biết không, con đã suy nghĩ nhiều về điều này và nhận thấy rằng các bậc vĩ nhân trong lịch sử để tóc dài."


- "Phải!" - Người cha công nhận - "Và tất cả các vĩ nhân đó đều phải đi bộ."

Monday, April 25, 2016

Ngày 25-4-2016 Suy Niệm Trong Ngày

Chuyện ngắn - Câu chuyện về vị thần điềm đạm

CÂU CHUYỆN VỀ VỊ THẦN ĐIỀM ĐẠM

Tích xưa, theo thần thoại Nhật, các vị thần ở trên cõi trời, có một khi cùng tranh nhau quyền bá chủ thế gian. Bất kỳ là vị nào, cũng đều cho mình là quyền lực trên hết tất cả Trời Đất. Các vị thần mới nhất định bầu cử một người làm trọng tài trong cuộc thi chọi, coi ai được làm bá chủ. Vị trọng tài này có trí phán đoán và tính ngay thẳng đặc biệt, lại cũng là người cao tuổi hơn hết.

***

Trong các vị thần, một vị bước ra nói:

"Các ngài hãy xem đây, sẽ thấy rõ sức mạnh phi thường của tôi như thế nào."

Tức thời, một ánh sáng chớp lạnh xương, liền theo đó, tiếng sấm nổ vang, làm rung động cả không trung, dường như cả thế gian đều rung rinh sắp đổ. Các vị thần đều tái mặt. Lúc bấy giờ, không còn một ai còn dám nghĩ là mình là người bất khả xâm phạm nữa.
Vị thần Bão tố, bước ra nói:

"Sức mạnh của tôi, còn ghê gớm hơn nữa. Hãy xem dưới kia, cánh đồng mênh mông lặng lẽ..."

Nói vừa dứt lời, bỗng mặt nước biển dâng lên... Ban đầu từ từ... kế đó sóng nổi gió tung... Nước càng dâng, gió càng lớn, sóng càng to... cuồn cuộn ầm ầm... chỉ thấy còn có một vùng nước mênh mông trắng dã... Những ngọn núi cao, sóng đánh lấn riết, không còn thấy mặt... Sóng càng lúc càng cao, gió càng lúc càng lớn... hăm he chìm ngập đến cõi trời... Các vị thần thất sắc, cầu khẩn xin tha... Thần Bão tố vẫy tay một cái: sóng lặn, gió êm... bấy giờ nước biển lao xao, sóng chạy lăn tăn trên bãi cát.

Các vị thần vừa tỉnh trí hoàn hồn, thì nghe có một giọng lảnh lót cất lên:

"Sức mạnh không phải ở nơi sự phô trương của sức bạo tàn, vì nó chỉ có phá hoại mà không tạo lập. Sức mạnh ở cái thuật khuất phục con người và giữ gìn họ ở trong khuất phục ấy bằng ý muốn của họ. Người ta cảm vì sự dịu dàng mà chịu khuất phục chớ không phải vì bị khủng khiếp mà chịu khuất phục".

Dứt lời, vị thần Âm nhạc lấy ống tiêu... thổi lên một hơi, nhẹ nhàng êm ái như thế nào mà hết thảy các vị thần mê mẩn tâm thần, như ngây, như dại... Tất cả đều như bị sức âm nhạc lôi cuốn vào giấc ngủ thôi miên.

Nhưng có một vị thần... thái độ huyền bí, dường như thản nhiên bất động.

Vị này không thấy sấm sét mà choá mắt.

Sóng bủa, nước dâng cũng không khiến gương mặt trầm tĩnh của ông thay đổi.

Mà tiếng nhạc du dương, thâm trầm, huyền hảo kia cũng không cảm động lòng ông chút nào cả.
Vị trọng tài day qua hỏi:

"Ngài có phải bị mù, điếc gì không?"

"Không. Tôi thấy và tôi nghe."

"Tại sao Ngài không động lòng. Sấm nổ, nước dâng không làm cho quả tim Ngài dao động lên sao? Nhạc thần, tiêu thánh không làm cho tâm hồn Ngài xao xuyến sao?"

"Ngài lầm! Quả tim tôi cũng đập, tâm hồn tôi cũng xao."

"Nhưng sao gương mặt Ngài, tôi không thấy lộ vẻ lo sợ hay vui sướng gì cả?"

"Không. Tôi là "Điềm Đạm". Tôi là kẻ huấn luyện cảm giác tôi, tôi là kẻ đã làm chủ cảm giác tôi rồi. Còn các Ngài, các Ngài chỉ là những người làm tôi mọi nó vì chính các Ngài đã không thể chế trị nó."

Có ích gì lo đi chế trị sự vật quanh mình, trong lúc mà, một tiếng nhạc tiêu tao cũng đủ làm cho cái tay cầm sấm sét kia phải rụng rời như rũ liệt...

Còn nói đến uy lực nỗi gì, kẻ có tài ảo hoặc người kia, khi thấy nước dâng, nghe sấm nổ, cũng vẫn lao nhao lo sợ như ai...

Các vị thần, cúi mặt làm thinh.

Vị trọng tài nói tiếp:

"Quyền bá chủ, là người này. Sức mạnh thật, nơi tâm hồn điềm tĩnh của người này!"

Bất kỳ là một thế lực nào, nếu còn bị một thế lực khác đánh ngã, không còn gọi đặng là sức mạnh nữa. Người này không phô trương những thế lực vô ích như thế, rõ là người có sức mạnh trên hết.

Bất kỳ là những ám thị những dẫn dụ nào, cũng không làm nao núng tâm hồn người này đặng. Trái lại, người này đã thấy hết, và đã khéo lợi dụng cả thảy để làm tôi mọi cho mình. Nếu các anh em, tin cậy nơi sự phê phán của tôi, thì tôi xin nói thật: "Vị thần Điềm Đạm này là chúa tể của chúng ta cả thảy".

Từ đấy đến nay, câu phê phán ấy vẫn không sai giá.

Những chuyện ngụ ngôn hay

Vẽ gì dễ

Một anh họa sĩ vẽ hình cho Tề Vương (Vua Tề). Một hôm Tề Vương hỏi anh:
- Nhà ngươi vẽ cái gì khó nhất?
- Thưa bệ hạ, vẽ chó, ngựa là khó nhất.
- Vậy vẽ cái gì là dễ nhất?
- Thưa bệ hạ, vẽ ma quái là dễ nhất.
Bởi vì chó ngựa ngày ngày đều xuất hiện trước mặt mọi người, ai củng quen thuộc chúng nó, nên vẽ không phải dễ. Còn loài ma quái chúng không có hình dạng nhất định, chưa có ai nhìn thấy chúng bao giờ, nên vẽ rất dễ.

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

GIÁ TRỊ CỦA BỒ ĐỀ TÂM 


Thời xưa, một vị trưởng lão đã du hành dọc theo con đường nông thôn, theo sau là một vị đệ tử mang những cái bị của ông ta. Khi họ đi bộ, họ đã nhìn thấy những thửa ruộng đang được cày trong khi những người nông dân và những con trâu đã quá mệt mỏi đến cùng cực. Vô số những con giun và côn trùng đã bị giết hại trong trong quá trình, và những con chim thì nhào xuống để ăn chúng. Điều này đã khiến cho người đệ tử tự nhủ với mình,

"Để sống còn thì khó làm sao. Tôi sẽ chuyên tâm với tất cả sức mạnh của tôi, để trở thành một vị Phật và cứu tất cả sinh vật này,"

Ngay lập tức vị Sư Phụ là một vị A La Hán có thể đọc được tâm người khác, ông quay lại và nói,

"Đưa ta những túi nặng này và ta sẽ đi sau con."

Người đệ tử không hiểu nhưng đã làm theo chỉ thị và đi đằng trước. Họ tiếp tục trên con đường của họ với sức nóng của mặt trời mang lại cho họ, bụi xoáy chung quanh họ, con đường dài vô tận ở đằng trước, người đệ tử càng thêm mệt mỏi hơn nữa. Không bao lâu anh ta nghĩ,

"Có quá nhiều chúng sanh hữu tình và có quá nhiều đau khổ, làm thế nào ta có thể cứu giúp tất cả chúng? Có lẽ ta chỉ nên cứu giúp chính mình ta thôi."

Ngay lập tức, vị Sư Phụ ở đằng sau anh ta nói,

"Ngừng lại. Bây giờ con mang những túi sách và đi sau ta."

Người đệ tử bối rối làm theo lời chỉ dạy, biết rằng anh không được hỏi những câu hỏi. Anh cầm túi sách lại và đi bộ đằng sau. Điều này được lập đi lập lại nhiều lần. Vị Sư Phụ đi đằng trước người đệ tử mang những túi sách, và rồi người đệ tử đi đằng trước vị Sư Phụ sách những túi sách, đi tới đi lui, cho đến khi họ dừng lại ăn trưa. Sau đó người đệ tử lấy can đảm và hỏi lý do tại sao. Vị Sư Phụ nói,
"Khi con đã có sự suy nghĩ cao qúi cứu giúp tất cả loài chúng sanh hữu tình, con đã có Bồ Đề tâm, tâm của vị Bồ Tát, và ta là Arhat phải đi đằng sau con. Nhưng ngay sau khi con có sự suy nghĩ ích kỷ, con không còn la Bồ Tát nữa, con mang túi sách cho ta." 

Điển Hay Tích Lạ - Tú Khẩu Cẫm Tâm

Tú Khẩu Cẫm Tâm

"Xem thơ nấc nở khen thầm:
Giá đành TÚ KHẨU CẪM TÂM khác thường"
(Câu 207, 208. Đạm Tiên khen tài Kiều trong mơ)

TÚ KHẨU, CẪM TÂM: Miệng thêu, lòng gấm; ý nói người có tài văn chương, lời hay ý đẹp.

Trong lịch sử văn học Trung Quốc, có bốn người văn chương trác tuyệt được đời xưng tụng là "tú khẩu, cẫm tâm". Đó là Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên, Âu Dương Tu và Tô Tuân.

HÀN DŨ (768 - 824) tự là Thoái Chi; người đời sau thường gọi là Hàn Xương Lệ Hàn Dũ người quán Nam Dương tỉnh Hồ Bắc, mồ côi sớm, học rất giỏị Năm 25 tuổi Hàn Dũ đỗ tiến sĩ, làm Giám Sát Ngự Sử, Sử quán Tu soạn rồi Hình Bộ Thị Lang.

Hàn Dũ là người tôn sùng giáo lý Khổng Mạnh, nhưng thời bấy giờ vua Đường Hiến Tôn lại tôn trọng đạo Phật. Hàn Dũ làm sớ khuyên vua bà xích đạo Phật và đốt xương Phật nên bị giáng làm Thứ sử Triều Châụ Ông có làm bài thơ tự thán như sau:
"Nhất phong triều tấu cữu trùng thiên,
Một trích Triều Châu lộ bát thiên.
Dục vị Thánh triều trừ tệ chính,
Cám tương suy hú tích tàn niên".
(Sớm dâng tờ sớ tấu thiên nhan,
Chiềyu biếm Triều Châu dặp tám ngàn.
Muốn giúp Thán triều trừ tệ chính,
Dám đem lão bệnh tiếc thân tàn").

Về sau ông được triệu về kinh phục chức, rồi thăng Kinh Triệu Doãn.

LIỄ TÔN NGUYÊN (773 - 819) tự là Tử Hậu, người Hà Đông; đồng tời với Hàn Dũ và cũng chủ trương phục cổ như Hàn.

Liễu Tôn Nguyên đỗ Tiến sĩ và BÁc học Hoằng tử, làm quan đếm Giám Sát Ngự sử. Sau bị tội nên bị giáng xuống làm Tư Mã Vĩnh Châu, rồi Liễu Châu Thứ sử.

ÂU DƯƠNG TU (1007 - 1072) tự Vĩnh Thúc, người đất Tô Lăng đời Tống. Ông đỗ Tiến sĩ, học rộng, văn tài trác tuyệt, làm quan đến Binh bộ Thượng thự

Âu Dương Tu tánh tình ngay thẳng nên làm quan bị nhiều người ghét. Ông thuộc phái "Cựu đảng" của Tư Mã Quan chống "Tân pháp" của Tể Tướng Vương An Thạch nên phải về trí sĩ khi chưa tới tuổi hưụ Âu Dương Tu là tác giả bộ Tân Ngũ Đại Sử, và hợp soạn chung với Tống Kỳ bộ Tân Đường Thị

TÔ TUÂN (1009 - 1066) tự Minh Doãn, người đất My Sơn đời Tống. Tô Tuân không xuất thân khoa bảng nhưng ông lại là một danh sĩ. Năm 27 tuổi ông mới bắt đầu việc học. Năm 37 tuổi có đi thi một lần, không đỗ. Ông buồn đi ngao du đây đó mấy năm mới chịu về nhà và từ đó nhất định không đi thi nữạ

Tô Tuân là cha của Tô Thức (Tô Đông Pha) và Tô Triệt. Năm 1059, Tô Tuân được triều đình đặc cách chức Hiệu Thư lang chuyên chép chuyện các đời vua nhà Tống. Ông tỏ ra khônhg mấy thích công việc này, vì phải khen mà không được chê các tiên vương.

Về sau ông đổi ra làm Chủ Bạ huyện Văn An, soạn bộ Thái Thường nhân cách lễ gồm một trăm quyển. Sách vừa soạn xong thì ông cũng qua đờị

Chuyện cười trong ngày

Không Phải Tại Con

Bé Tí thích ra chơi ở sau vườn có hàng rào chung quanh.  Ở trên hàng rào có một lỗ nhỏ, vừa cỡ để cho bé Tí trốn ra ngoài chơi.  Mẹ trách mắng bé Tí không biết vâng lời, định đánh cho mấy roi cho chừa.  Bé Tí phân bua với mẹ:

- Không phải tại con đâu, con cún nhà ta ngoe nguẩy cái đuôi xúi con đó!

Mẹ Tí nói:

- Mẹ đã bảo con mắng nó: "Cún ra đằng sau" mà con không làm à?

Bé Tí nói:

- Dạ có, con mắng nó và nó lui ra đàng sau mà đẩy con chui qua lỗ đó!

Sunday, April 24, 2016

Ngày 25-4-2016 Suy Niệm Trong Ngày

Chuyện ngắn - Nhìn mọi thứ bằng đôi mắt mới

KHI BẠN NHÌN MỌI THỨ BẰNG MỘT ĐÔI MẮT MỚI

Ta sống với đôi mắt trời sinh, có mấy ai tự cho đó là món quà? Ta chỉ sợ bẩn quần áo, có mấy khi để ý cơn mưa đẹp đẽ nhường nào?

***

Con tàu bắt đầu chuyển động, chật kín bởi đủ mọi loại người : từ những công nhân viên chức đến các cô cậu sinh viên trẻ. Ngồi cạnh cửa sổ là một ông lão cùng người con trai tầm tuổi ba mươi. Gương mặt anh tràn ngập bởi niềm ham thích khó tả: Anh thật sự bị kích động bởi cảnh sắc bên ngoài.
"Bố ơi, nhìn này, những cái cây này như đang chuyển động, thật là đẹp quá!!! "

Lối cư xử kiểu này của người con trai ba mươi tuổi khiến mọi người thấy thật kỳ quặc. Người ta bắt đầu rì rầm nho nhỏ.

"Người kia trông như bị loạn trí..." Một người đàn ông thì thào với vợ của mình.

Đột nhiên trời đổ cơn mưa, từng giọt từng giọt lặng lẽ rơi xuống đầu các hành khách qua khung cửa mở rộng. Người con trai bao mươi tuổi đầy hạnh phúc :

"Cha ơi, đẹp quá... Mưa đẹp quá..."

Một người phụ nữ phát cáu. Cơn mưa đang làm hỏng chiếc áo mới của cô.

"Ông có thấy trời đang mưa không? Nếu con trai ông có vấn đề thì nên đưa đi điều trị thần kinh chứ không phải ở đây để làm phiền người khác nơi công cộng"

Người con trai giật mình quay lại, đôi mắt nãy vốn vui tươi chợt như phủ một mảng sương mờ mịt.

Ông bố ngượng ngùng đôi chút rồi trả lời bằng giọng trầm trầm :

"Chúng tôi đang trên đường từ bệnh viện trở về. Con trai tôi vừa ra viện sáng nay. Nó bị mù bẩm sinh và mới được thay giác mạc. Cơn mưa...và mọi thứ đều quá mới mẻ với nó. Xin mọi người thứ lỗi."

Những thứ ta thấy hay cảm nhận đều chỉ bắt nguồn từ quan điểm bản thân cho đến khi ta biết sự thật. Giống như một loài hoa, có thể là loa kèn, thược dược, hướng dương, v..v.. , dù ta có biết tên cũng như màu sắc, mùi vị,..., ta cũng chỉ "biết" nó qua chính cảm nhận chủ quan.

Khi bạn nhìn mọi thứ bằng một đôi mắt mới

Một cái tên hay vẻ bề ngoài chẳng cho ta "hiểu" gì về bản chất thật sự.

Ta sống với đôi mắt trời sinh, có mấy ai tự cho đó là món quà? Ta chỉ sợ bẩn quần áo, có mấy khi để ý cơn mưa đẹp đẽ nhường nào?

Bởi ta chỉ để trong mắt những gì ta muốn...

Giá như, chỉ giá như thôi, ai cũng nhìn bằng đôi mắt như mới được sinh ra lần đầu...

Chuyện ngụ ngôn - Vẻ đẹp

Vẻ đẹp

Gấu và Sói ngồi nói chuyện trên trời dưới đất.
Cạnh đó có một chị Bướm đang bay lượn. Chị bay từ cây này sang cây khác.
Nhìn thấy chị Bướm, bác Gấu đưa mắt ngắm nghía.
- Xem kìa! - Bác nói với anh Sói - Tuyệt diệu làm sao!
- Ở đâu? - Sói hỏi.
- Đấy kìa, trên cành cây, ngay trên đầu anh đấy! Một chị Bướm! Biết bao nhiêu vẻ đẹp trên thân hình chị!...
- Trên thân hình chị Bướm ấy à? - Sói cười mỉa.
- Anh không thích chị Bướm ấy ư? - Bác Gấu ngạc nhiên.
- Có cái gì hay ho trong con bướm ấy nào?
- Khỏi nói! - Bác Gấu cãi lại - Anh xem kìa! Chị ấy bay lượn mới nhẹ nhàng uyển chuyển làm sao! Những nét hoa trên đôi cánh đẹp đẽ làm sao! Thật là tuyệt vời!
- Uyển chuyển ư? Nét hoa ư? Tôi chẳng thấy một cái gì gọi là hay ho cả!
- Nhưng...
- Không có "nhưng" gì cả! Cách đây không lâu, tôi nhìn thấy một con Cừu non mũm mĩm. Chà, toàn là thịt! - Sói nói, hai mắt sáng rực lên - Đấy mới thật là đẹp!
- A! - Bác Gấu nói, vẻ chán chường - Thiết tưởng tôi đã hiểu anh...