Thursday, July 31, 2014

Ngày 31-7-2014 Khởi Nguồn Chánh Pháp

Sa môn trong chiếc y vàng
Uy nghiêm tướng hảo tịnh an cõi lòng
VƯƠNG PHI YASODHARĀ (DA DU ĐÀ LA) CHỈ CHO RĀHULA (LA HẦU LA): “VỊ SA MÔN TƯỚNG HẢO QUANG MINH DẪN ĐẦU CHÍNH LÀ THÂN PHỤ CỦA CON
Tranh: Global Pagoda Chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
© Copyright 2010 Phap Luan Buddhist Cultural Center

Phật Học Vấn Đạo - Người Phật tử quy y Tam Bảo nhưng không hiểu rõ Tam Bảo là gì thì có thành tựu tam quy chăng?

Hỏi. Người Phật tử quy y Tam Bảo nhưng không hiểu rõ Tam Bảo là gì thì có thành tựu tam quy chăng? 

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 22-6-2014, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Pháp Tân: Nói về quy y Tam Bảo thì chúng ta biết có hai mặt: một mặt về hình thức, mặt thứ hai về tâm lý. 

Mặt hình thức chúng ta thường đối diện trước Tam Bảo có hình ảnh của Phật, có sự chứng minh của Tăng chúng và dĩ nhiên phải có Giáo Pháp. Khi mình đối diện thì mình phát nguyện nói lên lời quy ngưỡng đối với Tam Bảo: 
Con xin quy ngưỡng Phật.
 Con xin quy ngưỡng Pháp. 
Con xin quy ngưỡng Tăng. 

Chư Tăng truyền tam quy  và ngũ giới cho mình thì đó là về mặt hình thức nhưng mình phải nói rằng mình đã có thân khẩu ý thiện để hướng đến để nói nên lời phát nguyện trước Tam Bảo là mình xin quy ngưỡng Phật Pháp Tăng.

Về mặt tâm lý, một người hướng đến Đức Phật tâm luôn luôn quy ngưỡng Phật, quy ngưỡng Pháp, quy ngưỡng Tăng. Nhưng quy ngưỡng Phật thì không phải chúng ta cần hiểu rõ, hiểu từng những vi tế,  góc ghếch nhỏ trong ân đức của Phật hoàn toàn, Phật là một bậc giác ngộ hiểu Phật như một bậc Giác Ngộ như bậc Đạo Sư hay Phật có 3 ân đức là bi đức, trí đức và dũng và hiểu rõ sự giác ngộ của Ngài. Thí dụ như mình đọc ở trong kinh thấy những ân đức của Phật, những thành tựu các hồng danh của Đức Phật Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Hiểu rõ những điều đó làm cho việc quy y của mình càng thêm sự sáng tỏ hơn cũng như sự mạnh dạn hơn và để cho thành tựu được tam quy.

Còn khi mình không hiểu hết, chúng tôi muốn nói ở đây là mình không hiểu gì hết. Chúng tôi nghĩ rằng người không hiểu rõ việc quy y, không hiểu rõ về ân đức Phật thì việc quy y đókhông phải là không thành tựu nhưng ít nhiều người đó cũng hiểu là Đức Phật là bậc Giác Ngộ, hay Tam Bảo là có ân đức nhất định khi người đó hiểu như vậy họ có tâm quy ngưỡng, tâm lý họ thật sự kính cẩn nghiêng mình đảnh lễ trước Đức Phật, đảnh lễ trước giáo pháp lời dạy của Phật, đảnh lễ trước sự thanh tịnh của Tăng chúng, đó là Phật là Tăng chúng các vị đã và đang giác ngộ. 

Khi mình hiểu rõ về những điều đó thì việc quy y trong sáng, còn người không hiểu rõ chúng tôi nghĩ không phải là hoàn toàn không thành tựu tam quy bởi họ có tâm và họ cũng biết được ân đức của Phật. Nhưng  họ không hiểu rõ hoàn toàn thì chuyện quy y đó không có trong sáng bởi vì mình còn chưa có rõ thì điều đó làm cho việc quy ngưỡng của mình mang tánh cách giống như mình có su hướng chứ mình không có xác định được chính mình hoàn toàn việc quy ngưỡng đối với Đức Phật và mình hiểu giá trị mình quy ngưỡng Phật Pháp Tăng để mang đến sự lợi ích đó. 

Với như một người Phật tử thì việc quy y Tam Bảo có hai mặt là hình thức cũng như mặt chúng ta chuẩn bị về tâm lý, thì về tâm lý cũng khá quan trọng, phải nói là quan trọng lắm. Quan trọng so với hai về mặt hình thức lẫn tâm lý thì tâm lý rất quan trọng bởi vì một khi mình đã có tâm quy ngưỡng Đức Phật, quy ngưỡng giáo Pháp của Phật, quy ngưỡng Tăng thì mình mới thật sự đem hết lòng hay sự trọn vẹn tâm ý của mình hướng tới những bậc đối tượng như Phật Pháp Tăng để mình quy ngưỡng được.

Chúng tôi nghĩ người không hiểu rõ về ân đức của Tam Bảo mà người đó quy y thì chuyện quy y này không trong sáng lắm và cũng như  dễ bị bợn nhơ, người ta gọi là sự bợn nhơ trong tam quy. Mình không có hiểu rõ được thì nó không được trong sáng và do vậy thì nó không bằng  người hiểu rõ ân đức của Phật. Còn việc thành tựu hay không thì chúng tôi nghĩ rằng do tâm lý. Tâm lý của họ đã hoàn toàn hướng đến Đức Phật và có Chư Tăng chứng nhận cũng như có Tam Bảo. Nói chung mình có Tam Bảo để chứng nhận cho mình hay chứng minh cho mình để mình quy ngưỡng Tam Bảo thì điều đó đã mang đến sự thành tựu cho đời sống của mình. Nhưng có thể nói rằng do tâm mình không hiểu rõ về ân đức của Phật ân đức của Tam Bảo thì việc đó chưa có trong sáng trong việc quy y. 

Cho nên trước khi quy y  mình phải hiểu rõ, mình không phải quy y vì su hướng một điều  gì, mà mình phải hiểu  rõ được điều đó, thì việc làm của mình có giá trị thiết thực hơn so với điều mình không hiểu./.

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

ĐƯỜNG ĐẾN NIẾT BÀN

Một ông tăng hỏi hòa thượng Càn Phong:
- Chư bậc Đại Tự Tại mười phương đều do một đường thẳng đến Niết bàn. Dám hỏi con đường ấy bắt đầu từ đâu?
Càn Phong lấy gậy vạch một đường trên mặt đất, nói:
- Ngay đây.

Chuyện Xưa Tích Cũ - ĂN TRẦU NGẮT ĐUÔI

ĂN TRẦU NGẮT ĐUÔI

Tác giả: Sơn Nam & Tô Đình Nguyệt

Thuở ấy, ở xóm kia có chàng thanh niên và cô thiếu nữ rất xứng đôi vừa lứa. Cha mẹ của đôi bên đều bằng lòng kết tình thông gia nhưng chưa nói cho con mình biết. 

Vì quá yêu nhau, hằng đêm cô thiếu nữ lén mở cửa phòng rước cậu trai vào tự tình. Mãi đến gà gáy hừng đông, cậu trai mới ra về. Cứ như vậy ngày này qua tháng kia. 

Buổi tối, trước khi về, cậu trai ao ước được ăn một miếng trầu. Nhìn trong khay thấy hết trầu, cô thiếu nữ liền chạy ra vườn hái một lá đem vô, têm vôi, mời chàng. Dè đâu miếng trầu nhai chưa dập là chàng nọ ngã lăn, trào đờm rồi chết. Hoảng hốt, nàng tri hô lên. Quan làng chạy lại khám xét tử thi, thấy nhiều đốm đỏ loang khắp mình. 

Thế là cô nọ bị bắt giam để xét hỏi về tội bỏ thuốc độc giết người. Cô cứ một mực kêu oan. Cuộc tra tấn kéo dài, lần lần cô trở nên ốm o gầy mòn, gần chết trong ngục. 

May sao, có ông quan Án đi qua. Quan Án hỏi cô: -Đầu đuôi tự sự như thế nào? Mi phải khai rõ rệt. 

Cô nọ nói sự thật. Nghe xong, vị quan suy nghĩ, gật đầu. Ông đi ra ngoài vườn xem kỹ lưỡng từng lá trầu trên nọc. Ông chú ý: ở mấy lá sát gốc đều dính một chất gì nhớt ngay chót đuôi lá, giống như là con ốc, con sên bò qua nhả nước miếng. 
Nhưng không thấy con ốc, con sên nào cả! 

Ông quá tức trí, ra lệnh đào dưới đất, ngay nọc trầu. Đào xuống thật sâu, bỗng nghe tiếng khè khè. Rõ ràng là con thuồng luồng nằm khoanh trong hang. Dân chúng chạy tứ tán. 

Ông quan nói: -Con thuồng luồng này hằng đêm lén bò lên mặt đất để kiếm nước uống. Vì quá khát nước, nó phải liếm mấy giọt sương mù ở chót đuôi mấy lá trần gần dưới đất. Nọc con thuồng luồng dính lại trên lá nên gây chết người. Cô gái này bị hàm oan. 

Chòm xóm nhìn nhận lời vị quan nọ là chí lý, tài trí như Bao Công thuở trước. Từ đó về sau, trước khi têm trầu, ai nấy đều ngắt chót đuôi lá vì sợ nọc con thuồng luồng. Bây giờ giống thuồng luồng không còn, nhưng thói quen của con người hãy còn.

Chuyện cười trong ngày

Bạn khi hoạn nạn

Hai người bạn cùng đang đi săn trong rừng. Bỗng nhiên, họ bị một con gấu to tấn công. Một người lập tức cúi xuống buộc nhanh lại dây giày. Người kia thấy thế liền nói :

- Vô ích thôi ! Có buộc dây giày cho chắc thì cũng không chạy nhanh hơn con gấu đâu.

Anh chàng kia đã buộc xong dây giày, vừa cắm đầu chạy vừa trả lời:

- Không !Tôi chẳng cần chạy nhanh hơn con gấu làm gì. Tôi chỉ cần chạy nhanh hơn anh là đủ !

Wednesday, July 30, 2014

Ngay 30-7-2014 - Khởi Nguồn Chánh Pháp

Quân vương không thể ăn xin
Phật thì sống hạnh trì bình hóa duyên
ĐỨC PHẬT VỀ CỐ HƯƠNG KAPILAVAṬṬHU (CA TỲ LA VỆ) NGÀY ĐẦU ĐI KHẤT THỰC TRONG THÀNH. PHỤ HOÀNG SUDDHODANA (TỊNH PHẠN) HAY ĐƯỢC CHẠY ĐẾN TRÁCH HỜN.
Tranh: Global Pagoda Chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
© Copyright 2010 Phap Luan Buddhist Cultural Center

Phật Học Vấn Đạo - sự liên hệ mật thiết với một số người nào đó ở xa. Phải chăng có thể coi là thân cận người bạn lành không?

Hỏi.  Những bậc vĩ nhân, những bậc thiện tri thức thường có sự liên hệ mật thiết với một số người nào đó ở xa. Phải chăng có thể coi là thân cận người bạn lành không?

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 12-5-2014, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Ở đây chúng ta nói đến thân cận bạn lành hay thân cận thiện hữu. Thật ra ở trong thời đại của chúng ta hôm nay mình có nhiều phương tiện hơn để  gọi là tiếp xúc với những người bạn lành.  Đọc gương danh nhân chúng tôi nhận ra một điểm những bậc vĩ nhân thường có những liên lạc một thiết với một số người nào đó cho dù không ở gần.

Ở đây chúng ta dùng chữ thân cận. Chữ thân là thân thiết và chữ cận là gần. Nhưng chữ thân cận ở đây không cần hiểu theo phương diện khoảng cách của không gian và đó là những người chúng ta thường qua lại thường tiếp xúc, sự  thân cận như vậy rất quan trọng trong cuộc sống. Các bậc vĩ nhân thường có liên hệ với một số người nào đó và người đó là người đáng liên hệ. Ngày hôm nay chúng ta có  lợi ích là chúng ta có email, chúng ta có thể có được những liên hệ với điện thoại, với email, với những phương tiện truyền thông, chúng ta có thể có được những giây liên hệ với những người tuy rằng ở cách nửa quả địa cầu. Hay hoặc giả những người đó chúng ta không hề biết mặt chỉ giao thiệp qua thư từ qua điện thoại thì điều này cũng có thể giúp ích chúng ta được.

Chúng tôi nhớ là khi chúng tôi sang Miến Điện có một vị Sư ở gần chùa Swedagon vị này là Ngài Indaka. Ban đầu thì chúng tôi liên lạc để hỏi thăm  về đất nước Miến Điện và những ngôi chùa nên đến thăm của đất nước Miến Điện. Nhưng sau này thì chúng tôi hiểu rằng Ngài là một vị nghiên cứu về pháp niệm hơi thở. Và chúng tôi khi liên lạc với Ngài tuy rằng ở rất xa, đôi khi một hai năm mới gặp một lần. Nhưng những kinh nghiệm của Ngài về niệm hơi thở khiến cho chúng tôi cảm thấy rất hoan hỉ. Và chúng tôi thường bàn luận ngay cả với TT Tuệ Siêu. Thật tình,  chúng tôi là anh em ruột nhưng phải nói một điều trên phương diện Phật Pháp thì có lẽ chúng tôi gần với nhau trên phương diện Phật Pháp hơn là tình anh em máu mủ. Mặt dù ở rất  xa nhưng  khi có những điềm  chúng tôi và TT Tuệ Siêu trao đổi thì chúng tôi thấy đó cũng là một sự thân cận và sự thân cận như vậy nó giúp rất là nhiều. Hay là, chúng tôi nhớ  ở trong sự làm việc của chúng tôi có một vài Phật tử ở California tuy rằng họ không ở gần chùa nhưng  thỉnh thoảng chúng tôi tiếp xúc, liên lạc điện thoại thì chúng tôi cảm thấy rằng cũng có thể gửi gấm và cũng có thể trao đổi nhiều quan điểm rất tốt.

Những sự giao tiếp như vậy thật sự quan trọng. Do đó chúng tôi muốn nói sự thân cận ở đây không nhất thiết là một người  ở gần nhà hay một người mỗi tuần phải gặp nhau. Nhưng đại khái có sự liên lạc mật thiết và sợ giây liên lạc này  khả dĩ giúp cho chúng ta có được những cái nhìn mới hơn, có được những chia sẻ lợi lạc hơn. Thì sự thân cận của thế giới ngày hôm nay có thể cho chúng  ta không gian rộng lớn hơn ngày xưa nhiều. Ngày xưa một người ở tỉnh này qua tỉnh kia có thể gọi là bặt vô âm tín nhưng sau này chúng ta có thư từ có điện thoại điện tín, có nhiều phương tiện thì như vậy khả dĩ cũng có thể gọi là sự thân cận nếu chúng ta tạo ra sự liên hệ mật thiết.

Chúng tôi thích đọc những câu chuyện về các vị danh nhân và trong số đó người ta thường hay nói về những bức thư những danh nhân này gửi liên lạc với người bạn ở xa. Một điều chúng tôi muốn nói ở tại dây là ở trong cuộc dành độc lập cho đất nước Hoa Kỳ từ người Anh và xây dựng nền dân chủ Hoa Kỳ cách đây hơn 200 năm từ thời rất xa xưa thì những vị cha đẻ của đất nước Hoa Kỳ ở trong đó phải kể ông Thomas Jefferson là vị viết ra hiến pháp của Hoa Kỳ và là Tổng Thống thứ 3 của đất nước Hoa Kỳ, ông có những trao đổi với ông Lafayette và với một vài người bạn thân ở Pháp và chính những trao đổi này giúp cho ông có nhiều cái nhìn về vấn đề thế nào là một nền dân chủ thật sự.

Do vậy chúng ta phải khẳng định sự thân cận với bạn lành ngày nay không nhất thiết là một người phải sống chung nhưng là người mình thường liên lạc và sự liên lạc đó ở trong nhiều phương tiện khác nhau

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Một đứa nhỏ không ý thức, nó nghĩ rằng tạo ra niềm vui nhưng thay vì tạo ra niềm vui cho mình thì nó tạo ra sự đổ vỡ, tạo ra sự phiền toái cho người khác, và chính đứa bé cuối cùng bị quở phạt, đó là một hành động thiếu hiểu biết, đó là hành động nông nỗi phát xuất từ đầu óc nông nỗi. Ai trong chúng ta không khát vọng hạnh phúc, ai trong chúng ta không mong cầu được sự an lạc. "Lòng nào lòng vẫn thiết tha, cõi âm là thế huống là cõi dương" cụ Nguyễn Du khi viết bài "Văn tế thập loại chúng sinh" cụ cũng đã nói lên một cảm khái rằng ngay cả những người sống vất vưởng mà cụ gọi là ma là cô hồn thì những loài đó cũng khác vọng hạnh phúc, thì ý tưởng đó rất gần với kinh Phật khi chúng ta đề cập đến rằng chúng sanh thương mình hơn tất cả, chúng ta mong cầu hạnh phúc như là một niềm hy vọng bất tuyệt ở trong lòng của mỗi chúng sanh, tuy vậy trên con đường dẫn đến hạnh phúc, trên con đường thể hiện hạnh phúc đã làm cho chúng sanh trên đời này có khác biệt, và sự khác biệt đó được gọi là "Bàla" hay là "Pandita" sự khác biệt giữa kẻ "Ngu" và người "Trí".

TT Giác Đẳng - Kẻ ngu triền miên luân hồi - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

TÔI KHÔNG MUA CHUYỆN NGHIỆP NÀY ĐÂU


Một thanh niên xuất thân từ trường đại học nói:

- Tôi không mua chuyện Nghiệp này đâu. Nó trái với cảm nhận hoài nghi của tôi. Làm sao trong đời này chúng ta có thể chịu ảnh hưởng của những lỗi lầm trong đời trước? Tôi không tin ngay cả chuyện tái sinh.

 Vị thầy dạy Thiền nói:

- Hãy bắt đầu ở đây. Hãy suy xét mỗi buổi sáng anh thức dậy là một người mới. Anh đến giường, anh ngủ, rồi anh thức dậy và anh bắt đầu trở lại quãng đời còn lại của anh. Anh có sự chọn lựa vô giới hạn những gì anh muốn làm và nhân vật gì anh muốn trở thành vào ngày hôm đó. Tuy nhiên, tất cả nhân và duyên của đời anh trước sáng hôm đó trợ giúp những gì anh sẽ làm và sẽ là. Nghiệp cũng như vậy. 

- Vậy ...?

- Vậy có thể suy xét điều này: Hằng ngày hãy làm việc cực nhọc hơn một chút để trở nên từ bi hơn. 

- Và...?

- Và có thể anh sẽ không trở lại làm một ông thầy dạy Thiền tồi cố gắng giúp một thanh niên sáng láng có tâm trí trì độn.

Chuyện xưa tích cũ - SỰ TÍCH CÁ HE HAY CÁ NƯỢC

SỰ TÍCH CÁ HE HAY CÁ NƯỢC
Tác giả: Sơn Nam & Tô Đình Nguyệt

Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu luyện, sư thuộc lòng tất cả các kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi vẫn chưa được thành chính quả. Nhà sư bụng bảo dạ: “Phải đến đất Phật một phen mới có hy vọng thành Phật.” Nghĩ vậy, sư mới quyết chí tìm đường sang Tây Trúc. 

Ðường đi từ nước nhà sang Tây Trúc ngày đó chưa có cách nào cho thuận lợi. Việc giao thông hầu hết là bằng đường bộ, mà đi bộ thì thật là muôn vàn nguy hiểm. Nhưng nhà sư trẻ tuổi quả quyết nhằm hướng tây tiến bước. 

Cuộc hành trình đã được năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều lần lạc đường và mấy lần mê man vì sốt rét, nhưng nhờ được sự giúp đỡ nên đều qua khỏi, và vẫn cứ tiếp tục cuộc hành trình. 
Một hôm, sư đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi nghỉ vì trong người đã thấy ớn rét. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng thấy một ngôi nhà. Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sân. Sư tỏ ý định của mình là xin nghỉ nhờ một đêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách đã xua tay rối rít: -Ði mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng. 

Sư đáp: -Tôi bây giờ thật là kiệt sức, không thể nào bước được bước nữa. Nếu không cho tôi nghĩ thì cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi. 

Bà cụ bảo: -Chao ôi! Con ta vốn là Ác Lai hay ăn thịt người. Cố đi nhanh lên, bây giờ nó sắp về rồi đó. 

Nhưng sư đã vứt tay nải, nằm vật xuống đất. Hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay sư lôi vào trong nhà, bà cụ bảo sư phải cố giữ cho thật im lặng để tránh cái chết thê thảm. Ðoạn, bà cụ chất củi phủ lá rất kín đáo. 

Trời tối hẳn thì Ác Lai về đến nhà, tay xách một con mang. Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi. Hắn bảo: -Có mùi thịt mẹ ạ! 

Mẹ hắn đáp: -Thì chả là thịt mày mang về đây là gì? 

-Không phải, thịt người. Con biết lắm. Có thịt người. 

Bà cụ chưa kịp can thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm. Chả mấy chốc, hắn đã lôi được nhà sư ngủ say như chết từ dưới hầm nhà mình. 

Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy Ác Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát: -Mày đi đâu? 

Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì người thường bèn tỉnh táo đáp: -Tôi đi tìm Phật. 

-Tìm để làm gì? 

Sư bây giờ mới nói rõ mục đích của mình. Rồi luôn miệng, sư giảng giải đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể bao nhiêu ngày gian khổ của mình dọc đường, là làm sao được nhìn mặt đức Phật để được thành đạo. Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ác Lai đều cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên “vô sinh vô diệt.” sẽ sống sung sướng trên Niết Bàn, nếu họ kiên quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác lúc nãy bây giờ dịu lại. 

Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho sư. Họ lại tiến đưa sư đi qua một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, ác Lai hỏi: -Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây? 

Sư đáp: -Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm. Chỉ dâng tấm lòng mình là đủ. 

Sư không ngờ Ác Lai đã rút mũi mác nhanh như cắt, tự rạch bụng mình lôi ra cả một mớ gan ruột đưa cho sư và nói: -Nhờ hoà thượng đưa hộ dâng lên đức Phật. 

Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì Ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ biết làm thế nào đây. Cuối cùng sư ta đành nhìn vào cặp mắt của Ác Lai gật đầu, nhận lời rồi gói bộ lòng của con người đáng thương đó lại và quảy quả lên đường. 

Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, biển lộ ra trước mặt mênh mông bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư thì chẳng vui chút nào. Món lễ vật của Ðức Phật đè nặng lên vai. Nếu chỉ có thế thì không gì lo ngại cho lắm. Khổ một nỗi là mùi thối của bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư đã bọc nó ba tầng bốn lớp mà mùi thối vẫn nồng nặc. Sư lẩm bẩm: -Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình. 

Qua ngày hôm sau, không thể chịu nổi nữa, sư bèn vứt bộ lòng Ác lai xuống biển. 

Nhà sư đi mãi rồi cũng đến Tây Trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật Ðài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo: -Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả. 

Sư rất đỗi kinh ngạc, cố ngước mắt nhìn lên một tí. Trên cao vòi vọi sư thấy Ðức Phật ngự giữa toà sen sáng chói, sau lưng có bóng dáng hai người tựa hồ hai mẹ con Ác Lai. Sư bỗng hiểu hết: Ðức Phật đã rõ sự thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi, còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ nhờ sự ngộ đạo đột ngột và chân thành trong phút chốc. Sư nằm phục vị hồi lâu, trong lòng hổ thẹn vô cùng. 

Nhà sư trẻ sau đó lại trở về chốn cũ tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông và sâu kín, nhưng sư cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai gửi cho mình. Sư nghĩ chỉ có làm thế mới dám nhìn lại mẹ con Ác Lai và hy vọng gần gũi toà sen Ðức Phật. Sư bơi lên lặn xuống mãi. Sau đó sư hoá làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he cũng gọi là cá nược hay có nơi gọi là cá ông sư. Vì cho đến ngày nay dòng dõi loài cá đó còn nào con nấy có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm việc của nhà sư, nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn, không chịu nghỉ. 
Những người đánh cá còn nói loài cá he rất ghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu chọc nghĩa là gợi lại chuyện cũ của tổ tiên chúng nó, chúng nó sẽ làm đắm thuyền rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi, reo hò thì chúng sẽ lặn xuống nổi lên cho mà xem.

Chuyện cười trong ngày

Một người tới tiệm sửa đồng hồ hỏi:

- Xin lỗi, ông có phải là thợ sửa đồng hồ giỏi nhất vùng này không?

- Phải, ông cần gì?

- Tôi muốn mời ông tới nhà xem giúp con gà trống nhà tôi. Từ mấy ngày nay nó toàn gáy sớm hơn mọi khi cả nửa tiếng đồng hồ.

Tuesday, July 29, 2014

Ngày 29-7-2014 Khởi Nguồn Chánh Pháp

Ngỡ lại đẹp ở dung nhan
Hiểu ra hoa nở để tàn thế thôi
HOÀNG HẬU KHEMĀ MANG MẶC CẢM VỚI PHẬT PHÁP VÌ BẢN THÂN CHUỘNG SẮC ĐẸP. NHỜ ĐỨC PHẬT KHAI THỊ GIÁC NGỘ TRỞ THÀNH ĐỆ NHẤT TRÍ TUỆ TRONG NI CHÚNG
Tranh: Global Pagoda Chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
© Copyright 2010 Phap Luan Buddhist Cultural Center

Phật Học Vấn Đạo - Sự độc cư có giá trị gì với người tu tập?

Hỏi. Sự độc cư có giá trị gì với người tu tập? 

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 15-7-2014, Minh Hạnh chuyển biên)

ĐĐ Pháp Tín: Đời sống độc cư có lợi ích cho chúng ta rất nhiều trên nhiều phương diện. Thật ra, có những người nói nếu mình tu tập tốt thì nơi nào mình tu cũng được, ở độc cư, hay ở nơi phồn hoa đô thị, ở nơi thanh vắng gì nếu chúng ta biết tu thì nơi nào chúng ta cũng tu được,

 Thật sự đồng ý như vậy nhưng đối với đời sống độc cư có nhiều thuận tiện hơn. Khi mình sống độc cư, không ở gần với nhiều người thì đây là một điều làm cho chúng ta giảm bớt phiền não. Thí dụ như khi mình ở trong một hội chúng nếu hội chúng có tu học thì không sao nhưng nếu chúng ta ở với một hội chúng phàm phu thì mình biết rồi, tâm của người này lúc này thì khác, tâm người kia lúc kia nó khác, mỗi người mỗi tâm ý khác nhau mỗi người mỗi tâm tánh khác nhau thành ra khi mà chúng ta có sự chung đụng nhiều quá thì chúng ta cũng có phiền não. Rồi khi chúng ta chung đụng như vậy nhiều thời gian tu tập mình không có sẽ làm cản trở mình. Sự ồn ào sẽ cản trở mình.

Thành ra một người sống độc cư tu tập hay hành trì thiền định hoặc sống đời sống phạm hạnh thì nên trọn một nơi cư trú thanh tịnh yên vắng hoặc có cơ hội được sống một đời sống độc cư thì sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho người đó, tránh được những phiền não, tránh được những hội chúng đông người, tránh được những sự cãi vả. Nói chung là được rất là nhiều phương diện hoặc là nhiều lợi lạc rồi từ đó đạt đến những giá trị rất nhiều. 

Cũng như mình thấy trường hợp không phải là độc cư, thí dụ như có trường hợp người ta nói rằng là tại sao mình ngồi một mình, thì "độc hành không buồn chán, ẩn sĩ tự điều phục, sống thoải mái rừng sâu". Đây là câu kệ tâm đắc của Sư Trưởng. Cũng như có những người nói rằng "Thời nay mình sống có lúa thóc gạo đầy đủ tại sao những vị tu sĩ không ăn một ngày 3 lần" người ta mới biện minh ngày xưa do thời đó lúa cao gạo khó thành ra phải ăn một ngày một buổi hoặc ăn một ngày hai lần. Thì khi chúng tôi nghe nói điều đó chúng tôi nói rằng ngày xưa trong thời Đức Phật thì không thể nào gọi là lúa cao gạo khó được mà thời Đức phật có nhiều trưởng giả như ông Cấp Cô Độc,  bà Visakha, rồi đến vua Pasanadhi, vua Bình Sa Vương, vua A Xà Thế, rất nhiều vị vua hộ độ, rất nhiều trưởng giả khắp nơi, ngay cả Chư Thiên cũng hộ độ thì không bao giờ thiếu gạo.

Ở đây thì chúng tôi nói điều này nó liên quan đến đời sống không bận rộn về ăn uống từ buổi trưa cho đến sớm ngày hôm sau mình không cần suy nghĩ đến phải nấu món gì rồi phải ăn như thế nào phải rửa phải dọn dẹp v.v... thì có rất nhiều điều làm cho chúng ta bị phiền toái. Chúng tôi muốn nói khi mình chỉ cần nhịn ăn một buổi chiều như vậy mà chúng ta đã có thời gian tu tập rất nhiều. Từ 12 giờ trưa đến sáng ngày hôm sau chúng ta không có bận rộn về vấn đề ăn thì chúng ta có một thời gian tu tập, có thời gian để mình hành đạo tu tập. 

Một  người sống ở trong rừng núi hoặc ở một nơi thanh vắng nào đó. Thật sự ra cái điều này nếu chúng ta có được một trú xứ an tịnh chúng ta chỉ cần lo tu tập, nếu chúng ta lo tu tập nhiều thì những sự bận rộn của chúng ta sẽ ít. Thí dụ như  mình đi khất thực chỉ có một buổi rồi về thọ thực rồi sau thời gian đó chúng ta không lo đến việc ăn uống nữa những thời gian còn lại để tu tập từ đó đem lại nhiều lợi lạc cho chúng ta. 

Vậy thì ở trong câu thảo luận này chúng tôi muốn trình bày đó là sự độc cư có rất nhiều giá trị chúng ta có được thời gian tu tập rất nhiều và chúng ta tránh được những phiền não, từ đó sự tu tập của chúng ta sẽ đạt được nhiều thành quả nhiều giá trị do đời sống độc cư đem lại ./.

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

MỖI NGÀY LÀ MỘT NGÀY TỐT

Thiền sư Vân Môn nói với môn đồ, “Trước ngày mười lăm tôi không hỏi, sau ngày mười lăm thì thế nào?” Không ai trả lời. Vì thế sư tự đáp, “Mỗi ngày là một ngày tốt.” Ngày mười lăm, theo âm lịch, có trăng tròn, ám chỉ sự giác ngộ rõ ràng. “Sau ngày mười lăm” có nghĩa là sau khi có sự giác ngộ như thế.
Vì “Mỗi ngày là một ngày tốt,” nhiều người bị chữ “tốt” lừa, nghĩ rằng tốt là đối lại với xấu. Như thế, họ nghĩ rằng “ngày tốt” có nghiã là ngày đẹp, hạnh phúc. Tuy nhiên, Vân Môn không có ý đó. “Ngày tốt” của Vân Môn còn sâu xa hơn thế . Sư đang chỉ cái ngày ngay đây, ngay bây giờ, không tiền, tuyệt hậu. Một công án tốt cho tất cả chúng ta: “Đây là loại ngày gì?

Chuyện xưa tích cũ - CAO NHÂN TẤT HỮU CAO NHÂN TRỊ

CAO NHÂN TẤT HỮU CAO NHÂN TRỊ

Tác giả: Sơn Nam & Tô Đình Nguyệt

Ngày xưa, tại làng Xuân Tiêu thuộc tỉnh Hải Dương có một tên ăn trộm nhà nghề rất tài tình. Người trong làng thảy đều ngán mặt anh ta. Thấy bóng anh ta ở đâu là thiên hạ lo canh chừng ráo riết. 
Ngày nọ, có một khách qua đường đến trọ tại một cái quán, ngủ đêm đặng sáng mai lên đường. Khách mở túi bạc ra đếm rồi đặt lên đầu giường làm gối kê. 

Tên trộm dò biết khách có số bạc to, nên quyết tâm ăn cắp cho được. Đêm đó, tên trộm đợi khuya, lẻn vào nhà trọ giả làm mèo đuổi chuột, mấy lần chạm vào khách. Bị đụng vào chân, khách chợt ngồi dậy để đuổi mèo. Tên trộm thừa dịp đó cuỗm mất túi bạc. Chừng khách biết thì đã muộn rồi. 

Khách lấy làm căm tức đã thua trí tên trộm. Tuy vậy, khách không phải là người tầm thường, chẳng bao giờ chịu mất của một cách nhanh chóng như vậy. Lúc đó, nhìn quanh quẩn bên trong quán trọ khách thấy có cái nơm bắt cá, khách liền cầm lấy, hỏi thăm nhà của tên trộm thẳng tới. Truyện "Chuyện Xưa Tích Cũ " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Núp ở ngoài cửa, khách thấy tên trộm đổ túi bạc của mình ra ván, rồi cùng vợ ngồi đếm. Tức thì, khách tông cửa ra, rồi đứng ngoài to tiếng đòi chia của. Tên trộm nghe vậy thì giận lắm vác gậy xông ra đuổi đánh kẻ đòi chia của. Khách liền núp vào chỗ tối, đợi cho tên trộm bước ra khỏi cửa, khách liền bước vào nhà, thừa lúc bất ngờ lấy cái nơm cá chụp vào đầu vợ tên trộm, đoạn thồn hết đống bạc vào túi, theo đường cũ trở về nhà trọ, đóng cửa ngủ yên tới sáng. 

Khách vừa tỉnh dậy, thì đã thấy tên trộm lễ mễ mang một mâm xôi thịt đến ra mắt để tôn khách làm sư. Vì từ trước đến nay, trong nghề ăn trộm, tên trộm chưa bao giờ chịu thua ai hoặc thấy ai tài giỏi hơn mình như khách. Bấy giờ khách nói rõ quá khứ oanh liệt của mình. Thì ra chính khách là một tên ăn trộm nhà nghề rất nhiều mánh lới, đã giải nghệ từ lâu. 

Lúc đó, tên trộm mới biết mình tài giỏi còn có người tài giỏi hơn.

Chuyện cười trong ngày

An toàn

Lãnh đạo công ty hỏi viên thư ký: "Anh giữ giấy tờ của mình ở đâu?"

"Trong một cái hộp chắc chắn thưa ngài."

"Có đáng tin cậy không?"

"Có chứ ạ. Ngài không thể mở nó bằng bất cứ chiếc chìa khoá nào."

"Thế làm thế nào mà anh mở nó đây?"

"Với một cái tua vít", viên thư ký đáp.

Monday, July 28, 2014

Ngày 28-7-2014 Khởi Nguồn Chánh Phap

Trí nhân gặp được đạo mầu
Một lời cũng đủ bắt cầu qua sông
SĀRĪPUṬṬA (XÁ LỢI PHẤT) HẠNH NGỘ TÔN GIẢ ASSAJI, CHỈ NGHE MỘT CÂU KỆ MÀ ĐẠI NGỘ. SAU ĐÓ TRỞ THÀNH THƯỢNG THỦ THINH VĂN ĐỆ NHẤT TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC PHẬT.
Tranh: Global Pagoda Chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
© Copyright 2010 Phap Luan Buddhist Cultural Center

Phật Học Vấn Đạo - Sự lớn mạnh của trí tuệ mới là điều đáng nói.’

Hỏi: Sự lớn mạnh của trí tuệ mới là điều đáng nói.’ 

(Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, thời giảng kinh Pháp Cú, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Đặc biệt trong văn chương Ấn Độ và cả văn chương Phật giáo, khi đề cập đến sự học hỏi hay sự hấp thụ, trong kinh thường dùng đến chữ biết nghe. Biết nghe là một nghệ thuật quan trọng trong tiến trình học hỏi. Ví dụ chúng ta có chữ Bāhusacca là bậc đa văn, nghe nhiều, học rộng. và chúng ta cũng có chữ Puthujjana sãvaka là phàm thinh văn và  Ariya sãvaka là bậc thánh thinh văn là người biết lắng nghe Đức Phật dạy và có khả năng hấp thụ được. 

Chữ biết lắng nghe là một chữ đẹp, có ý nghĩa trong nền văn chương của Ấn Độ. Người ta cho rằng một người muốn mở mang tri thức, không phải dựa trên học vị mà dựa trên thái độ hiểu biết và thái độ cầu học của mình. Cho dù một vị lớn tuổi, một vị có học vị rất cao về tri kiến chuyên môn thuộc lĩnh vực nào đó mà người này không còn có khả năng lắng nghe nữa thì sự học bắt đầu thụt lùi. 

Có thể nói rằng lắng nghe ở đây có nghĩa là trong tâm tư của mình lắng đọng những ý kiến phê bình, tất cả những quan niệm chủ quan của mình để tiếp nhận những cái gì được nói và được biết tới từ bên ngoài. Riêng trong Phật giáo có rất nhiều bài kinh đề cập đến điểm này. Ví dụ kinh hạnh phúc và kinh Chuyển Nghiệp. 

Trong kinh hạnh Phúc thì Đức Phật ngài dạy, một người biết nghe là hạnh phúc tối thựơng,  người có khả năng lãnh hội là hạnh phúc tối thượng. Trong bài kinh Chuyển Nghiệp, chúng ta lại tìm thấy một Phật ngôn đề cập đến những người thường đến gặp các vị Sa môn, Bà la môn, bậc thiện trí để hỏi điều nào là thiện, điều nào là bất thiện. Và với những câu nghi vấn này, những sự tìm hiểu này thì người đó đang tạo ra nhân sanh để đời sau sanh ra có trí tuệ. Không phải vì chúng ta đi hỏi và nhận những câu trả lời làm cho chúng ta là người có trí tuệ mà muốn nói một người đem tâm tư mình lắng đọng, đón nhận những cái gì hay, cái gì đẹp từ bên ngoài vào.

Các vị thiền sư Nhật Bản cũng có một ví dụ. "Có một người đến hỏi đạo một vị Thiền Sư. Nhưng anh này nói huyên thuyên về những đạo lý mình đã được nghe, đã được hiểu. Vị Thiền Sư chỉ ngồi đó và lấy bình trà rót trà vào ly cho đến khi đầy vẫn không dừng lại. Vị khách lấy tay chận vị Thiền Sư thì vị Thiền Sư nói, đầu óc của anh giống như ly trà này, nó không còn có thể chứa đựng thêm được gì nữa". Điều đó có nghĩa chúng ta phải ở trong một tư thế có thể đón nhận được, có thể lãnh hội được, có thể lắng nghe thì chúng ta mới có thể cải thiện được cái nhìn của mình, có thể nâng cao tri kiến của mình. 

Nếu chúng ta không còn khả năng để lắng nghe nữa thì chúng ta tự cô lập với thế giới bên ngoài cho dù chúng ta sống trong đám đông và cho dù chúng ta có là chuyên gia về một ngành nào đi nữa. Thái độ hiểu biết, thái độ cởi mở rất quan trọng.

 Tương tựa, chúng ta đi xem một vở kịch hay một chương trình văn nghệ để có thể cảm nhận trọn vẹn thì tâm tư chúng ta phải lắng đọng, ít nhất là nó phải yên lặng. Không có đủ tâm tư yên lặng chúng ta không thể hấp thụ được một điều gì hết. Chúng tôi trong đời này thật hữu duyên, hữu phúc. Đó là từ nhỏ tới lớn sống gần một số các vị Tôn Túc, Thầy Tổ. Chúng tôi cảm nhận cho dù tuổi đã cao. Sáu, bảy mươi tuổi, có vị thậm chí tám mươi tuổi nhưng đối với kinh điển, sách vở thì tâm tư của quí Ngài lúc nào cũng mới mẻ. Cần thiết gì để cho một vị Hòa Thượng lớn tuổi phải đọc sách, phải nghiên cứu kinh điển trong khi trong cuộc đời đã tri kíến quá nhiều. Nhưng những vị Thầy, những vị Hòa Thượng mà tôi đã sống trong chùa thì cho dù các Ngài ở tuổi nào, đối với kinh sách, đối với Phật Pháp, tâm tư của các ngài lúc nào cũng mới mẻ. Các Ngài có thể bỏ ra mỗi ngày hàng mấy tiếng đồng hồ để xem một quyển kinh. Mỗi lần chúng tôi nhìn hình ảnh đó, tôi nghĩ là đó là hình ảnh rất đẹp. Người Trung Hoa có đề cập đến một khả năng một đức tốt của một người cho dù đến tuổi già bóng xế vẫn không chán học, vẫn tìm thấy rằng trong lãnh vực tri thức, tâm linh có nhiều chỗ để học, để lắng nghe. 

Chúng ta đa số thường thương quí bản ngã. Thị dục huyễn ngã là cái gì căn bản của loài người. Chúng ta thường hãnh diện về trí kiến của mình. Nhưng sự tự hào hãnh diện đó có giá trị tốt hay không tốt thì chúng ta thấy tại đây khi một người tách biệt với thế giới bên ngoài, không còn khả năng hấp thụ những điều hay nữa thì lúc đó quả thật là có vấn đề.  Cho dù muốn dù không thì chúng ta phải nhìn nhận rằng trong giáo Pháp của Đức Phật, cộng đồng tăng lữ trong bối cảnh của Phật giáo thì sự học hỏi được khuyến khích rất nhiều dù người ta có viện dẫn đến đâu đi nữa. Có một lần Ngài dạy rằng, giáo lý của Đức Phật suy tàn là do những người thiểu trí. Những người thiểu trí là những người xuất gia hay những người cư sĩ Phật tử sống trong giáo pháp nhưng không có cái nhìn rõ về giáo pháp. Điều đó làm cho giáo pháp suy thoái. 

Không riêng gì Đạo Phật, ngay cả một nền văn hóa dân tộc cũng có nguy cơ suy thoái nếu như không có những người am tường lịch lãm, bén nhạy về nền văn hóa của mình. Đạo Phật không phải là một tôn giáo hay giáo lý dễ tiêu hóa mà có nhiều người nghĩ rằng có thể nhìn Đạo Phật một các rất tùy tiện. Đạo Phật là thế này, Đạo Phật là thế khác. Nhưng phải nói rằng chúng ta càng đi sâu vào kho tàng pháp học thì chúng ta thấy có một nhu cầu rất lớn người Phật tử đối với sự tồn tại của giáo pháp thì chúng ta đã biết rồi, nhưng đối với sự tu tập bản thân thì điều này tri kiến, trí tuệ lại là một điều quan trọng khác nữa. Chúng ta rất dễ sa vào những cạm bẫy và rất dễ đi sai đường do đó mọi việc nhất nhất phải vận dụng đến khả năng bén nhạy của mình

Học pháp là điều Đức Phật ngài khuyến khích. Kho tàng phong phú kinh điển Phật giáo và những cụm từ chúng ta nói như “Duy tuệ thị nghiệp”. Hoặc giả Đức Phật ngài dạy rằng không có sự mất mát nào hơn là sự mất mát về trí tuệ. Không có sự thiệt thòi nào hơn là sự mất mát về trí tuệ. Thậm chí ngài nói rằng sự mất mát của danh, của lợi quá bé nhỏ so với sự mất mát của trí tuệ. Nhiều lần Đức Phật lập đi lập lại rằng Đạo Phật là đạo của người có trí chớ không phải của người không có trí. Không may cho chúng ta thường rơi vào cảnh giới tự hào, tự thị. Một cảnh giới chúng ta cho rằng mình học đạo như vậy là đủ. Thật ra có đôi lúc chúng ta được nghe các vị tu tập, nhất là tu tập về thiền định, lên tiếng cho rằng mình đã tu tập thiền định rồi thì vấn đề Pháp Học không còn quan trọng. Nhưng trong nhiều năm khi chúng tôi tiếp xúc với các vị Thiền Sư được nhân duyên học ở các ngài và tham dự các khóa thiền thì chúng tôi thấy rằng trong khóa thiền nào cũng có chương trình, những giờ giảng dạy về Phật pháp chứ không phải là không có. Đặc biệt những vị Thiền Sư khuyến khích học những môn học những vị bình thường ít khi khuyến khích. Ví dụ như môn A Tỳ Đàm. Nếu quí vị nào quen với ngài Khippapañño, tức là Thiền Sư Kim Triệu, quí vị cũng thấy trong sự thực hành thiền định của ngài cũng khuyến khích học A Tỳ Đàm, thậm chí cho ấn tống những tác phẩm về A Tỳ Đàm. Đây là một điều rất bình thường, bình thường đối với những quốc gia chuyên về thiền định vì người ta thấy những giáo lý này làm cho kiến văn của những vị thiền sinh được sáng tỏ và như vậy cần được khuyến khích. 

Các vị cư sĩ Tây phương đến với Đạo Phật để hành thiền. Cho dù ban đầu họ đến với Đạo Phật vì cảm thấy mệt mỏi và cảm thấy không còn nhiều hứng thú với những ngành học thuật của Tây phương nữa. Nhưng khi họ đến với Đạo Phật thì đã có nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu được đưa ra. Đạo Phật không phải là một tôn giáo chỉ đến với niềm tin mà qua đó con người phải hiểu và do hiểu mà họ thấy được giá trị chân thực của chánh pháp. 

 Đức Phật trong nhiều bài kinh, kể cả kinh Hạnh Phúc, nhấn mạnh đến lợi lạc của sự học hỏi. Phải nói rằng trong quá khứ chúng ta nghe nhiều tranh chấp giữa học và hành. Người ta nói “Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là cái đãy đựng sách.” Những sự tranh luận này đưa những người Phật tử về hai khuynh hướng khác nhau. Một khuynh hướng nặng về nghiên cứu. Một khuynh hướng chỉ chú trọng về thực hành. Cả hai bên đều có những cái đẹp, nhưng cái hình ảnh ở trong kinh cho chúng ta thấy là một hình ảnh hết sức trung dung, dung nạp được cả hai cách này. Ngài Xá Lợi Phất là một đệ tử Phật về phẩm hạnh về tánh hạnh, về thân giáo của ngài, phải nói là một trong những vị thượng thủ thinh văn, không có cái gì chúng ta có thể chê được về phương diện thực hành. Nhưng ngài cũng là một vị kiến văn quảng bác. Nói đến một vị trí tuệ chỉ đứng sau Đức Phật thôi thì chúng ta muốn nói đến một hình ảnh mà qua hình ảnh đó chúng ta thấy rằng sự học hỏi rất là quan trọng, có chỗ đứng lớn trong đạo Phật. 

Ở đây chúng ta có chữ khác là Panna. Panna là trí tuệ, chúng ta thường âm là Bát Nhã. Theo bộ Bách Luận, bộ kinh Bát Nhã và chữ bát nhã ngày nay trong truyền thống Đại Thừa và trong Thắng Tạng, người ta không thấy chữ nào có thể dịch trọn vẹn chữ Panna.Thật ra họ để nguyên và họ phiên âm là Bát Nhã. Ở đây, nó cũng có nhiều ý nghĩa rất là đặc biệt. Panna là trí tuệ và trí tuệ theo đúng nghĩa trong kinh Phật là khả năng có thể thẩm thấu, khả năng có thể nhìn thấy chân tướng vạn pháp. 

Và khi nhìn thấy chân tướng của vạn pháp, muốn nói là con người chúng ta phải bỏ bớt những thành kiến, những định kiến, những tư kiến của mình để có thể nhìn thấy sự vật vốn ra sao thì mình nhìn nó như vậy. Trí tuệ trong Đạo Phật ngay cả về phương diện học thức nói rất nhiều về phẩm chất của nội tâm. Quí vị vào trong Paltalk nghe một bài pháp và nếu hôm nay quí vị trong người rất khỏe, quí Phật tử có thể nghe pháp tốt hơn. Khi nào tâm tư chúng ta trong sáng, chúng ta cầm một quyển kinh chúng ta đọc thấy mình hiểu nhiều và thấy mình mau hiểu hơn là lúc tâm tư chúng ta bị chi phối. 

Nói tóm lại, về phương diện học Đạo Phật không chú trọng nhiều về lý luận mà Đạo Phật chú trọng nhiều về tâm tư trong sáng. Một người học Phật pháp bằng tâm tư trong sáng họ học hiểu nhiều hơn là người có học vị ở bên ngòai. Chúng tôi nói điều đó không sợ sai lầm vì chúng tôi biết rất nhiều vị danh tăng, tôn túc cả hai truyền thống Nam Tông và Bắc Tông. Quí vị này sở học, học thức, bằng cấp bên ngòai không cao nhưng sống trong chùa với tâm tư rất trong sáng. Những vị này có cảm nhận sâu sắc về giáo lý của Đức Phật mà những vị này chúng ta tìm thấy rất là nhiều. Do đó chúng ta thấy ý nghĩa của chữ panna khó định nghĩa. Người ta quan trọng chữ panna là trí tuệ bên ngòai, nghĩa là cái gì chúng ta học hỏi, cái gì chúng ta lý luận. Có một số người than phiền rằng Phật giáo là một hệ thống kinh điển có lý luận rất cao nhưng ngòai một số tác phẩm của Phật giáo Bắc truyền nhân minh luận, nói về phương pháp lý luận. Còn trong Tam Tạng Pali hầu như hòan tòan vắng mặt khi đề cập đến phương pháp lý luận.  Đạo Phật không xem chuyện lý luận dẫn người ta đến sự thấu hiểu chân tướng của vạn pháp mà Đạo Phật nói đến một nội tâm, một nội tâm an tịnh, một nội tâm ổn cố, vững vàng. Và trên nội tâm được sáng, thiết lập đó, người ta có thể lãnh hội được những điều vi diệu mà chưa bao giờ được lãnh hội. Và chính vì điểm này mà chữ Panna nhiều khi chúng ta không có dịch là trí tuệ mà chúng ta âm là Bát Nhã vì chữ Panna đò hỏi một số định nghĩa tương đối rõ ràng trong Đạo Phật và những ý nghĩa này hết sức sâu xa.

Đức Phật ngài dạy chúng ta cần đặc biệt lưu ý ở đây là tâm tư của chúng ta không thể để bị già nua, trí tuệ của chúng ta không thể để già nua được. Già nua ở đây là sự cằn cỗi. Nền giáo dục hiện tại dễ dàng làm cho chúng ta thấy già nua, cằn cỗi. Bởi vì sao? Nền giáo dục nào làm cho chúng ta thượng tôn ngã tính của mình. Nền giáo dục nào làm cho con người chỉ biết đến cái lợi về vật chất mà không nhìn thấy cái lợi của tinh thần thì đều làm cho tinh thần già nua hết. Thái độ cởi mở, khả năng có thể lãnh hội, khả năng có thể thuần hóa ở một con người chính ở điểm trẻ trung mà Đức Phật nói. Trong rất nhiều đọan kinh qua sự gợi ý của Đức Phật người ta tìm thấy trẻ trung không phải với làn da, nét mặt mịn màng mà gọi là trẻ trung hay là với nội tâm liếng thoắng, lúc nào cũng vui vẻ gọi là trẻ trung.

Sự trẻ trung Đức Phật ngài dạy trong kinh chúng ta tìm thấy nó là khả năng như Khổng tử nói là học hoài không biết mệt. Thái độ học hoài không biết mệt là thái độ trẻ trung. Bỏi vì những người gìa không buồn cầm đến quyển sách và không muốn mình sẽ lắng nghe một điều gì. Nhưng rõ ràng trong kinh Đức Phật nói rằng, ngày nào chúng ta còn đến các vị Sa môn, Bà la môn, các vị thiện trí để hỏi rằng: Điều nào là thiện, điều nào là bất thiện. Đó là nhân sanh trí tuệ. Và điều đó cũng nói lên sự trẻ trung tâm hồn. 

Con người tại các quốc gia Tây phương, các quốc gia phát triển dồi dào về vật chất, phần lớn nghĩ rằng trẻ trung là cái gì đáng phải tha thiết, đáng được bám víu. Ngay cả những người lớn tuổi cũng không cho phép họ được già và không muốn ai nói đến tuổi già của họ. 

Nhưng điều này, khi ta đọc lại kinh Phật, nó không quan trọng. Quan trọng nhất là tâm hồn chúng ta có trẻ trung hay không? Tâm hồn trẻ trung ở đây không phải là thái độ đùa giỡn như trẻ con hay một thái độ vui tươi rộn rã. 

Tâm hồn trẻ trung ở đây là khả năng, tinh thần còn có thể học được, còn có thể hiểu được, còn có thể hấp thụ được. Nếu như chúng ta không có được điều đó thì giống như Đức Phật dạy: "người ít chịu học hỏi như trâu già lớn xác, bắp thịt thì nở nang nhưng trí năng cùn mạt". Chúng tôi có thể nói một cách không sai lầm, ngay cả trong đời sống căn bản nhất, nghĩa là đòi hỏi sự học tối thiểu nhứt, như một vị tỳ kheo xuất gia không cần pháp học mà chỉ thọ trì giới bổn. Thọ trì giới luật để trở thành một vị tỳ kheo thôi, thì trong Tạng Luật cũng là cả một kho tàng lớn. Trong Tạng Luật có nói đến những điều phạm tội, những điều giới mà những điều này phạm vì không biết, phạm vì không biểu, có những điều phạm vì biết, có những điều phạm vì không biết. Nói riêng về học giới thôi thì phải biết, phải học, nói gì ý lý cao vợi khác, không phải là một phần của đời sống cộng đồng tăng lữ. 

Nói chung thì phải có sống gần với kinh điển, tiếp xúc nhiều với kinh điển, chúng ta mới cảm kích được sự việc đó là trong Đạo Phật với kho tàng kinh điển đồ sộ và với những lời dạy Đức Phật đã nhấn mạnh cho thấy rằng chúng ta phải dành cho mình một cơ hội trong cuộc đời là đừng bao giờ để trí năng mình cùn mạt. Đừng bao giờ để cho đầu óc của mình ngưng lại, không phát triển nữa. 

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Một đứa nhỏ không ý thức, nó nghĩ rằng tạo ra niềm vui nhưng thay vì tạo ra niềm vui cho mình thì nó tạo ra sự đổ vỡ, tạo ra sự phiền toái cho người khác, và chính đứa bé cuối cùng bị quở phạt, đó là một hành động thiếu hiểu biết, đó là hành động nông nỗi phát xuất từ đầu óc nông nỗi. Ai trong chúng ta không khát vọng hạnh phúc, ai trong chúng ta không mong cầu được sự an lạc. "Lòng nào lòng vẫn thiết tha, cõi âm là thế huống là cõi dương" cụ Nguyễn Du khi viết bài "Văn tế thập loại chúng sinh" cụ cũng đã nói lên một cảm khái rằng ngay cả những người sống vất vưởng mà cụ gọi là ma là cô hồn thì những loài đó cũng khác vọng hạnh phúc, thì ý tưởng đó rất gần với kinh Phật khi chúng ta đề cập đến rằng chúng sanh thương mình hơn tất cả, chúng ta mong cầu hạnh phúc như là một niềm hy vọng bất tuyệt ở trong lòng của mỗi chúng sanh, tuy vậy trên con đường dẫn đến hạnh phúc, trên con đường thể hiện hạnh phúc đã làm cho chúng sanh trên đời này có khác biệt, và sự khác biệt đó được gọi là "Bàla" hay là "Pandita" sự khác biệt giữa kẻ "Ngu" và người "Trí".
TT Giác Đẳng - Kẻ ngu triền miên luân hồi - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

VẼ TÁNH


Ekichu, vị sư thứ 17 của chùa Thọ Phúc, nổi tiếng là một họa sĩ. Một hôm Nobumitsu đến gặp sư và hỏi sư có thể vẽ được hương thơm tả trong câu thơ nổi tiếng, “Qua hoa rồi, vó ngựa còn thơm”. Sư liền vẽ chiếc vó ngựa có bầy bướm vờn quanh.

Rồi Nobumitsu dẫn một câu khác, “Gió xuân mơn man thổi qua bờ sông”, và yêu cầu vẽ bức tranh gió nhẹ mơn man. Sư liền vẽ một cành liễu đong đưa .

Nobumitsu đọc lên câu nói lừng danh của Thiền, “Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Anh ta yêu cầu vẽ bức tranh về tâm. Sư lấy cây cọ quẹt nhẹ lên mặt Nobumitsu một vệt. Chiến sĩ ngạc nhiên và bực tức. Sư liền phác họa bộ mặt tức giận ấy.

Rồi Nobumitsu yêu cầu vẽ một tranh về tánh như trong chữ “thấy tánh”. Sư bẻ gãy cây cọ, nói:

- Đó là bức tranh.

Nobumitsu không hiểu và sư bảo:

- Nếu anh không có con mắt thấy đó thì anh chẳng thấy được.

Nobumitsu nói:
- Hãy lấy cây cọ khác vẽ tánh đi.

Sư bảo:

- Hãy chỉ tôi thấy cái tánh của anh rồi tôi vẽ cho.

Nobumitsu không lời để nói.

Chuyện xưa tích cũ - TÍCH CHÙA LONG GIÁNG

TÍCH CHÙA LONG GIÁNG

Tác giả: Sơn Nam & Tô Đình Nguyệt

Ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Long Giáng là một nơi thắng cảnh. Tục truyền rằng đời vua Lý Nhân Tôn, Ngọc Hoàng muốn nhắc nhở nhà vua tu thân theo đạo Phật. Bấy lâu nay vua quá bê bối về việc nước.
Ngọc Hoàng khiến một nàng tiên nga giáng xuống đầu thai, lấy tên là Văn Khôi công chúa. Lớn lên công chúa nhan sắc lộng lẫy. Vua Lý Nhân Tôn bèn truyền rao kén phó mã, công chúa bực mình, lén trốn ra khỏi cung điện, tìm đức Cao Huyền hòa thượng mà quy y.
Hay tin ấy, vua cho quan quân rước công chúa về. Công chúa không chịu. Vua nổi giận, ra lệnh đốt chùa để giết công chúa luôn. Nhưng bỗng nhiên có con rồng vàng hiện ra phun nước chữa lửa.
Nhà vua tỉnh ngộ, ăn chay nằm đất để tạ tội và xuất của kho tu bổ ngôi chùa ấy. Mãi đến ngày nay, chùa lấy tên là Long Giáng để ghi nhớ điều ấy.

Chuyện cười trong ngày

Thương người

AD đi thi nữ sinh thanh lịch. Giám khảo hỏi: Em tự thấy mình có ưu điểm gì?

AD: Dạ, em thấy em có lòng thương người...

Giám khảo: Cụ thể ra sao, em nói nghe coi?

AD: Dạ, cứ bạn nam nào nói thương em, là em thương lại liền hà!

Sunday, July 27, 2014

Ngày 27-7-2014 Khởi Nguồn Chánh Pháp


Nhớ xưa ước hẹn bằng lời
Bây giờ ánh đạo rạng ngời trong tâm
ĐỨC PHẬT VÀO THÀNH VƯƠNG XÁ ĐỘ VUA BIMBISARA. VỊ VUA DÂNG CÚNG NGÔI CHÙA ĐẦU TIÊN CỦA PHẬT GIÁO, TỨC TRÚC LÂM TỊNH XÁ (VELUVANA VIHĀRA).
Tranh: Global Pagoda Chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
© Copyright 2010 Phap Luan Buddhist Cultural Center

Phật Học Vấn Đạo - Chữ suy tầm (vitakka) phải chăng là "sự miên man" của tâm ?

Hỏi: Chữ suy tầm (vitakka) phải chăng là "sự miên man" của tâm ?

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 12-6-2014, Minh Hạnh chuyển biên)



TT Giác Đẳng: Thật ra trong đời sống của chúng ta ai cũng có ít nhiều sự chi phối trên phương diện này hoặc trên phương diện khác. Nhưng, nếu chúng ta thường nghĩ về điều gì, chúng ta thường miên man về điều gì và điều đó nó làm bận lòng, nó cứ lập đi lập lại, nó cứ là một cái gì đó da diết ở trong lòng. Thì về điểm đó chúng ta nên để ý không khéo thì nó trở thành một thứ suy tầm mà suy tầm này nó ăn sâu vào trong lòng thì nó chi phối sự tu tập. 

Một hành giả khi bước vào đời sống tu tập càng bớt đi những chi phối thì đỡ hơn. Nhưng  dù sao đi nữa bản thân của chúng ta vốn có thói quen bị chi phối bởi những điều đó. Chúng tôi nhớ có những người Phật tử họ rất nặng về xã giao, đi đâu cũng xã giao kể cả lúc vào trường thiền, họ rất quan trọng hóa là mua món quà để cúng dường cho vị thiền sư, để tặng cho nhà bếp, và hầu như họ muốn cả trường thiền dành thiện cảm cho họ. Thì nhìn ở bên ngoài có vẻ như điều đó rất tốt là một người đi đâu cũng có tính trước tính sau nhưng trên phương diện khác có nhiều khi một người họ đặt quá nặng là những người chung quanh nghĩ về mình, muốn cho những người chung quanh dành thiện cảm cho mình, riêng trong trường hợp một vị thiền sinh thì điều đó là một sự ngăn ngại.

 Một lúc nào đó tu tập mình chỉ tập trung vào sự tu mà thôi. Hay hoặc giả một điểm chúng ta thường gặp đó là trong đời sống khi mình làm việc gì đó mình hay bị cấn cái về chuyện những người chung quanh họ nghĩ sao về mình, mình làm việc đó không biết họ thương mình hay họ có cảm tình với mình hay không. Về việc này làm cho mình quá quan trọng, mình quá nặng về sự đánh giá của người khác đối với mình và mình quên đi việc chính của mình làm là tìm một chỗ thanh vắng ngồi xuống tập trung vào hơi thở. Thì rõ ràng trong cuộc sống của chúng ta ai cũng bị chi phối bởi thị dục huyển ngã, tức là một cái nhìn của người khác nghĩ sao về mình. 

Một chuyện khác chúng ta thấy cũng ảnh hưởng rất nặng ở trong các trường thiền về điểm này, chúng tôi gặp không ít là có nhiều Phật tử vô trường thiền họ hay có tâm thật là hoan hỉ vị sư này, hoan hỉ người Phật tử kia tu tập có vẻ tiến bộ. Chúng tôi không biết các vị có đánh giá đúng hay không tại vì mình vào trường thiền đâu biết ai làm sao nhưng thường thường khi gặp nhau mà thấy vị nào có vẻ như tập trung nhiều hay nhìn ở bên ngoài thì có vẻ như thu thúc nhiều thì qúi Phật tử hay hoan hỉ và đây cũng là cái trở ngại cho các vị tu tập. Trong những giờ phút đi hành thiền nó không phải là giờ phút để cho chúng ta đánh bóng hào quang của vị nào đó hay là cho vị nào đó cảm giác là mình tu hay, hoặc vị đó cảm giác được hâm mộ, không có chuyện gì để hâm mộ trong trường thiền  hết, mọi người vào đó tu tập thì cứ tu tập.

 Chúng tôi có nói chuyện với Ngài Gunaratana, Ngài là người lập ra trường thiền Bhàvanà Society, Ngài chia sẻ với chúng tôi một điểm là những thiền sinh người Mỹ xem ra đôi khi họ vô tư với sự tu tập, thí dụ như họ lên trường thiền ai tu sao cũng được nhưng thiền sinh Á Châu đặc biệt là thiền sinh Việt Nam thì mới vô trường thiền không có lo tu mà cứ để ý xem vị nào tu cao, vị nào tu chính chắn, thậm chí vị nào tu đắc thiền đắc đạo thì mình hâm mộ hơi nhiều. Hâm mộ hơi nhiều tức là mình có thái độ có sự phản ứng có sự đánh giá nặng về  việc đó và ở chỗ đó không phải là chỗ để chúng ta làm như vậy, cái tốt nhất trong trường thiền là mình vào trong đó thì mình hiểu rằng mình nên tận dụng thì giờ qúi báu cho mình và tận dụng thì giờ qúi báu cho người khác. 

Ngay cả qúi Phật tử đi làm việc thì nhiều khi chúng tôi thưa rằng mình làm việc ở trong một lớp sinh hoạt như vầy thì tất cả qúi vị nên hiểu rằng Chư Tăng mỗi vị giảng sư có cách giảng bài khác nhau và cũng có một số vị thích hợp với vị này thích hợp vị kia. Nói chung là nhờ có tất cả các vị giảng sư một chương trình sinh hoạt Phật Pháp như lớp Phật Pháp Buđdhadhamma mới duy trì được, nhưng có một số vị thì không nghĩ như vậy, thường nói người này hay người kia dở, mình thích nghe vị này không thích nghe vị kia và khen vị này chê vị kia. Cái đó là chúng ta không có nhìn đại sự không nhìn cái chung, mình phải nhìn cái chung điểm như vầy là nhờ có tất cả Chư Tăng, có vị này vầy vị kia khác nên chúng ta mới duy trì được. Phật tử đi chùa cũng vậy, Phật tử đi chùa thì mình nói như 10 ngón tay có ngón ngắn ngón dài, có vị rất giỏi về việc này, có vị có sở trường về việc kia, có vị có tánh hạnh này, có vị có tánh hạnh kia, rồi có nhiều người vô chùa cứ chê người này khen người kia. Cái cuộc sống chung không phải là như vậy mang lại cho chúng ta sự an lạc, mà điều mang lại cho chúng ta sự an lạc là chúng ta nói rằng làm sao chúng ta có thể bao dung, làm sao chúng ta có thể chấp nhận được với nhau, chấp nhận được cả cái ưu và cái khuyết và làm sao chúng ta có thể tiếp tục tồn tại, tiếp tục hổ trợ, tiếp tục nương tựa nhau, chứ không phải là mình vẽ lằn ranh mình đánh giá vị này cao vị kia thấp, vị này mình thích vị kia không thích, những việc đó nó ảnh hưởng đến cuộc sống chúng ta rất nhiều. Nhưng người khác đánh giá không có quan trọng cái quan trọng là với một người tu thì cái tâm mình đừng để cho chuyện đó làm lớn chuyện ở trong cuộc sống của mình.

Chúng tôi sống trong chùa có nhiều khi gặp một số qúi Phật tử qúi vị rất ưa chuộng vị này không ưa chuộng vị kia thì gặp chuyện đó mình cũng cười thôi. Bởi vì sao vậy? Bởi vì sự suy nghiệm của chúng tôi như vầy: Ở trong kinh Đức Phật Ngài dạy mình có ba sự quán chiếu về ba khía cạnh về sự việc trong đời sống đó là vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly. 

- Có nhiều khi mình nghĩ nhiều của vị ngọt, thí dụ danh có vị ngọt của danh, lợi có vị ngọt của lợi, mình nghĩ thì mình hoan hỉ.
- Nhưng mà nghĩ đến sự nguy hiểm thì chúng ta mới thấy là dễ sợ, mình nghĩ sự nguy hiểm đó thì mình mới thấy điều đó nó chi phối tâm tư chúng ta thế nào. Thí dụ như là bây giờ mình được một sự tôn trọng, được một cái học vị, được một chức quyền gì đó. Không biết nó mang lại cho mình bao nhiêu hạnh phúc nhưng mà khi mất cái đó thì con người mình điên đảo. Chúng tôi đã từng tiếp xúc và từng nhìn thấy việc đó và mỗi lần nhìn thấy những sự đó bằng mắt của chính mình bằng sự tiếp xúc của chính mình thì mình mới thấy rằng lời của Đức Phật dạy rất là thâm thúy là tại chúng ta quên lời  Đức Phật dạy thôi. Có một lần Đức Phật Ngài nửa đêm Ngài nghe tiếng con dã can nó tru nó tréo thì Đức Phật hỏi Chư Tỳ Kheo: 
- "Này Chư Tỳ Kheo, các con có nghe tiếng của con dã can không?"

 Thì Chư Tỳ Kheo nói: 
- "Dạ Bạch Đức Thế Tôn, có".

 Đức Phật giải thích là nó là con dã can già, nó bị ghẻ, và trời đêm về làm cho da nó khó chịu, nó nhức nhối khó chịu. Thì Đức Phật dạy rằng:
- "Này Chư Tỳ Kheo, một người mà bị chi phối bởi danh, bởi lợi, thì khi họ gặp sự mất mát họ phiền muộn thì ăn không ngon, ngủ không yên bị chi phối giống con dã can đó vậy". 

Thì hình ảnh đó rất là tội nghiệp. Cuộc sống của chúng ta, mình không biết cuộc đời họ khen mình hay cái danh vọng nó đánh bóng mình, mình được cái gì nhưng khi mình không được thì mình khổ, rất là khổ, khổ đến đỗi mà dở sống dở chết, ăn không ngon, ngủ không yên. Thì đời sống chúng ta khổ quá. Khi mình nhìn thấy những sự nguy hiểm như vậy thì mình thấy rằng mình nên tập trung vào cái gì đó nó có lợi lạc hơn ví dụ như mình bỏ thì giờ đọc bài kinh bỏ thì giờ ngồi thiền bỏ thì giờ làm việc Phật sự. Khi mình làm thiện sự làm Phật sự nó không làm cho mình buồn. Đúng ra thiện pháp từ trong đời sống nếu mình làm là mình có phước. Chúng tôi lấy thí dụ như một ngày chúng ta có hai giờ chúng ta ráng tinh tấn vào đây để cùng nhau đọc lời Phật ngôn để nghe pháp để suy nghiệm lời Đức Phật dạy sau đó không có cái gì hết, sau đó không còn cái gì hết, nhưng chúng tôi bảo đảm với qúi vị như vầy là cái việc này không mang lại cho chúng ta sự phiền não hết rồi thôi, mình nghe pháp có những đạo lý mình nghe đi vào trong lòng mình an lạc rồi sau đó rồi thôi. Thì chúng tôi rất là tin một điểm là nếu mà tìm cái sự an lạc nào thì nên an lạc trong thiện sự và nhẹ nhàng nhưng nếu chúng ta thấy được cái nguy hiểm của những cái gọi là tranh danh đoạt lợi thì lúc bấy giờ mình mới thấy là cái đó nó đáng sợ.

 Khi nãy TT Pháp Đăng cũng có đề cập đến một việc là một vị tu sĩ gắng bó với một Phật tử nhiều. Chúng tôi cũng thấy ngày nay có nhiều vị tu sĩ  có khuynh hướng thường đến nhà Phật tử ăn dầm nằm dề rồi muốn có quan hệ mật thiết với một Phật tử nào đó rồi muốn có chia sẻ. Thì thật ra Đức Phật nói điều đó bất xứng, nó không có xứng đáng với đời sống xuất gia. Tại vì sao vậy? Vì mình đi xuất gia tức là mình muốn có một cõi rộng thênh, mình muốn có một thế giới thông thoáng với một phương trời cao rộng, bây giờ mình trở về một nơi hạn hẹp một gia đình nào đó vui với họ buồn với họ theo từng nhịp thở. Thật ra điều đó chúng ta bỏ một đại dương mênh mông chúng ta trở về cuộc sống ao tù thì chúng tôi nghĩ rằng quan hệ tương đối thì được nhưng mà quá gắng bó quá liên hệ đến đỗi mà phải lo cái lo của họ, phải buồn cái buồn của họ, phải thăng phải trầm lên xuống theo cuộc sống của họ, thì thật ra khi chúng ta không ý thức được điều đó thì chúng ta đánh hỏng đi mục đích chân thực của cuộc sống tu tập. 

Ở đây không có nghĩa là Đức Phật Ngài dạy chúng ta sống vô tâm, sống thì chúng ta nên có quan tâm nhưng mình hiểu một chuyện là nó có một chừng mực cần thiết để làm thế nào đó mà người xuất gia có thể tiếp tục đi tới với đời sống tu tập của mình. Chuyện đó không phải dễ. Rất là khó. Chẳng những khó mà đôi khi chúng ta phải đặt lại hoàn toàn  quan niệm của chúng ta về việc này. 

Và rồi chúng tôi cũng nhận thấy một điểm liên hệ đến sự miên man hay sự tư duy của chúng ta là trong những khuynh hướng cố hữu chúng ta muốn cái này muốn cái kia, mình cứ nghĩ đi nghĩ lại hoài việc gì đó thì đôi lúc mình cần có những sinh hoạt chung, gọi là tập thể với anh em với hội chúng, sống ở trong chùa vị nào mà cứ giam mình hoài ở trong phòng, vị nào mà cứ lo việc cá nhân mình hoài sống ích kỷ hoài thì không nên. Mình đi tu thiền cũng vậy, nhiều khi con người mình có những lúc mình nên quên chính mình là ai, "xin cho mình  là một cái cây nhỏ bé trong một khu rừng", "là một hạt cát ở trong một bãi cát mênh mông" như vậy sống cũng được quan trọng là chúng ta làm sao mà chúng ta sống hoà mình, cái sự hoà mình với mọi người là người ta làm được thì mình làm được người ta sống sao thì mình sống vậy, để làm gì, để những giây phút nào đó mình quên đi chính bản thân của mình thì nó nhẹ nhàng cho mình. Người Tây Phương họ nói "cái tôi thật đáng ghét". Thật ra thì chúng ta không lên án "cái tôi" đáng ghét nặng nề, kiểu mặc cảm, nhưng phải nói rằng một người cả ngày từ sáng đến chiều nghĩ về "cái tôi" làm sao cho tôi thế này làm sao cho tôi thế kia, nghĩ riết rồi làm cho mình quẫn trí, mình thấy con người ai sống nghĩ "cái tôi" hoài thì khổ. Một lúc nào đó mình nên làm cái gì đó mà không nghĩ đến "cái tôi", thí dụ như mọi người cùng làm thì mình làm, mọi người cùng gánh vác thì mình ra phụ một tay rồi mình cùng nhau để chia sẻ cái này chia sẻ cái kia, cái hoà mình đó nó giúp cho chúng ta vượt khỏi cái tháp ngà vượt khỏi cái thị dục huyễn ngã của chúng ta cho dù nhất thời nó cũng rất là lợi lạc.

Đó là vài lời của chúng tôi trong câu thảo luận số 4 là chúng tôi nghĩ sự suy tầm chúng ta có thể bắt nhịp như là cái sự chúng ta có thể nghĩ nó như là sự miên man, quá nghĩ, quá dính mắc, quá hướng về cái gì đó thì điều đó đôi khi chúng ta phải đặt lại vấn đề ./. 



Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Có nhiều khi người ta làm lớn chuyện về xác của con người, nhưng Đức Phật Ngài nói rằng khi tâm thức lià bỏ thì thể xác này như một khúc gỗ mục mà thôi.  Cuộc đời nó là như vậy.  Thân của chúng ta chao chuốt cho nhiều, rồi nghĩ về nó cho thật là nhiều, nhưng rồi cuối cùng khi chúng ta đối diện với nó thì chúng ta thấy rằng nó thay đổi biến dịch theo thời gian.  Thì phải nói rằng hằng bao nhiêu bài học lớn trong cuộc sống mà chúng ta không thể dễ dàng để tiêu hoá.

TT Giác Đẳng - Xác thân khổ lụy - Minh Hạnh chuyển biên


Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

TỈNH NGỘ



Thiền sư Setsugen nói với đệ tử là Jijo, “Nếu ông chuyên tâm tọa thiền bảy ngày bảy đêm không gián đoạn mà không ngộ, thì cứ cắt đầu tôi lấy sọ làm đồ chứa phân.”


Sau đó không bao lâu, Jijo bị bệnh kiết lỵ, liền lấy một cái thùng nhỏ mang đến một chỗ biệt lập chẳng ai đến. Jijo ngồi trên thùng chú tâm thiền định.


Jijo ngồi trên thùng bảy ngày liền, đến một đêm bỗng nhiên cảm thấy cả trời đất giống như cảnh tuyết dưới ánh trăng sáng ngời và toàn thể vũ trụ trở nên quá nhỏ hẹp, không thể chứa được mình.


Jijo nhập vào trạng thái này trong thời gian khá lâu cho đến khi nghe một âm thanh làm giật mình thức tỉnh. Toàn thân Jijo toát mồ hôi, cơn bệnh cũng biến mất. Jijo làm một bài kệ kỷ niệm:




Cái gì đây mà lung linh, sáng tỏ?


Mất tiêu liền trong nháy mắt lầm qua.


Cạnh cầu tiêu, chiếc mái dầm ngời sáng;


Rốt cuộc rồi, nó vốn là ta.

Chuyện Xưa Tích Cũ - SAO HÔM SAO MAI

SAO HÔM SAO MAI

Tác giả: Sơn Nam & Tô Đình Nguyệt

Anh tiều phu nọ đến suối thình lình gặp một bầy Tiên đang tắm. Tiên vội khoác quần áo bay về trời, còn sót lại một cô bay không được vì quần áo của cô bị anh tiều phu giấu. 

Nhờ vậy, anh tiều phu bắt cô Tiên nọ đem về làm vợ. Anh giấu bộ quần sao nọ thật kỹ dưới đáy bồ lúa, sợ vợ thấy được, ăn cắp bay về trời. 

Họ sanh được đứa con trai. Hôm nọ anh tiều phu vắng nhằm lúc ở nhà có người đến mua lúa. Khi xúc lúa tới đáy bồ, bộ xiêm y lòi ra. Vợ hết sức mừng, mặc vào rồi nói lại với đứa con: -Mẹ đây cốt Tiên, không thể nào ở mãi dưới trần thế được. Con đừng buồn. Mẹ để lại cho con cái lược này làm dấu tích. 

Dứt lời, nàng bay mất. Anh tiều phu về, hay được sự tình, ngã lăn ra khóc lóc, bất tỉnh nhân sự. Từ đó, ngày này qua ngày khác, anh dắt con ra suối tìm hình dáng người xưa. 

Suối đó vốn thiệt là suối Tiên. Khi về được nơi tiên giới rồi, nàng Tiên nọ không dám trở lại nữa, nên sai Ngọc Nữ xuống múc nước thế cho mình. Bữa đó hai cha con anh tiều phu gặp hai cô gái đang múc nước tại suối. Anh hỏi han tin tức nàng Tiên, hai cô trả lời không biết. Trong lúc nói chuyện qua lại, đứa con anh làm rớt cây lược vào trong hũ nước. Chừng đem hũ nước về tiên giới, nàng Tiên nọ nhận ra đó là chồng con mình đến suối để tìm. Nàng nói: -Ngọc Nữ hãy đem cái khăn này xuống cõi trần, bảo anh tiều phu và đứa con nít bịt nó ngang đầu. Khăn phép này sẽ giúp họ đằng vân về đây. 

Anh tiều phu làm y theo lời. Quả nhiên đến cõi Tiên gặp mặt vợ, Sau phút sum họp, nàng Tiên nói: -Ta là Tiên, Chàng là khách tục, Hai ta không thể nào sum họp được. Hôm nay chỉ tạm gặp mặt nhau. Rồi đây phải từ biệt. Truyện "Chuyện Xưa Tích Cũ " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Nàng Tiên bèn thết tiệc rồi bảo chồng và con lên ngồi trên một cái trống lớn có cơm đem theo để ăn dọc đường. Trên này có dây thòng xuống. Khi nào đến mặt đất thì anh phải đánh trống lên để trên này biết chừng mà chặt đứt dây. 

Trống nọ thả xuống tòn ten giữa trời. Bỗng nhiên có con quạ thấy đứa bé đang ăn cơm nên bu lại mổ vào cơm. Trống kêu lên “tung tung.” Trên này, ngỡ là chồng và con đã xuống tới đất, nàng Tiên chặt đứt dây, hai cha con anh tiều phu nọ phải té xuống biển mà chết. Truyện "Chuyện Xưa Tích Cũ " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Từ đó, có sao Hôm và sao Mai mọc. Sao Hôm là anh tiều phu, sao Mai là nàng Tiên nọ. Họ không bao giờ gặp nhau. Đứa con trai thì hóa ra sao Đòn Gánh ở khoảng giữa mà ngóng cha trông mẹ.

.

Chuyện cười trong ngày

Có lý

Mác Xlê-pho, một hoạ sĩ nổi tiếng tâm sự với bạn bè về lý do mình chọn ngành hội hoạ:


-Tôi chọn ngành này từ năm 11 tuổi. Thoạt đầu tôi muốn trở thành ca sĩ, nhưng suy đi nghĩ lại, tôi thấy nếu ca sĩ mà bị mất giọng thì xem như tan đời. Còn hoạ sĩ nếu có mất ... bút vẽ thì chỉ có việc chạy ra ngoài phố, nhoáng cái là mua được cây khác rồi. Và thế là tôi quyết định

Saturday, July 26, 2014

Ngày 26-7-2014 Khởi Nguồn Chánh Pháp

Bao đồ tuế nhuyễn thả trôi
Như bao lầm lạc buông rơi theo dòng
NHỮNG ĐẠO SĨ NHÓM URUVELA XUẤT GIA THEO PHẬT QUĂNG BỎ TẤT CẢ PHÁP KHÍ PHÁP CỤ THEO DÒNG SUỐI KHIẾN CÁC ĐẠO SĨ HẠ NGUỒN THẮC MẮC. RỒI TẤT CẢ ĐỀU THÀNH ĐỆ TỬ PHẬT.
Tranh: Global Pagoda Chú thích: Tỳ kheo Giác Đẳng
© Copyright 2010 Phap Luan Buddhist Cultural Center

Phật Học Vấn Đạo - Một người tu tập nên tránh 3 điểm : thích nói, thích đa đoan, và thích ngủ nghỉ

Hỏi: Một người tu tập nên tránh 3 điểm : thích nói, thích đa đoan, và thích ngủ nghỉ

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 11-6-2014, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Có lẽ chúng ta dễ dàng thấy một khi chúng ta hạ thủ công phu dùng hết thì giờ cho một việc gì đó thì chúng ta rất cần sự tập trung. Nói đến sự tập trung, quan trọng nhất chúng ta biết qúi thì giờ. Đối với một người tu tập, thái độ hoang phí thì giờ hoặc giả làm những việc không cần thiết nói theo danh từ của người đời gọi là "rảnh quá". Khi rảnh quá chúng ta sanh ra thích nói chuyện, thích bày vẽ lăng xăng chuyện này chuyện kia. Khi ở trong đời sống mình có mục đích rõ ràng thì mình cũng thư giản nhưng mình cũng không đến đỗi phí phạm thì giờ. 

Trong kinh Đức Phật Ngài dạy căn bản một người tu tập hướng cầu giác ngộ giải thoát và mang ánh sáng Phật Pháp cho chúng sanh đó là hai điều Đức Phật Ngài muốn các vị tu sĩ làm. 

Dĩ nhiên ngày hôm nay có rất nhiều vị cảm thấy rằng mình không có tự tin ở trong việc đó. Không có tự tin vào chuyện tu tập tức là nghĩ rằng chuyện tu tập không đi đến đâu, nghĩ rằng mình không có tự tin trong việc mình đem Phật Pháp đến cho người khác, mình nghĩ rằng có những việc khác tốt hơn qúi hơn để mà làm.

 Chúng tôi thưa với qúi Phật tử mỗi khi chúng tôi ngồi nhìn lại công việc chung, chúng tôi thường có một ao ước nếu tất cả những vị tu sĩ đều có một mục đích chung là đem Phật Pháp đến cho Phật tử, tha thiết với chuyện phát triển Phật Pháp thì mang lại cho cộng đồng Phật giáo ngày nay rất đẹp. Nhưng ngày hôm nay chúng ta phải nhìn nhận rằng có một số các vị làm chễnh mãng trong công việc này vì lý do các vị không nghĩ rằng việc đó cần. Ngay cả một số các vị lên chùa tu thì chỉ có mặc áo tu như vậy nhưng thích những việc như bói toán hay thích thần quyền thích việc này việc khác, không có thích chuyện Phật Pháp. 

Thì việc xao lãng đó cho chúng ta thấy:
- 1. Một là chúng ta không có ý thức rõ giá trị của đời sống ngắn ngủi này.
- 2. Thứ hai là chúng ta không thấy rõ giá trị của Phật Pháp.
- 3. Và điều thứ ba là chúng ta thật sự không thấy rõ được mục đích của đời sống. 

Do chúng ta không thấy rõ ba ý nghĩa đó nên chúng ta lang man tức là đi chỗ này chỗ kia. Một người thấy được rõ mục đích của đời sống thì không chộn rộn như vậy. Chúng  tôi sống ở ngoài quốc gia kỹ nghệ như Hoa Kỳ, người Hoa Kỳ họ có một tiêu chí rất rõ ràng trong đời sống đó là làm sao mình đi làm để mưu sinh để sinh nhai, và họ phấn đấu rất nhiều cho công ăn việc làm. Nhưng mà rồi khi có dịp đi về  những quốc gia nghèo, tỷ lệ thất nghiệp quá đông thì thường thấy có một số người dân không phấn đấu chỉ la cà thôi sống qua ngày và đời sống họ không có một tập trung nhất định. Kế tiếp là với một người tu sĩ hay bất cứ người tu tập nào không thấy giá trị của đời sống, không thấy có giá trị của Phật Pháp và không có mục đích hay tiêu chí rõ ràng ở trong đời sống thì chúng ta thường đi vào chỗ phí phạm và 3 điểm này lâu ngày nó trở thành một thói quen, trở thành một cái tật, nói một cách rõ trong kinh gọi là thường thân y duyên mà chúng ta nói bên ngoài là cái thói quen.

Cái thói quen ở đây là: thích nói, thích đa đoan, và thích ngủ nghỉ. 

Sở dĩ Đức Phật đưa lên 3 điểm này là tại vì 3 điểm này nó thành nghiền, thành thói quen tức là làm như vậy nó trở thành một cái nếp sinh hoạt thành thói quen. 

Thí dụ có những người lúc nào cũng lăng xăn, lúc nào cũng làm việc. Làm việc là một điều qúi. Nhưng nếu mê công việc quá quên đi bổn phận của mình. Thí dụ ngoài đời qúi vị mê công việc mà quên người thân của mình hay quên đi bổn phận khác thì đó là điều không nên. Hay chúng ta quá mê công việc quên hẳn Phật Pháp, quên hẳn pháp học và pháp hành thì đó là điều không nên. Hay chúng ta quá mê công việc. Có những người thích bận rộn như vậy, có những người ngồi không yên. Chúng ta muốn thấy điều này thì đến các khoá thiền để dễ dàng nhận thấy rằng có những Phật tử rất thích lên chánh điện để ngồi nghe pháp và thực hành, nhưng có một số khác thì không làm như vậy, họ cũng muốn tham dự khoá thiền, hay khoá tu cũng hoan hỉ nhưng mà đến lại thích dọn dẹp nhà vệ sinh, dọn dẹp nhà bếp, lượm rác trước sân, rồi thích vào nhà bếp nấu ăn làm chuyện này chuyện kia, rồi các vị thiền sư lâu lâu cũng nhắc là cố gắng dành thì giờ lên ngồi thiền một chút thì các vị này không muốn. Ở trong chùa cũng có một số Phật tử như vậy, thích làm công quả, thích làm việc này việc khác nhưng không thích ngồi tụng kinh, không thích ngồi để nghe pháp, không thích ngồi tập thiền. Thì mình hiểu rằng con người mình làm việc nhiều quá nó cũng nghiền, khi người ghiền công việc thì tự họ nhận là mình lúc nào cũng phải nên bận rộn hết, bận rộn như vậy là hay là đúng. Nhưng kỳ thật sự bận rộn đó khi tham công tiếc việc có nhiều khi muốn tìm việc gì đó nhưng chúng ta không thể sống trong sự thanh tịnh được thì mình phải coi chừng. Nếu mình ghiền công việc quá mà không thể sống ở trong thanh tịnh được không hoan hỉ với sự thanh tịnh thì điều đó là có vấn đề là chúng ta ghiền công việc quá.

 Nói cũng vậy, có những người không nói không được lúc nào cũng phải nói, nói chuyện này sang chuyện khác thì người ghiền nói quá họ bị bịnh là nói nhiều quá thì nó gọi là ba hoa, nói nhiều quá thì thường nói sai nói có lỗi. Đời sống của chúng ta khi cần nói thì nói khi không cần nói thì mình giữ im lặng chứ không phải nhất thiết lúc nào cũng nói. Chúng tôi thấy điểm nhu vầy là có những người họ nói rất hay nhưng không phải là họ ham nói, nhưng có những người lúc nào cũng nói nhưng những người này bị cái bệnh ghiền nói và chuyện gì cũng nói và nói lâu ngày thì trở thành cái tật là ham nói. Chúng ta phải coi chừng cái ghiền nói đó nó trở thành cái tật.

Ngủ nghỉ cũng vậy. Ngủ để lấy sức, ngủ để mình có sức khỏe tỉnh táo thì chuyện đó nên. Nhưng có những người họ rất thưởng thức chuyện ngủ nghỉ, có chỗ nào đặt lưng xuống ngủ thấy nó sảng khoái nó sung sướng và cứ nằm nướng nằm ráng, không có nhu cầu ngủ nhưng cứ nằm ráng thì cái đó cũng là thói quen.

Thì ba điều ngày hôm nay chúng ta đề cập đến ở tại đây là ba thói tật cá nhân, thói tật đó nó làm cho chúng ta ghiền. Một khi chúng ta đã ghiền chúng ta đã ghiện rồi cái gì chứ ham làm việc, ham nói, ham ngủ nghỉ thì quả thật chúng ta làm trở ngại cho sự tu tập. Nên, nhất là những người hành thiền, là người tu tập chúng ta biết qúi trọng thì giờ chúng ta không phung phí như vậy, việc nào cần làm thì cứ làm nhưng mà rồi sau đó trở về lại với công việc căn bản của mình đó là sự tu tập. Việc nào cần nói thì cứ nói nhưng nói xong thì Đức Phật khuyên chúng ta nên thấy hoan hỉ trong sự thanh tịnh. Và ngủ nghỉ là chuyện đó cũng nên nhưng cái gì mà quá đà, quá đáng, nhiều quá thì không còn đẹp nữa. 

Chúng tôi mong rằng những điều này khi chúng ta bàn nó không làm cho chúng ta cảm thấy rằng mình bị nhột nhạt là mình bị đề cập đến và nếu cần điều chỉnh thì chúng ta cứ điều chỉnh và nó rất tốt cho đời sống tu tập của chúng ta. Và ờ đây chúng ta thấy những lời dạy của Đức Phật rất cụ thể Đức Phật Ngài không cần dạy những lời này nếu Ngài không thấy những điều đó không mang lại lợi ích cho chúng sanh và nếu chúng ta thấy lợi lạc thì quả là điều rất hoan hỉ ./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Ở vào tuổi nào đó trong cuộc đời của chúng ta thì trạng thái của nội tâm không đáng để ý, chúng ta chỉ đuổi bắt theo những gì mình muốn thôi. Lấy ví dụ mình thích thì đi chùa, không thích thì thôi, mình thích thì đọc sách, bất cứ loại sách gì, dầu sách đó có tốt hay không tốt, dầu sách đó lành mạnh hay không lành mạnh mình cũng đọc. Nhưng đến một lúc chúng ta thật sự đáng ngại với đời sống nội tại, bấy giờ một điều dễ dàng nhận thấy là trạng thái của nội tâm đó có một ảnh hưởng to lớn, ảnh hưởng đó có thể nói rằng hết sức dễ dàng để thấy.
Ví dụ như người xưa họ có câu nói rằng "kẻ sĩ mà ba ngày không đọc sách, xem gương thấy mặt xấu xí." Nếu đời sống của chúng ta trong một tuần lễ hay mươi ngày mà không nghe pháp, không đọc kinh, không đọc sách, không có những cuộc luận đàm một cách thú vị, mà cuộc sống trôi qua một cách tẻ nhạt, hay trôi qua một cách vô vị, thì tâm tư của chúng ta bấy giờ nó khác hẳn đi. Phải tinh tế, phải biết lắng nghe nội tại, phải biết lắng nghe đời sống nội tâm thì mới thấy đời sống khác biệt. Con người của chúng ta lúc nào mà bận rộn nhiều quá, bận rộn với công việc, chúng ta không có giờ phút để phản tỉnh, không có giờ phút để có thể lắng đọng tâm tư lại, để suy niệm những điều cao quí thì chất liệu tâm linh nó giảm thiểu đi. Thì từ quan niệm này chúng ta có thể hiểu một cách rộng hơn là nó có những phiền não nội tại, mà phiền não nội tại thì nung nấu.

TT Giác Đẳng - Kẻ ác bị phiền muộn - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

DẠY CON HỒI NÀO?


 Long Đàm Sùng Tín vốn người Hồ nam, là đệ tử của Thiền sư Thiên Hoàng Đạo Ngộ.

Long Đàm lớn lên trong cảnh nghèo, bán bánh ngọt để sống. Thiên Hoàng cho Long Đàm ở trọ trong một cái am nhỏ kế chùa sư. Để tỏ lòng biết ơn, mỗi ngày Long Đàm đem mười cái bánh ngọt biếu Thiên Hoàng.

 Mỗi lần như vậy, Thiên Hoàng đều cho trở lại Long Đàm một cái bánh và nói:

 - Cái này từ con mà đến, chúc con sau này có nhiều cháu.

Lấy làm lạ, một hôm Long Đàm hỏi:

- Tại sao mỗi lần con biếu thầy bánh, thầy cũng cho lại con một cái?

Thiên Hoàng đáp:

- Con cho ta, ta lại cho con, có gì chẳng đúng?

 Nghe câu này, Long Đàm tỉnh ngộ và quyết định gia nhập tăng gìa và theo Thiên Hoàng tu học. . .

 Một hôm Long Đàm hỏi Thiên Hoàng:

- Con đã ở đây ba năm, tại sao hoà thượng chẳng dạy con điều gì?

 Sư đáp:

 - Từ ngày con ở đây, ta không dạy con điều gì sao?

 Long Đàm hỏi:

- Hòa thượng dạy con hồi nào?

 Sư nói:

- Khi con đưa trà thì ta nhận lấy. Khi con đem cơm đến thì ta ăn. Khi con lễ bái thì ta gật đầu. Có khi nào ta không dạy con đâu?

 Trong lúc Long Đàm suy nghĩ, sư tiếp:

- Muốn thấy, cứ nhìn thẳng xuống là thấy ngay. Nếu nghĩ ngợi ắt hỏng.

 Ngay đây, Long Đàm liền ngộ .