Wednesday, February 19, 2014

Chuyện Xưa Tích Cũ - HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA VÀ HAI CHÂU Ô, LÝ

HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA VÀ HAI CHÂU Ô, LÝ

Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Vào thời vua Trần Nhân Tôn truyền ngôi cho con là Trần Anh Tôn,rồi lên núi Yên tử tu hành. Thường ngày Trần Nhân Tôn hay đi ngao du sơn thủy. Có lúc lại du hành vào đến tận phần đất của Chiêm Thành. Lúc đó, vua Chiêm là Chế Mân đang trị vì, vốn biết người khách tu hành ngao du sơn thủy kia là Thượng hoàng hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. 

Sau đó, vua Chiêm sai một đoàn sứ giả hơn một trăm người đem vàng bạc, châu báu, trầm hương sang Đại Việt dâng lễ cầu hôn. Vua Trần và triều thần không chấp thuận, chỉ có ông Văn Túc Đạo Tái là chủ trương nên gả. 

Việc tưởng không thành, nhưng vua Chế Mân luôn trong năm năm sai sứ dâng lễ vật, nhắc lời hứa Thượng hoàng Nhân Tôn và xin làm rể nước ta. Chế Mân lại thuận đem hai châu Ô, Lý làm cống lễ, bấy giờ vua Trần mới chấp thuận. 

Huyền Trân công chúa về làm hoàng hậu nước Chiêm Thành được một năm thì Chế Mân chết, thái tử nước Chiêm phái sứ giả sang nước ta dang bạch tượng và cáo về việc tang. 

Theo tục lệ Chiêm Thành, hễ vua mất thì hoàng hậu, cung phi đều phải lên giàn hỏa, hỏa táng theo vua. Vua Trần Anh Tôn biết rằng Huyền Trân công chúa sẽ bị hại, nên mật sai võ tướng Trần Khắc Chung dẫn một đám tùy tướng nói thác rằng sang Chiêm quốc điếu tang, kỳ thật để lập mưu cứu Huyền Trân công chúa đem về nước. 

Khi đến kinh thành Đồ Bàn, Trần Khắc Chung nói với thái tử Chiêm rằng: -Bản triều sở dĩ kết thân với Chiêm quốc vì vua trước là Hoàng vương người ở Tượng Lâm, thành Điền Xung là đất Việt Thường: hai bên cõi đất liền nhau thì nên yên phận để hưởng hạnh phúc thái bình cho nên gả công chúa cho quốc vương. Gả như thế là thương dân chớ không phải mượn má phấn giữ trường thành đâu. Nay hai nước đã kết hiếu thì nên giữ lấy phong tục tốt. Quốc vương mất, nếu đem công chúa tuẫn táng 1 ngay thì việc tu trai không người chủ trương. Chi bằng theo tục lệ bản quốc, trước hãy ra bãi biển để chiêu hồn ở trên trời, đón linh hồn cùng về rồi hỏa đàn sau. 

Lúc ấy,các cung nữ của Huyền Trân biết rằng công chúa sẽ bị hỏa táng, nhưng không biết làm cách nào để cứu công chúa. Nay thấy sứ giả Trần Khắc Chung đến, mới hát lên mấy câu ngụ ý cho sứ Nam biết mà lo liệu cứu công chúa: 

Đàn kêu tích tịch tình tang, 
Ai đem công chúa lên thang mà ngồi. 

Thái tử Chiêm quốc, nghe lời nói của Trần Khắc Chung có lý nên thuận tình, để cho công chúa Huyền Trân xuống thuyền ra giữa biển làm lễ chiêu hồn. Bấy giờ, Trần Khắc Chung bố trí đâu đó sẵn sàng, đem một chiếc thuyền nhẹ đợi sẵn ở giữa biển, đợi thuyền chở công chúa ra tới nơi, lập tức cướp công chúa sang thuyền mình, dong thuyền ra khơi nhằm phương Bắc lướt tới. 

Huyền Trân công chúa và Trần Khắc Chung gặp nhau chi xiết vui mừng. Họ là hai người tình cũ. Trai tài gái sắc ngộ cùng nhau thì còn gì đẹp đẽ hân hoan bằng. Bởi vậy họ kéo dài cuộc yêu đương trên mặt biển hơn một năm mới về tới Thăng Long. 

Đời sau, các văn nhân, thi sĩ cảm hứng về quãng đời lịch sử của Huyền Trân công chúa đã dùng lời thơ, điệu hát làm nên nhiều bài truyền tụng đến đời nay. 

Phần đông đều nhớ bài “Nước non ngàn dặm.”theo điệu Nam Bình, mà có kẻ cho rằng chính công chúa Huyền Trân đã soạn ra trên đường sang Chiêm quốc: 

Nước non ngàn dặm ra đi, 
Mối tình chi! 
Mượn màu son phấn, 
Đền nợ Ô, Lý. 
Xót thay vì, 
Đương độ xuân thì, 
Số lao đao hay duyên nợ gì? 
Má hồng da tuyết, 
Cũng như liễu hoa tàn trăng khuyết, 
Vàng lộn theo chì, 
Khúc ly ca, sao còn mường tượng nghe gì. 
Thấy chim hồng nhạn bay đi, 
Tình lai láng, 
Hướng dương hoa quỳ, 
Dặn một lời Mãn quân: 
Như chuyện mà như nguyện. 
Đặng vài phân, 
Vì lợi cho dân, 
Tình đem lại mà cân, 
Đắng cay muôn phần. 

Lại có bài thơ vịnh Huyền Trân công chúa: 

Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười, 
Vốn đà không mất lại thêm lời. 
Hai châu Ô, Lý vuông ngàn dặm, 
Một gái Huyền Trân của mấy mươi? 
Lòng đã khen ai lo việc nước, 
Môi son phải sống mãi trên đời. 
Châu đi rồi Châu lại về đó, 
Ngơ ngẩn trông nhau mấy đứa Hời. 

Trong dân chúng có những câu ca dao nói về Huyền Trân công chúa và hai châu Ô, Lý như vầy: 

Tiếc thay cây quế giữa rừng, 
Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo. 
Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, 
Đã vo nước đục lại vần lửa rơm.

--------------------------------
1 Tuẫn táng: chôn sống.

No comments:

Post a Comment