Monday, September 30, 2013

30-9-2013 Suy Niệm Trong Ngày


Phật Học Vấn Đạo - Đức Phật Ngài thuyết pháp có phải là do nhân cúng dường?

Hỏi: Đức Phật Ngài thuyết pháp có phải là do nhân cúng dường?

(Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, ngày 19-4-2013, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng giảng: Trước nhất Đức Phật Ngài đưa ra một câu hỏi và từ câu hỏi này Ngài muốn hỏi các tỳ kheo nghĩ như thế nào:

- Có phải là Đức Phật Ngài thuyết pháp là do nhân cúng dường vật thực, hay là do cúng dường y áo, hay là do cúng dường sàn toạ, hay là do sự thành bại hơn thua phải không?

Thì các vị Tỳ Kheo trả lời là 'không'.

Câu hỏi đó rất là đơn giản nhưng mà câu hỏi mở đầu đó Đức Phật Ngài đã ân cần nhắc cho Chư Tỳ Kheo biết rằng giá trị của chánh pháp nằm ở một chỗ cao qúi hơn là cái quan niệm nhân ngã bỉ thử hơn thua bình thường của chúng ta.

Thật ra thì khi chúng ta đọc đoạn đó nếu chúng ta suy nghĩ cho kỹ thì sẽ thấy rằng trong đời sống những điều như là kinh điển, giáo lý, tư kiến, thường dùng để làm lợi khí dẫn đến hơn thua. Chúng tôi không biết là qúi Phật tử đã có nhiều dịp lắng nghe những chuyện tranh tụng lời qua tiếng lại, thật ra nếu chúng ta nhìn thật kỹ thì đa phần ở trong đó chỉ là vấn đề cá nhân, chỉ là vấn đề hơn thua, chỉ là vấn đề nhân ngã bỉ thử ,mà nó không có một cái giá trị cao đẹp nào hết.

Một người Phật tử chân chính, một người hiểu Phật Pháp thì luôn luôn phải nhớ trong lòng phải tâm niệm rất là kỹ là Đức Phật Ngài thuyết pháp không phải là vì lợi lộc như là y áo sàn toạ thực phẩm và cũng không phải là vì sự thành bại, mà Ngài thuyết pháp chỉ thuần một điểm là vì lòng bi mẫn đối với cuộc đời. Lòng bi mẫn đó là gì? Là Đức Phật Ngài thấy chúng sanh khổ, Ngài thấy chúng sanh sống trong vô minh, Ngài muốn cho chúng ta chuyển mê khai ngộ, đó là lòng bi mẫn của Đức Phật.

Như vậy đó, một người vào đạo rồi sống trong đạo là người trước nhất phải có một cái nhìn rất chân xác về giá trị mục đích của giáo pháp. Nếu chúng ta đánh mất đi cái mục đích và giá trị đó thì chúng ta rất là dễ dẫn đến chỗ sai lạc. Ngày hôm nay chúng ta thấy đầy dãy những cuộc tranh luận mà đem Phật Pháp ra tranh luận, mới nghe thì lại tưởng như là tranh luận để được hưởng lợi lạc, tranh luận để biết hư thực nhưng trên thực tế thì sự tranh luận đó đánh mất đi mục đích của giáo pháp.

Chúng ta phải thường tâm niệm rằng giáo pháp Đức Phật giảng cho chúng ta là một giáo pháp rất cao qúi, giáo pháp đó được giảng không phải là vì Đức Phật Ngài muốn cái gì đó cho Ngài kể cả danh kể cả lợi kể cả hơn thua thành bại và giáo pháp đó Đức Phật Ngài giảng cho chúng ta thuần với mục đích là vì lòng đại bi của Ngài, Ngài thấy chúng sanh khổ chúng sanh vô minh Ngài giảng. Nếu chúng ta quên đi điều này thì chúng ta quên đi một điểm rất lớn của giáo pháp. Giáo pháp là để chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc chứ giáo pháp không phải là dùng để làm lợi khí để làm vũ khí miệng lưỡi để tranh chấp tranh tụng lẫn nhau.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Ngày thọ trì Bát Quan Trai giới là bản thân trở thành hành giả của Bát Quan Trai Gìới, tuy nhiên vì là ngày làm việc sợ e không được thanh tịnh và trong sạch lắm vì đi làm giờ giấc không được nhất định do đó thường thường thì qúi Phật tử vào ngày cuối tuần, và Chư Tăng cũng hoan hỷ trao truyền Bát Quan Trai giới cho vào ngày cuối tuần như thời giờ rỗi rảnh của qúi vị. Nhất là một cơ duyên rất đáng khích lệ và rất thù thắng đó là qúi vị có thể đến chùa sống ở chùa 24 tiếng, nếu được Chư Tăng hướng dẫn nữa thì quả thật là một ngày thanh tịnh vô cùng hoan hỷ, nhưng nếu không có Chư Tăng hướng dẫn thì qúi vị cũng tự hoan hỷ lấy hạnh tu cao của mình và đó là công đức vô lậu. Công đức tức là phước, có hai: hữu lậu và vô lậu.

Hữu lậu là những công đức mà qúi vị phát tạo trong cuộc sống như bố thí cúng dường, nhưng lẽ dĩ nhiên qúi vị thụ hưởng được ở trong vô số lượng kiếp về sau được năm cái hạnh phúc đó là: sắc thù thắng, thọ mạng lâu dài, và hạnh phúc tròn đầy, sức khỏe phi thường, và trí tuệ minh mẫn, ở trong vô số lượng kiếp mà tối thiểu cũng phải 500 kiếp sống về sau. Khi nghĩ đến những công đức mình có thể gặt hái được ở trong những kiếp lai sinh thì chúng ta cũng có phần hoan hỷ, nhưng phần hoan hỷ này có lẫn lộn với phiền não tức là vẫn còn tiếp tục tham sân si mạn nghi hỉ nộ ái ố dục lạc thất tình lục dục và ma vương vẫn còn chi phối chúng ta và con đường sinh tử luân hồi vẫn còn kéo dài, nhưng nếu ngày Bát Quan Trai Giới thì nhờ công đức hành trì Bát Quan Trai Giới đó tạo được một công đức vô lậu chứ không phải là hữu lậu. 

Vô lậu tức là công đức Bát Quan Trai Giới có khả năng trợ duyên hành giả thoát khỏi nguồn sanh tử luân hồi và đoạn trừ được tất cả những phiền não nghiệp chướng do đó công đức này vô cùng phi thường cao thượng thù thắng, nó rộng lớn cho đến đỗi ở trong kinh đưa ra một hình ảnh để thí dụ người nào đó có đầy đủ điều kiện có thể cúng dường tứ sự tức là y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc men cho Chư Phật mà ngự đầy trong vũ trụ này, tức là ở trong vũ trụ này Chư Phật ngự đầy hết mà cúng dường như vậy mỗi ngày, suốt cả một trăm năm của đời sống này, cúng dường như vậy cũng không bằng một 1/16 của công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới, thì qúi vị thấy công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới lớn tới mức nào. 

HT Thích Hộ Giác giảng "Ý nghĩa thọ trì Bát Quan Trai" - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

Thiên Đường 


Hai người bị lạc trong sa mạc. Họ sắp chết vì đói và khát. Cuối cùng, họ tới một bức tường cao. Họ có thể nghe tiếng nước chảy của một thác nước và tiếng chim hót từ phía bên kia. Ở bên trên, họ có thể nhìn thấy nhiều nhánh cây tươi tốt vươn qua bờ tường. Những trái cây trên cành trông ngon lành.

Một người tìm cách leo qua bức tường và biến mất xuống phía bên kia. Người kia, trở lại sa mạc để giúp đỡ những người lữ khách khác bị lạc tìm đường đi tới ốc đảo

Chuyện Xưa Tích Cũ - Ông Nguyễn Mại xử án


ÔNG NGUYỄN MẠI XỬ ÁN

 Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Ông Nguyễn Mại là một vị danh nho, quê quán ở làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sau khi thi đậu Hoàng Giáp, ông được bổ nhậm làm quan Án ở tỉnh Sơn Tây. 

Một hôm ông ra chợ thấy có người đàn bà hung tợn đứng chửi rủa ỏm tỏi. Ông hỏi nguồn cơn. Người đàn bà nói: -Ở xóm này, có đứa bất lương giật gà của tôi. Nhà tôi nghèo khó, đem gà ra đây bán lại bị nó ăn trộm. 

Ông Nguyễn Mại tụ họp dân chúng xung quanh truyền rằng: -Một con gà giá đáng là bao mà mụ này dám chửi rủa cả làng xóm. Vô phép quá! Vậy thì dân sự ở đây có quyền đánh mụ ta mỗi người một tát tai để trừng trị. 

Vì là lệnh trên, dân trong xóm phải tuân lời. Nhưng họ không nỡ đánh mạnh, chỉ tát tai mụ nọ nhè nhẹ cho có lệ. Sau rốt, có một anh chàng cung tay thoi vào hông mụ nọ thật mạnh, miệng thì chửi rủa. Ông Nguyễn Mại nói: -Quân hầu đâu? Bắt tên này. Hắn là đứa ăn cắp gà. Nghi ngờ gì nữa, có tịch thì nhúc nhích. 

Tên ấy thú nhận và xin đền lại con gà. 

Một lần khác, ông Nguyễn Mại đi dạo ngang qua chùa Sơn Vị, nghe trong chùa ồn ào vì một tiểu tăng nọ mất đồ vật tri hô lên. Ông Nguyễn Mại sai các sư nọ trong chùa lập đàn tràng để chạy đàn. Mỗi người cầm một cây phướng ở tay mặt, tay trái thì nắm chặt hột lúa. 

Ông nói: -Hễ ai gian tham, trộm cắp thì lát nữa hột lúa sẽ mọc trong tay. 

Bao nhiêu sư sãi, ni cô đều trầm tĩnh chạy đàn, riêng một tiểu tăng nọ cặp mắt láo liên, lâu lâu hé ngón tay ra để coi thử hột lúa. 

Ông tra hỏi thì tiểu tăng chịu tội.

Cổ Học Tinh Hoa

GIỮ LẤY NGHỀ MÌNH
Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa ba năm mới thành nghề. Trời đại hạn, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước. Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì trời mưa luôn mãi không ai dùng đến gầu. Bây giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như trước. Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung phục, không ai cần đến dù, anh ta xoay ra nghề đúc binh khí thì đã già quách rồi.

Úc Ly Tử thấy anh ta, thương tình, nói rằng:

-Than ôi, ngươi chẳng đã già đời mất rồi ư! Già hay trẻ không phải là tự người, là tự trời, điều ấy đã cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở trong. Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại vì lụt cả . Có người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy mùa, anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng được, thành ra anh ta kéo lại hoà cả mấy năm mất mùa trước. Cho nên có câu rằng: "Trời đại hạn nghĩ đến sắm thuyền, trời nóng nực nghĩ đến sắm áo bông", đó là một câu thiên hạ nói rất phải.

Lưu Cơ
GIẢI NGHĨA
Trịnh: Tên nước chư hầu thời Xuân Thu tức huyện Tân Trịnh, tỉnh Hà Nam bây giờ.

Đại hạn: Nắng to và nắng lâu ngày.

Nhung phục: Y phục nhà binh.

Úc Ly Tử: Tên một bộ sách của Lưu cơ thác danh làm Úc Ly Tử mà nói trong bài này.

Đại nạn sắm thuyền...: Ý nói người ta cứ phòng xa là hơn, ở đời thường có cái sức đang đi thế này, tất có lúc đi ngược hẳn lại, như nắng lâu quá tất có lúc mưa lụt, nóng nực quá tất có lúc giá rét, nên người khôn lúc nắng lâu nghĩ sắm thuyền trước để phòng khi ngập lụt, lúc nóng nực nghĩ sắm áo bông trước để phòng khi giá rét.

Lưu Cơ: Người đời Minh tên tự là Bá Ôn có công giúp vua Thái Tổ gây dựng lên nhà Minh, giỏi văn chương lại kiêm cả thiên văn binh pháp.
LỜI BÀN
Người ta làm nghề gì, ai chẳng muốn cho nghề ấy được phát đạt, thịnh vượng. Song gặp thời, thì hay, lỡ thời, hoá dở. Như thế thì cái thời cũng là quan hệ với nghề của mình lắm. Khốn cái thời là tự ở đâu đâu chớ không tự mình gây lấy được, cho nên có lắm người làm nghề, không thành nghề, thường nói rằng: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" nghĩa là người chỉ mưu tính công việc, còn công việc nên, hay không nên, là do tại trời. Song người có gan, dù cho lỡ thời cũng cứ vững dạ mà giữ lấy nghề, vì nghề chắc đã thành, thì tất cũng có chốn dụng, chẳng chóng thì chầy, chẳng nhiều thì ít, chớ cứ nay làm nghề này, mai xoay nghề khác, như hòn đá lăn mài không bao giờ mọc rêu, thì chỉ nhọc xác, già người mà vẫn không ăn thua gì cả.

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Rùa và đại bàng


Rùa nài xin đại bàng dạy cho nó biết bay. Đai bàng không dạy vì rùa không thể bay được, nhưng rùa cứ khẩn khoảng nài mải. Đại bàng bèn lấy móng quặp rùa bay lên cao rồi thả ra: rùa rơi bộp xuống.

Chuyện cười trong ngày

Đỡ khổ hơn

Thầy bói xem chỉ tay một người đàn ông.

- Nửa đầu cuộc đời, ông khổ sở vì thiếu tiền, sau đó... sẽ đỡ hơn nhiều.

- Vì tôi sẽ kiếm ra tiền ư?

- Không, vì ông sẽ quen như vậy rồi.

Sunday, September 29, 2013

29-9-2013 Suy Niệm Trong Ngày


Phật Học Vấn Đạo - Tính cách đồng nhất như sự vô thường có cần được nhận thức bằng kiến văn bác học chăng?

Hỏi:  Tính cách đồng nhất như sự vô thường có cần được nhận thức bằng kiến văn bác học chăng? 

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, ngày 3-9-2013,Minh Hạnh chuyển biên và tóm tắt)

 TT Tuệ Quyền: Đứng trên cái nhìn của nhất thể thì chúng ta nhớ một điều vô thường là cái giá trị sự thật, dầu muốn hay là không muốn nó cũng là như thế, dầu cho người có học cao hay là người không học cao thì mọi người đều biết rằng cuối cùng cũng chết, không ai có thể trường sanh bất tử thì điều đó dẫu người thông mình mẫn tuệ hay một người tầm thường nhất thì cũng biết chuyện đó. Con người cũng sẽ già, cũng sẽ bịnh, rồi cũng sẽ chết, đây là sự thật. Nhưng con người cố tình tránh né sự thật đó. Một sự thật không cần phải có một kiến văn quảng đại, không cần thiết phải học cao hiểu rộng mới thấy được sự thật này.

 Có những người, chúng ta gọi theo người dân miền Nam gọi là bình dân học vụ, hay là kiểu người dân miền quê, họ là dân quê họ ít tiếp nhận nền văn minh những cái học cao hiểu rộng như những người khác hay có những triết lý hay có những hình ảnh gì đẹp nhưng người dân quê có một tính chất hết sức là nhẹ nhàng, đó chính là, họ biết rồi họ cũng sẽ chết, họ biết rồi họ sẽ bịnh, họ biết rồi họ sẽ buông tất cả, nên đời sống của họ khác hơn các miền xứ khác bởi vì họ cảm thấy rất là bình thường rất nhẹ nhàng. Người dân quê miền Nam sống rất nhẹ nhàng và sống rất thực tế bởi vì họ biết ngày hôm nay xử lý ngày hôm nay chứ không biết ngày xa, bởi vì sự thật ngày sau ra sao mình không biết, người dân miền Nam họ biết rằng làm cho lắm hiểu biết cho nhiều cũng là như thế rồi họ cũng sẽ ra đi rồi họ cũng sẽ biến chuyển. Những người dân miền Nam sống rất là đơn giản rất là nhẹ nhàng, không lễ nghi không đòi hỏi, không keo kiệt hoặc là có sự sợ sệt suy tính đắn đo nhiều như dân miền Trung và miền Bắc, bởi vì sao, chúng tôi muốn nói như thế này để nói lên tính dân bình thường bởi vì người ta biết sự tình nó như vậy và rồi làm cho lắm làm cho nhiều cũng là như thế. 

 Đây cũng là do cách sống, bây giờ chúng ta thấy, ví dụ, chẳng hạn như người nghèo họ ý niệm rằng đời sống thân phận hay nghiệp quả của họ nghèo, họ an phận thủ thừa trong cái nghèo thì điều đó không cần bằng kiến văn lớn lao gì cả mà họ biết, họ không đua đòi, không phải làm các điều ác. Mặt khác sống đời sống bình nhật đôi khi chúng ta không cần thiết phải có một sự học hiểu về giáo lý, học hiểu về cuộc đời, học hiểu về nhiều giá trị lớn lao mà chúng ta thấy chỉ bình thường thôi, chúng ta lại có một sự sắp xếp sự lo lắng sự tính toán tốt đẹp, đó là cái gì, cuộc sống này rồi 20 năm cuộc đời 60 năm cuộc đời 30 năm cuộc đời và cuộc đời không thể như là mơ không thể như mình tính mình muốn. 

  Người dân gian có câu: "mình tính không bằng trời tính" sự chấp nhận đó trên sự suy nghĩ của họ bằng kiến văn mà cái đó là sụ thật, cũng vậy, tin vào Phật Pháp thì chuyện mình tính không bằng nhân duyên nghiệp quả của mình. Chúng ta đã suy xét, đã đo lường đong đo chắc đếm một cách đầy đủ một cách tốt đẹp nhất nhưng cuối cùng nó cũng do điều kiện khách quan điều kiện chủ quan hay điều kiện gì đó mà không thành tựu, thì chúng ta thấy một sự tình như vậy và khi chúng ta hiểu mình tính không bằng trời tính hay mình tính không bằng cái nhân duyên, thì đó chính là cái gì cái hiểu biết không cần phải có một cái kiến văn quảng đại của nhà bác học tốt đẹp để hiểu, không phải như vậy, rất là nhẹ nhàng rất là bình thường và sự đời này nó đổi thay.
  
  Có câu nói "cha mẹ sanh con chứ không sanh lòng" hoặc "cha mẹ sanh con trời sinh tính", đó là theo dân gian thôi nhưng hiểu theo Phật Pháp là do nghiệp quả của chính nó. Và có thể nói rằng cuộc sống này cuộc đời này chúng ta không thể làm chủ nghiệp của mình hay nói theo Phật Pháp thì chúng ta không thể làm chủ cái cái nghiệp của mình. Bởi vì ta không biết rằng liệu chúng ta sống hôm nay còn có sống tới ngày mai hay không, mà do sự vô thường của cuộc sống này. Có một số người nói đừng suy đừng tính cho nhiều lo lắng ôm ấp chấp giữ cho nhiều rồi cuối cùng chúng ta chết, khi đến bàn tay không ra đi cũng bàn tay không thì cũng là một sự hiểu biết ý niệm về sự vô thường ý niệm về cái vô ngã rất là lớn.  Một sự thật không cần phải có một kiến văn quảng đại, không cần thiết phải học cao hiểu rộng mới thấy được sự thật này./.
  
  

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Khi muốn trốn thoát khỏi sự sanh tử luân hồi đó, thì người Phật tử cần phải có trí tuệ, cần phải có sự khéo tác ý để nhìn thấy rõ bản chất của thân này, luôn luôn chúng ta phải biết thân này là giả tạm, sắc uẩn do tứ đại hiệp thành, do duyên của nghiệp thủ mà tạo sắc thân này, do duyên của vật thực mà tạo sắc thân này, do duyên của thời tiết mà làm cho phát triển thể xác này và do duyên của tâm sanh khởi mà tạo nên sự hoạt động của xác thân này.

Mà hễ cái gì sanh khởi do nhân, do duyên, thì cái đó sẽ bị biến hoại, vì sao vậy ?, Bởi vì do nhân và duyên, bởi vì năng duyên có mặt mới có sở duyên, và năng duyên không có mặt thì sẽ không có sở duyên, bởi vậy sắc thân này giả tạm, và ở đây đối với danh uẩn, tức là thọ, tưởng, hành, thức, tâm này cũng vậy, luôn luôn có sự vô thường, biến hoại, có sự đổi thay, và chính vì sự biến hoại vô thường biến đổi đó cho nên tâm này khi chúng ta chưa diệt trừ được phiền não, thì luôn luôn chúng ta có sự khổ ưu, có sự phiền toát, sự phiền toái đó là do chúng ta bị chi phối bởi ngoại cảnh, và chúng ta có thể bị chi phối phiền toái do những hiện tượng ở bên trong khi chúng ta thấy cảnh vừa lòng thì khởi lên sự tham muốn, và khi tham muốn đạt không được và không thoải mãn, thì lúc bấy giờ khởi lên tâm ưu bi và cứ như vậy luôn luôn chúng ta bị dằn vặc, bị dày xéo.

TT Giác Đẳng - Bài giảng trong lớp Diệu Pháp - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

Tim Ta Cháy Như Lửa 


Soyen Shaku, vị thiền sư đầu tiên tới Châu Mỹ, nói: "Tim ta cháy như lửa nhưng mắt ta lạnh như tro tàn." Ngài đặt ra những quy luật sau mà ngài thực hành mỗi ngày trong cuộc đời ngài.

Buổi sáng trước khi khoác y, hãy thắp nhang và thiền định.

Đi nghỉ tại một giờ giấc nhất định.

Nhận phần ăn uống vào những lúc nhất định. Ăn điều độ và không bao giờ tới mức thỏa mãn.

Tiếp một người khách với cùng một thái độ có khi bạn ở một mình. Khi ở một mình, cũng giữ nguyên thái độ như lúc bạn tiếp khách.

Lưu ý vào điều gì bạn nói, và bất cứ bạn nói điều gì, hãy thực hành điều đó.

Khi một cơ hội đến đừng để nó trôi đi, tuy nhiên luôn luôn suy nghĩ hai lần trước khi hành động.

Đừng nuối tiếc quá khứ. Hãy nhìn tới tương lai.

Nên có thái độ không hãi sợ của một người anh hùng và trái tim thương yêu của một đứa trẻ.

Khi đi ngủ, hãy ngủ như là bạn đang bước vào giấc ngủ cuối cùng của bạn.

hi thức dậy, hãy rời bỏ cái giường lại phía sau bạn ngay tức khắc như là bạn vứt bỏ đi một đôi giày cũ.

Chuyện Xưa Tích Cũ - Núi Yên Tử ở Hải Dương


NÚI YÊN TỬ Ở HẢI DƯƠNG

 Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Ở Bắc phần mãi đến nay còn truyền tụng câu hát:

Dầu ai quyết chí tu hành,
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.

Theo sách Khóa Hư Lục chép lại thì vua Trần Nhân Tôn mồ côi cha mẹ sớm. Muốn báo ơn cha mẹ, nhà vua bỏ ngai vàng, trèo non, lặn suối đến núi Yên Tử mà tu. Nhưng các vị Quốc sư sai người đến chùa năn nỉ đức vua trở về. Cực chẳng đã, vua Trần Nhân Tôn về trào mà chấp chánh.

Hai mươi năm sau, đức vua không quên được đạo Phật. Vua thỉnh vị Hòa thượng ở chùa Hoa Yên (núi Yên Tử) về kinh đô. Hòa thượng này trụ trì tại chùa Thắng Nghiêm, vua giao phó cho trách nhiệm xuất bản các kinh Phật.

Về già, vua Trần Nhân Tôn đến Yên Tử mà tu cho trọn lời phát nguyện lúc trước. Đời ấy, một vị trạng nguyên tên Trần Đạo Tái cũng đến núi Yên Tử mà tu hành không chịu làm quan.

Cổ Học Tinh Hoa

NGƯỜI NƯỚC LỖ SANG NƯỚC VIỆT
Hai vợ chồng người nước Lỗ, chồng khéo đóng giày, vợ khéo đan mũ, muốn đem nhau sang kiếm ăn ở nước Việt.
Có người đến bảo rằng: “Vợ chồng nhà bác đi chuyến này thế nào cũng cùng khổ.

Người nước Lỗ hỏi: Sao bác lại nói thế?

Người kia bảo: Giày dùng để đi, mà người Việt đi chân không, không thích đi giày; mũ dùng để đội, mà người Việt để đầu không, không cần đội mũ. Vợ chồng nhà bác làm giày, đan mũ giỏi thật, song đến ở nước người ta, người ta không dùng đến tài nghề của mình, thì làm thế naò mà không khốn cùng?”

Hai vợ chồng người nước Lỗ nghe nói, không sang nước Việt nữa.

Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Đến chỗ đi đầu không, mà bán mũ, đến chỗ đi chân không mà bán giày thì cũng giống như mùa rét mà bán quạt, mùa nực mà bán chăn bông, tuy trái nơi và trái thời khác nhau, nhưng cũng là trái, không được việc cho mình mà lại còn để tiếng cười cho thiên hạ nữa. Cho nên người có tài phải tìm nơi đáng ở mà ở chớ đem đàn mà gảy tai trâu thì có ích chi.

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Quạ và đàn bồ câu


Quạ thấy đàn bồ câu được nuôi ăn đây đủ, nó bôi trắng lông mình rồi bay vào chuồng bồ câu. Đàn bồ câu thoạt đầu tưởng nó cũng là bồ câu như mọi con khác, thế là cho nó vào chuồng. Nhưng quạ quen khuấy và cất tiếng kêu theo lối quạ. Bấy giờ nhà họ bồ câu xúm vào mổ và đuổi nó đi. Quạ bay trở về với họ nhà quạ nhưng họ nhà quạ sợ hãi nó bởi vì nó trắng toát và cũng đuổi cổ nó đi.

Chuyện cười trong ngày

Không được như vậy nữa

Một nghệ sĩ đi diễn lưu động trở về, nói với bạn:

- Thật là một chương trình thành công. Khi tôi diễn tại quảng trường, tiếng vỗ tay của quần chúng vang dội, ngay cả khi màn trình diễn chưa kết thúc.

- Anh may mắn đấy, nhưng tuần sau thì chắc không được như thế đâu.

- Vì sao?

- Đài khí tượng báo trời sẽ trở lạnh và khô hơn. Lúc đó sẽ không nhiều muỗi như giờ đâu.

Saturday, September 28, 2013

Thế nào là hạng người bóng tối hướng đến ánh sáng (tamo hoti jotitarāyano)?

Hỏi. Thế nào là hạng người bóng tối hướng đến ánh sáng (tamo hoti jotitarāyano)?

(Bài giảng trong lợp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Đẳng giảng: Từ chỗ tối đi đến chỗ sáng thì chúng ta phải nhìn nhận trong một số các hình thái xã hội đặc biệt ở tại Hoa Kỳ lại cho chúng ta hình ảnh rất đẹp. Chúng tôi lấy ví dụ như là đất nước Hoa Kỳ chỉ có vọn vẹn 300 năm mà người ta xây dựng một quốc gia hùng cường vào bậc nhất thế giới, là tại vì xã hội này bảo đảm sự tự do phát triển của mỗi cá nhân. Chúng tôi không nói qua định cư ở Hoa Kỳ thì ai muốn làm sao cũng được nhưng mình phải nhìn nhận rằng có những người ban đầu họ khởi sự rất bình thường như ông Steve Jobs một người sáng lập ra công ty Apple mà ngày nay có Iphone cho chúng ta sài, ông lập công ty Apple từ trong một garage nhỏ ở San Francisco. Lúc bấy giờ mà so sánh với hãng IBM thì thật sự hai anh thanh niên nhỏ chế ra những cái computer trong garage mà so với công ty IBM thì không có nghĩa gì hết, nhưng ngày nay thì công ty Apple đã qua mặt công ty IBM. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta thấy một sự kiện đó là người Mỹ ở xã hội Hoa Kỳ là xã hội họ không thích hay họ không chủ trương sự áp đặt có tánh cách lời nói quan lại thư lại mà thay vào đó là có luật chơi công bằng, nếu một người chịu khó, nếu một người có tinh thần sáng tạo, có thực tài, thì người đó vẫn có thể vương lên được. Riêng trong Đạo Phật thì Đức Phật Ngài không nói rằng cái sáng cái tối ở đây nó chỉ thuần có nghĩa là tầm thường, thành công hay địa vị thấp, địa vị cao. Ngài không nói như vậy. Ngài chỉ gọi chỗ "tối" ở đây là cái hoàn cảnh bất lợi khi sanh ra, thí dụ như nhà nghèo, ví dụ như khuyết tật, thí dụ như trong gia cấp thấp, nhưng chỗ "sáng" ở đây thì Đức Phật Ngài cho chúng ta một ý tưởng hoàn toàn khác, chỗ "sáng" ở đây Ngài không nói rằng người đó đạt bằng cấp cao hay người đó thế này thế kia, có địa vị trong xã hội. Mà cái "sáng" ở đây Đức Phật dạy rằng người đó đã thể hiện được thiện pháp ở trong đời sống của họ.

Chúng tôi có dịp đi cứu trợ bên Miến Điện, đi cùng với chúng tôi có mười mấy người Phật tử. Chúng tôi về những vùng để cứu trợ đó có cảm giác rất lạ lùng, chưa bao giờ đi đâu cứu trợ mà cảm giác nó đến với chúng tôi như vậy. Tất cả là 17 người ở trong đó có vài ba vị xuất gia còn lại là Phật tử đi về một nơi rất nghèo, rất hẻo lánh mà Việt Nam gọi là vùng sâu vùng xa. Nơi đó những người dân chân lấm tay bùn, nghèo khổ hoang dã, khi chúng tôi đến đó thì thấy cái chất của Phật Pháp cái chất của đạo của thiện tâm của những người đó ngời sáng, họ sáng trong sự thành thật của họ, ở trong tấm lòng của họ đối với Tam Bảo và họ tỏa sáng trong thiện pháp. Khi chúng tôi nhìn thì có thể nói chúng tôi có ít sự so sánh, nhưng phải nói số mười mấy người đến từ Úc từ Âu Châu từ Hoa Kỳ sang cứu trợ thì nếu đem những người này so sánh với những nạn nhân của thiên tai, thì những người từ Úc, Hoa Kỳ, Âu Châu qua nếu được chăng thì được về phương diện từ các quốc gia tương đối có tiền bạc hơn nhưng về đạo tâm về tư cách về chất thiện thì không thể so sánh với những người ở vùng quê đó được. Chúng tôi lấy ví dụ là họ có thể ngồi nghe Chư Tăng thuyết pháp trong thời gian một tiếng rất trang nghiêm thanh tịnh và bằng một thái độ rất cung kính là chúng tôi hiểu rằng Phật Pháp ở trong lòng họ có rất nhiều. Vì vậy những điều đó khiến cho chúng tôi nhớ đến Đức Phật Ngài dạy rằng có những người sanh ra ở trong bóng tối họ đi đến chỗ sáng, thì ở đó chúng tôi thấy rõ ràng là những người đó là những người miền quê những người sống ở những vùng hẻo lánh xa xôi nhưng nhờ vào Phật Pháp nhờ chất thiện ở trong lòng họ làm cho họ tỏa sáng. Thì thật ra trong phái đoàn ai cũng thương họ. Và chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng ngày nay ở giữa thành phố rất lớn có cuộc sống xã hội cực kỳ tinh vi, tinh vi về kỹ thuật, tinh vi về luật pháp, tinh vi về hệ thống phương tiện mà có những con người mà người ta gọi là những con quái vật, họ làm bao nhiêu những tội ác đối với xã hội là vì ở trong lòng họ không có chất thiện.
Thì như vậy khi Đức Phật Ngài nói rằng từ chỗ sáng đi đến chỗ tối, Ngài không nói rằng con người từ địa vị từ hoàn cảnh giai cấp thấp đến giai cấp cao, Ngài không nói như vậy, nhưng Ngài nói rằng: lẽ ra con người sanh ra trong nền giáo dục bị hạn chế như vậy thì họ không thể có được một tâm hồn hướng thượng hướng thiện cao như vậy, nhưng chuyện đó có, ở trong lịch sử của con người, có những con người tương đối rất gần với chúng ta, chúng tôi nói ví dụ như là tiến sĩ Ambedka, ông là một người xuất thân từ giai cấp cùng đinh của xã hội Ấn Độ, ông vươn lên trở thành một luật sư nổi tiếng và là người viết ra hiến pháp của Ấn Độ, là người đã đưa hàng triệu người Ấn Độ trở về với Đạo Phật. Thì Đức Phật Ngài trong lời nói rất giản dị của Ngài, Ngài đã khẳng định một điều rằng cái cá thể của người sanh ra trong một giai cấp cùng đinh (sumìta) được phép vào trong giáo pháp là tại vì Ngài thấy rằng cái tiềm chất tu tập để trở thành một người tốt có chứ không phải là không có. Và về điểm này thì Đạo Phật đã mang lại một niềm hi vọng rất lớn cho rất nhiều người vì cái khả thể đó chứ không phải Đức Phật Ngài nói rằng ở giai cấp nào thì vĩnh viễn ở giai cấp như vậy.

28-9-2013 Suy Niệm Trong Ngày


Phật Học Vấn Đạo - Thế nào là hạng người bóng tối hướng đến ánh sáng (tamo hoti jotitarāyano)?

Hỏi. Thế nào là hạng người bóng tối hướng đến ánh sáng (tamo hoti jotitarāyano)?

(Bài giảng trong lợp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng giảng: Từ chỗ tối đi đến chỗ sáng thì chúng ta phải nhìn nhận trong một số các hình thái xã hội đặc biệt ở tại Hoa Kỳ lại cho chúng ta hình ảnh rất đẹp. Chúng tôi lấy ví dụ như là đất nước Hoa Kỳ chỉ có vọn vẹn 300 năm mà người ta xây dựng một quốc gia hùng cường vào bậc nhất thế giới, là tại vì xã hội này bảo đảm sự tự do phát triển của mỗi cá nhân. Chúng tôi không nói qua định cư ở Hoa Kỳ thì ai muốn làm sao cũng được nhưng mình phải nhìn nhận rằng có những người ban đầu họ khởi sự rất bình thường như ông Steve Jobs một người sáng lập ra công ty Apple mà ngày nay có Iphone cho chúng ta sài, ông lập công ty Apple từ trong một garage nhỏ ở San Francisco. Lúc bấy giờ mà so sánh với hãng IBM thì thật sự hai anh thanh niên nhỏ chế ra những cái computer trong garage mà so với công ty IBM thì không có nghĩa gì hết, nhưng ngày nay thì công ty Apple đã qua mặt công ty IBM. Điều đó cũng nhắc cho chúng ta thấy một sự kiện đó là người Mỹ ở xã hội Hoa Kỳ là xã hội họ không thích hay họ không chủ trương sự áp đặt có tánh cách lời nói quan lại thư lại mà thay vào đó là có luật chơi công bằng, nếu một người chịu khó, nếu một người có tinh thần sáng tạo, có thực tài, thì người đó vẫn có thể vương lên được. Riêng trong Đạo Phật thì Đức Phật Ngài không nói rằng cái sáng cái tối ở đây nó chỉ thuần có nghĩa là tầm thường, thành công hay địa vị thấp, địa vị cao. Ngài không nói như vậy. Ngài chỉ gọi chỗ "tối" ở đây là cái hoàn cảnh bất lợi khi sanh ra, thí dụ như nhà nghèo, ví dụ như khuyết tật, thí dụ như trong gia cấp thấp, nhưng chỗ "sáng" ở đây thì Đức Phật Ngài cho chúng ta một ý tưởng hoàn toàn khác, chỗ "sáng" ở đây Ngài không nói rằng người đó đạt bằng cấp cao hay người đó thế này thế kia, có địa vị trong xã hội. Mà cái "sáng" ở đây Đức Phật dạy rằng người đó đã thể hiện được thiện pháp ở trong đời sống của họ.

Chúng tôi có dịp đi cứu trợ bên Miến Điện, đi cùng với chúng tôi có mười mấy người Phật tử. Chúng tôi về những vùng để cứu trợ đó có cảm giác rất lạ lùng, chưa bao giờ đi đâu cứu trợ mà cảm giác nó đến với chúng tôi như vậy. Tất cả là 17 người ở trong đó có vài ba vị xuất gia còn lại là Phật tử đi về một nơi rất nghèo, rất hẻo lánh mà Việt Nam gọi là vùng sâu vùng xa. Nơi đó những người dân chân lấm tay bùn, nghèo khổ hoang dã, khi chúng tôi đến đó thì thấy cái chất của Phật Pháp cái chất của đạo của thiện tâm của những người đó ngời sáng, họ sáng trong sự thành thật của họ, ở trong tấm lòng của họ đối với Tam Bảo và họ tỏa sáng trong thiện pháp. Khi chúng tôi nhìn thì có thể nói chúng tôi có ít sự so sánh, nhưng phải nói số mười mấy người đến từ Úc từ Âu Châu từ Hoa Kỳ sang cứu trợ thì nếu đem những người này so sánh với những nạn nhân của thiên tai, thì những người từ Úc, Hoa Kỳ, Âu Châu qua nếu được chăng thì được về phương diện từ các quốc gia tương đối có tiền bạc hơn nhưng về đạo tâm về tư cách về chất thiện thì không thể so sánh với những người ở vùng quê đó được. Chúng tôi lấy ví dụ là họ có thể ngồi nghe Chư Tăng thuyết pháp trong thời gian một tiếng rất trang nghiêm thanh tịnh và bằng một thái độ rất cung kính là chúng tôi hiểu rằng Phật Pháp ở trong lòng họ có rất nhiều. Vì vậy những điều đó khiến cho chúng tôi nhớ đến Đức Phật Ngài dạy rằng có những người sanh ra ở trong bóng tối họ đi đến chỗ sáng, thì ở đó chúng tôi thấy rõ ràng là những người đó là những người miền quê những người sống ở những vùng hẻo lánh xa xôi nhưng nhờ vào Phật Pháp nhờ chất thiện ở trong lòng họ làm cho họ tỏa sáng. Thì thật ra trong phái đoàn ai cũng thương họ. Và chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng ngày nay ở giữa thành phố rất lớn có cuộc sống xã hội cực kỳ tinh vi, tinh vi về kỹ thuật, tinh vi về luật pháp, tinh vi về hệ thống phương tiện mà có những con người mà người ta gọi là những con quái vật, họ làm bao nhiêu những tội ác đối với xã hội là vì ở trong lòng họ không có chất thiện.
Thì như vậy khi Đức Phật Ngài nói rằng từ chỗ sáng đi đến chỗ tối, Ngài không nói rằng con người từ địa vị từ hoàn cảnh giai cấp thấp đến giai cấp cao, Ngài không nói như vậy, nhưng Ngài nói rằng: lẽ ra con người sanh ra trong nền giáo dục bị hạn chế như vậy thì họ không thể có được một tâm hồn hướng thượng hướng thiện cao như vậy, nhưng chuyện đó có, ở trong lịch sử của con người, có những con người tương đối rất gần với chúng ta, chúng tôi nói ví dụ như là tiến sĩ Ambedka, ông là một người xuất thân từ giai cấp cùng đinh của xã hội Ấn Độ, ông vươn lên trở thành một luật sư nổi tiếng và là người viết ra hiến pháp của Ấn Độ, là người đã đưa hàng triệu người Ấn Độ trở về với Đạo Phật. Thì Đức Phật Ngài trong lời nói rất giản dị của Ngài, Ngài đã khẳng định một điều rằng cái cá thể của người sanh ra trong một giai cấp cùng đinh (sumìta) được phép vào trong giáo pháp là tại vì Ngài thấy rằng cái tiềm chất tu tập để trở thành một người tốt có chứ không phải là không có. Và về điểm này thì Đạo Phật đã mang lại một niềm hi vọng rất lớn cho rất nhiều người vì cái khả thể đó chứ không phải Đức Phật Ngài nói rằng ở giai cấp nào thì vĩnh viễn ở giai cấp như vậy.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Có một lúc nào đó chúng ta nên mời gọi đến chính mình trở về nhìn lại cái mà chúng ta cho là miên viễn, chắc chắn, cái gì đã được khéo xây dựng, khéo tô bồi.  Một cái gì mà mình cảm thấy rất đẹp mỹ miều mà trong đó mình nghĩ rằng nó chứa rất nhiều điều đáng trọng, đáng quí.  Đức Phật cho chúng ta biết rằng cái thành trì đó, về phương diện vật chất thì nó vốn xây bằng máu thịt.  Những thứ đó khi chúng ta nhìn kỹ thì nó không phải là thân kim cang bất họai hoặc giả là nó đẹp hơn  chúng ta nghĩ.  Rồi trong chúa đựng cái gì? Già và chết với kiêu mạn giả trá. Trong chứa đựng già và chết nghĩa là trong bản thân mình, thưa qúi vị, nó đã chứa đựng dấu ấn của thời gian, của sanh diệt, của sự họai dịêt, của sự tàn lụn, hư hỏng. Với kiêu mạn giả trá. Chữ kiêu mạn, giả trá ở đây Đức Phật dùng chữ mano. Mano là gì? Mano là mạn, chữ kiêu mạn trong đạo Phật là sự so sánh giữa mình với người khác. Cho dù rằng mình so sánh bằng cách nào đi nữa.  Chúng ta sống vẫn thường có suy nghĩ mình như thế này, mình như thế kia, người ta như thế nọ. Nếu có chăng chúng ta thấy rằng đó là một trong những bản chất là từ xác thân giả trá này, từ xác thân huyển ảo này nó lại nuôi dưỡng cho một ảo tưởng khác. Cái mà Đức Phật gọi là một sự so sánh vốn không có căn bản, vốn không có cái gì gọi là chính xác. Cái đó lại trở thành một phần quan trọng trong đời sống cá nhân mình. Nên chi Đức Phật ngài gọi đó là mạn. Còn giả trá ở đấy là đóng kịch. Giả trá ở đây nói lên một đời sống pretending, một đời sống mà chúng ta cố gắng để làm cho mình đẹp hơn, làm cho mình hay hơn, làm cho mình giỏi hơn. Nhưng kỳ thật tất cả chúng ta đều phải vật lộn với những thực tế của đời sống. Mà thực tế đó là bệnh họan, đó là những nhược điểm, những sự suy thóai của mình. Kiêu mạn và giả trá là hai bộ mặt thật của cái gọi là ảo giác của đời sống. 

Nếu chúng ta có ảo tưởng về thân này thì dựa trên ảo tưởng đó chúng ta cũng lại có nhiều biến chứng của ảo tưởng. Và hai biến chứng rõ nét nhất mà được Đức Phật đề cập đến ở đây là kiêu mạn và giả trá. Kiêu mạn là chúng ta có những suy nghĩ về cái hơn, cái thua của chính bản thân của mình với người khác. Và giả trá ở đây thứ quí vị, cho dù cuộc sống của mình có bao nhiêu suy nhược, bao nhiêu khuyết điểm, bao nhiêu sự trì trệ thì chúng ta cố gắng khóat lên một mặt nạ. Mặt nạ đó cho thấy mình vẫn sống vui, sống hạnh phúc và cũng sống một cách thư thái nhưng thực tế những thứ đó không phải là bản chất thật của chúng ta. 

TT Giác Đẳng giảng - Kinh Pháp Cú kệ 150 - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Cho Đời Sống

Biết về Loài Cá

Một ngày nọ Chuan Tzu và bạn đi bộ dọc theo bờ sông.

"Nhìn những con cá đang bơi lội," Chuang Tzu nói, "Chúng nó thật là vui vẻ."

"Bạn không phải là loài cá," người bạn trả lời, "Sao bạn có thể thật sự biết rằng chúng nó vui vẻ."

"Bạn không phải là tôi," Chuang Tzu trả lời. "Sao bạn biết là tôi không biết những con cá đang vui vẻ?"

Chuyện Xưa Tích Cũ - Chó mực, ngựa ô


CHÓ MỰC, NGỰA Ô

Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Thuở xưa, anh nông phu nọ nuôi trong nhà một con bò, một con chó, một con ngựa, một con mèo, một con heo. Tình cờ, mấy con thú này đều có lông đen nên anh nông phu gọi nó là ngựa đen, chó đen, mèo đen, bò đen … 

Mấy con thú này không bằng lòng nên tranh công nhau. Con ngựa nói: -Ông chủ nghĩ mà coi, tôi chạy hay chở một lần đôi ba người. Nhờ tôi đi chơi, ông làm oai với thiên hạ. Kêu tôi bằng ngựa đen thì không công bình. 

Con heo tức mình, cãi lại: -Tôi đây ích lợi hơn ngựa. Thịt của tôi ngon, tôi sanh nhiều con hơn hết, Con của tôi lại mau mập, bán có tiền … Tôi muốn được chức gì sang trọng hơn. Kêu tôi bằng heo đen, tôi tủi phận quá. 

Con bò, con cho, con mèo cũng đem hết lý lẽ, dành công trận về phần mình. 

Anh nông phu bèn trả lời: -Khó xử quá! Hễ bênh vực kẻ này thì mích lòng kẻ khác. Để ta bày ra cuộc thi. Ai tới trước thì được chức lớn, ai về sau thì lãnh chức nhỏ. Chức lớn nhất là Ô (tên con quạ ô thước), kế đó là Mực (mực viết chữ), Mun (cây mun), Hóng (khói bếp đóng trên mái nhà). Ai về chót thì giữ đen như cũ. 

Con ngựa chạy mau hơn hết, về nhất nên lãnh chức là ngựa ô, hạng nhì là chó lãnh chức là chó mực, hạng ba là con mèo lãnh chức mèo mun, con bò về hạng tư lãnh tên bò hóng. Con heo về hạng chót nên mang tên heo đen không thay đổi …

Cổ Học Tinh Hoa

NGƯỜI NƯỚC LỖ SANG NƯỚC VIỆT
Hai vợ chồng người nước Lỗ, chồng khéo đóng giày, vợ khéo đan mũ, muốn đem nhau sang kiếm ăn ở nước Việt.
Có người đến bảo rằng: “Vợ chồng nhà bác đi chuyến này thế nào cũng cùng khổ.

Người nước Lỗ hỏi: Sao bác lại nói thế?

Người kia bảo: Giày dùng để đi, mà người Việt đi chân không, không thích đi giày; mũ dùng để đội, mà người Việt để đầu không, không cần đội mũ. Vợ chồng nhà bác làm giày, đan mũ giỏi thật, song đến ở nước người ta, người ta không dùng đến tài nghề của mình, thì làm thế naò mà không khốn cùng?”

Hai vợ chồng người nước Lỗ nghe nói, không sang nước Việt nữa.

Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ.
LỜI BÀN
Đến chỗ đi đầu không, mà bán mũ, đến chỗ đi chân không mà bán giày thì cũng giống như mùa rét mà bán quạt, mùa nực mà bán chăn bông, tuy trái nơi và trái thời khác nhau, nhưng cũng là trái, không được việc cho mình mà lại còn để tiếng cười cho thiên hạ nữa. Cho nên người có tài phải tìm nơi đáng ở mà ở chớ đem đàn mà gảy tai trâu thì có ích chi.

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Quạ và đàn bồ câu


Quạ thấy đàn bồ câu được nuôi ăn đây đủ, nó bôi trắng lông mình rồi bay vào chuồng bồ câu. Đàn bồ câu thoạt đầu tưởng nó cũng là bồ câu như mọi con khác, thế là cho nó vào chuồng. Nhưng quạ quen khuấy và cất tiếng kêu theo lối quạ. Bấy giờ nhà họ bồ câu xúm vào mổ và đuổi nó đi. Quạ bay trở về với họ nhà quạ nhưng họ nhà quạ sợ hãi nó bởi vì nó trắng toát và cũng đuổi cổ nó đi.

Chuyện cười trong ngày

Thế mới tài

Cha nói với con:

- Mày cầm cái chai đi mua một chai rượu nhé.

- Tiền đâu mà mua hả bố?

- Không có tiền mua được mới tài chứ?

- Một lát sau, con cầm cái chai không về, cha hỏi: Rượu đâu hả mày?

- Không có rượu, vẫn uống được, thế mới tài chứ.

Friday, September 27, 2013

27-9-2013 Suy Niệm Trong Ngày


Phật Học Vấn Đạo - Thế nào là hạng người hoa ngữ (pupphabhānī)?

Hỏi:  Thế nào là hạng người hoa ngữ (pupphabhānī)?

(Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng giảng: Đức Phật gọi là lời nói như hoa, ở đây dịch là hoa ngữ. Hoa là một kết tinh của thực vật, cây cỏ cho chúng ta những đoá hoa có màu có sắc có hương thơm, mà thường nói đến hoa chúng ta nói cái gì làm đẹp cho đời sống. Thật ra thì, nếu chúng ta đọc kỹ lời của Đức Phật dạy, một lời nói ngược lại với phẫn ngữ là nói như hoa, lời nói của chân thật, hay chúng ta gọi là chân thật ngôn một thứ lời nói có tôn trọng sự thật, có khi lời nói đó lại vụng không phải là lời nói khéo nhưng là một lời nói thật thì bao giờ cũng có giá trị nhất định của nó. Dĩ nhiên, Đức Phật Ngài cũng dạy chúng ta nói đúng sự thật và nói bằng tâm từ, nói đúng thời, nói có lợi ích chứ không phải nhìn một khía cạnh thật mà thôi, nhưng một lời nói thật là lời nói khó nói.

Chúng ta đang sống ở trong một thời đại mà con người thường bị phân chia, đôi lúc do người ta đứng bên này do người ta đứng bên kia người ta không có can đảm nói lên sự thật. Chúng tôi lấy một trường hợp, xã hội Hoa Kỳ là một xã hội tương đối tiến bộ rất nhiều ở trong khả năng tranh biện, nhưng chúng ta thấy những chữ như là "liberal-chủ nghia tự do" người ta đã dán nhãn hiệu cho một thứ đi quá đà là một thứ phá hủy truyền thống cố hữu của xã hội mà trở thành một thứ nhãn hiệu đôi khi trở thành án tử hình đối với các ứng cử viên. Hoặc giả, có một thời nào đó tại Việt Nam khi người ta nói người ta chỉ nói rập khuôn theo chính quyền thôi, mà hễ nói sự thật thì dễ dàng đi học tập cải tạo. Chúng ta cũng thấy con người sống trong gia đình hay trong đạo giáo cũng vậy, nhiều lúc chúng ta đứng trong một phe phái, một bên nào đó và chúng ta không dám nói ra lời nói sự thật. Sự thật nó là đơn giản như vầy, có nhiều khi mình nghe một người nào đó kết án người khác là người xấu xa hoàn toàn thì chúng ta cũng thử ngồi xuống để xét lại coi người đó có hoàn toàn xấu như vậy không. Bà Dorothy Hinshaw nói: ở trong mười trường hợp người ta kết tội một người nào đó là xấu thì có chín trường hợp đó là lời nói phóng đại quá đáng. Cũng như khi chúng ta thích một người nào chúng ta khen người đó thì cũng không hẳn là người đó tốt 100%. Người có trí là người hiểu vấn đề một cách trung thực, thí dụ mình biết rõ người đó tốt thì mình nói tốt mà xấu thì nói xấu, con người của chúng ta hay dễ a dua theo người khác dễ xu hướng theo người khác mà thường thường là chúng ta tự biến mình thành nạn nhân.

Chúng tôi làm trụ trì một ngôi chùa, chúng tôi biết vô số trường hợp những người Phật tử trở thành nạn nhân của những người chia rẽ phe phái, mà thật ra mình không có thì giờ để giải thích, thí dụ như một Phật tử đang đi chùa đang làm việc tốt thì người khác họ đến nói Anh hay chị không nên làm cho cái chùa đó vì chùa đó theo cộng sản hay chùa đó có ông Thầy thế này hay Phật tử thế kia, lời nói làm họ nản lòng, những chuyện đó rất là nhiều. Đôi khi Phật tử đến hỏi chúng tôi vậy chứ trong trường hợp như vậy chúng tôi làm trụ trì thì nên làm cái gì thì thú thật với qúi vị thường khi chúng tôi phải nói rằng mạng ai thì nấy giữ thôi, chúng ta không thể nào thanh minh cho cả thế giới này, chúng ta không thể nào đứng ra bảo vệ cho cả thế giới này, chúng ta chỉ biết rằng có những người họ luôn luôn nhắm vào các đối tượng nhẹ dạ để lôi kéo theo su hướng nào đó.

Thật ra có nhiều người hỏi chúng tôi vậy chứ hiểm họa của chế độ cộng sản là gì? Thì chúng tôi phải nói rằng một hiểm họa lớn của chế độ cộng sản là họ bỏ ra một số tiền khổng lồ cái tư nguyên khổng lồ để làm một bộ máy tuyên truyền và kéo vô số những người rất nhẹ dạ tin vào điều gì. Chúng tôi lấy ví dụ như ở trong những cộng đồng khác như cộng đồng Nhật Bản, Đại Hàn không bị như cộng đồng chúng ta, cộng đồng của chúng ta bị phân hóa rất nhiều bởi bên này và bên kia, phải nói rằng chính sách về lâu về dài của chúng ta không dẫn đến sự đoàn kết như mọi người nghĩ mà nó dẫn đến sự chia rẽ, mà sự chia rẽ nhất thời nó có lợi cho bên này hay bên kia nhưng về lâu dài nó là đại họa cho dân tộc. Qúi vị thấy là người Việt Nam không tin người Việt Nam, có những người họ chống bên này chống bên kia chỉ đơn giản là tại vì họ thấy người đó không giống như mình, không theo mình.

Thì như vậy ở trong thời đại của chúng ta Đức Phật cho biết là thời đại con người có nhiều sân tâm là thời đại làm con người giảm đi trí tuệ. Sân tâm là chúng ta sống ở trong một thời đại mà con người rất dễ dàng bị tác động, người này xấu người kia xấu, mình không thích người này, mình không thích người kia, và lúc nào mình cũng nặng về cái vui cái buồn, mình quên đi những thứ cần thiết. Chúng tôi làm việc Phật sự ví dụ như làm việc trong diễn đàn Phật Pháp như là rơom Phật Pháp Buddhadhamma hay ở trong một ngôi chùa thì thấy rằng tất cả những người làm việc họ đều là những người rất tốt rất thiện chí, nhưng mà sao những người tốt đó họ không có thể nào thoải mái hoàn toàn với người tốt? Thật ra chúng ta biết ai cũng có đụng chạm với nhau và sự đụng chạm của con người khiến người ta binh vực nhau, người ta lôi kéo bè phái và từ từ họ bôi tro trét trấu lên người nào đó thì người đó phải chịu là xấu hoàn toàn, nhưng ở trên thực tế thì người đó hoàn toàn không xấu như vậy.

Con người của chúng ta khi Đức Phật Ngài nói lời nói như hoa là lời nói đủ can đảm để nói một cách trung thực, đủ can đảm để vượt lên trên cái vui cái buồn, cái thương cái ghét, cái phe phái, và lời nói trung thực là lời nói như hoa, là lời nói có tôn trọng sự thật. Không may cho chúng ta là chúng ta rất ít khi có được nhiều bằng chứng về việc đó, có nhiều tấm gương sáng về việc đó, mà phần lớn là chúng ta hoặc là đứng bên này hoặc là đứng bên kia.

Thì chúng ta thấy rõ ràng Đức Phật Ngài định nghĩa lời nói như phẫn hay lời nói là như hoa thì nó chỉ là đối ngược với cái gọi là tôn trọng sự thật và không tôn trọng sự thật, và sự thật ở đây như là cái chuẩn để chúng ta lượng định vấn đề. Thật ra không phải trên phương diện xã hội mà ở trên phương diện đạo giáo cũng vậy, hễ người ta mà tin vào cái gì đó, thích cái gì đó thì cái đó tốt, mà hễ họ không tin và không thích cái gì đó thì thấy cái gì cũng xấu hết.

Chúng tôi có quen một người, người đó sống ở trại tỵ nạn bên Thái Lan. Trong thời gian sống ở trại họ cũng được ra bên ngoài vì lý do sao đó, và khi được sang Mỹ thì người đó nói rằng họ rất ghét Phật giáo Thái Lan nói riêng và Phật giáo Nam Tông nói chung. Thì có một lần vị đó nói chuyện với chúng tôi rằng không ưa Phật giáo Nam Tông, chúng tôi mới hỏi tại sao thì vị đó nói rằng có hai điều mà vị đó không thích là vì vị đó nghe một vị Hoà Thượng nói thì thấy có lý: thứ nhất là Phật giáo Nam Tông không ăn chay, thứ hai là nhà sư Nam Tông mặc quần không ống, tức là y nội giống như chúng ta mặc sàrông. Thì chúng tôi cũng không nói gì, tại vì đời sống con người mỗi người họ có cái thích và cái không thích thôi, chúng tôi chỉ cười, nhưng nếu hai lý do đó trở thành hai điều đáng bực mình đáng để giận thì kể ra nó cũng là một điểm thú vị là vì trong đời sống con người có nhiều sở thích không giống nhau. Một chuyện trớ trêu là người ta nói ghét của nào trời giao của đó. Thì vị đó sau khi định cư ở Mỹ mười năm có một người cháu đi học đại học và người cháu đó làm trong một tổ chức gọi là bảo vệ Tây Tạng, bênh vực cho Tây Tạng và cuối cùng thì người cháu dẫn vị này đến gặp Đức Dalai Lama và mở đầu quen sau đó trở thành Phật tử Mật Tông Tây Tạng, thì khi vị này theo Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng thì phải nói là vị này sùng tín Phật Giáo Tây Tạng đến mức cực độ, tức là tất cả cái gì liên quan đến Phật Giáo Tây Tạng đều là vĩ đại và các vị Lama đều là thần thánh hết. Thì có một lần vị đó đến gặp chúng tôi nói chuyện liên quan đến xã hội chứ không phải là về đạo giáo và khi gặp chúng tôi thì vị đó cũng bày tỏ là bây giờ vị đó cũng là một Phật tử đi theo Phật Giáo Tây Tạng, thì chúng tôi nhớ câu chuyện nhiều năm về trước cùng nói chuyện với nhau, gặp lại chúng tôi hỏi bây giờ sao đạo hữu có thể theo Phật giáo Mật Tông được, Phật Giáo Mật Tông họ cũng không ăn chay và cũng mặc quần không ống sao đạo hữu chấp nhận được, thì lúc bấy giờ ông nói "ồ! bây giờ Sư nói mới nhớ, tại sao chuyện đó hồi xưa có vấn đề mà bây giờ lại không có."

Thì thưa qúi vị, cái đó chỉ là cảm tính của con người , cảm tính con người rất là kỳ cục, hễ cái gì mình ghét thì mình tìm lý do để mình ghét nhưng hễ cái gì mình thương thì mình không để ý đến chuyện đó. Thành ra con người ở trong sự suy nghĩ trong ngôn ngữ mà có khả năng để tôn trọng sự thật chúng ta tạm gọi là khách quan một chút thì thật sự là chuyện khó chứ không phải là dễ, rất là khó, tại vì tính khí con người chúng ta là vậy nhưng mà một khi chúng ta có phê phán nặng nề với người khác thì chúng ta đừng nghĩ rằng người bị phê phán là nạn nhân khi mà mình không tôn trọng sự thật thì lời nói của mình là lời nói thiên vị là lời nói một chiều là lời nói không khách quan của mình, tự nó nó biến mình trở thành một nạn nhân. Người có trí thì hiểu như vầy là mình không nên biến mình thành nạn nhân.

Chúng tôi đã có rất nhiều năm thường hay cổ võ qúi Phật tử nên đi du lịch, không phải vì chúng tôi thích đi du lịch mà chúng tôi muốn người khác đi du lịch nhưng chúng tôi nhận thấy một điều là con người chúng ta có quá nhiều thành kiến, có nhiều định kiến, khi chúng ta đi tiếp xúc với nhiều văn hóa khác nhau thì cái đó sẽ giảm thiểu nhiều đi. Và khi đi du lịch chúng ta nhận thấy một điều rằng cái đối tượng mình ghét nhất thì không phải họ là nạn nhân mà chính cái sự thù ghét nó đã biến mình trở thành nạn nhân. Một người có trí thì không tự biến mình trở thành một nạn nhân. Chúng tôi thưa qúi Phật tử là thật ra kinh nghiệm đi du lịch đôi khi cho chúng ta những bài học rất lớn. Chúng tôi lấy ví dụ như cả thế giới thì dân tộc nào cũng có cái bịnh đó là mình ghét dân tộc này ghét dân tộc khác, người Pháp không ưa người Anh nhưng hồi Đệ Nhị Thế Chiến thì Người Anh sang giúp người Pháp, hay người Việt Nam với Cambuchia thì không thích nhau, hay người Việt Nam chửi người Tàu mặc dù mình học sách thánh hiền của Tàu v.v..., nói chung đó là do chúng ta gần nhau ảnh hưởng với nhau, người Đại Hàn họ cũng ăn sushi, họ cũng có nhiều cái bắt chước theo người Nhật nhưng họ lại rất ghét người Nhật. Thì đến một mức độ nào đó chúng ta nhận ra rằng sự ghét của chúng ta đối với người khác chỉ làm cho chúng ta sống hạn hẹp thêm, làm cho chúng ta phiền toái, làm cho chúng ta mất đi tánh cách khách quan. Sự khách quan là cái gì rất cần thiết để cho chúng ta có thể nói như vầy: mình thương người nào thì mình cũng biết được cái nhượt điểm của người đó, mà mình ghét người nào mình cũng biết được cái ưu điểm của người đó. Đó không phải là chuyện dễ.

Chúng tôi nhớ có một năm đi Ấn Độ, đi với một vị thầy và vị thầy này sau nhiều ngày đi qua Ấn Độ thì mấy người ăn xin và mấy người phục dịch trong khách sạn làm cho vị này bực mình quá thì vị này mới nói với chúng tôi rằng: "không hiểu sao ở bên Mỹ mấy người Ấn Độ họ qua Mỹ họ làm bác sĩ làm giáo sư, họ thông thái quá, nhưng mà sao mấy người ở Ấn Độ họ lại ngu quá." Nhưng điều buồn cười nhất là vị đó trong một lần cầm microphone ở trên xe bus mà có chúng tôi tại đó thì vị đó tuyên bố như vầy: "Tất cả những người Ấn Độ thông minh, một là họ vào trong rừng tu nhập Niết-bàn hết rồi, hai là qua Mỹ làm bác sĩ giáo sư, còn những người ở lại Ấn Độ đang điều hành toàn là những người ngu dốt." Tại vì vị này quá giận những người Ấn Độ. Nhưng mà thưa quí vị, khi thầy đó tức mà nói như vậy thì chúng tôi cũng phải nhìn nhận một điều là con người của chúng ta khi giận thì hay nói quá lời về chuyện gì đó. Thật ra thì ở xứ nào cũng có người này và người khác và chúng tôi cũng đồng ý là những người ăn xin hay một số người đi theo làm tiền khách du lịch thì cũng phiền thật. Nhưng nếu chúng ta nhìn ở một mặt khác, những người dân sống nghĩa là đại chúng khắp nơi họ vẫn có nhiều điểm mà chúng ta có thể học có thể cảm kích ở họ. Thành ra lời nói mà Đức Phật Ngài đặc biệt Ngài nói về lời nói như phẩn hay lời nói như hoa thì khác biệt ở chỗ là có tôn trọng sự thật hay không, thái độ khách quan của chúng ta rất là quan trọng..

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Đôi khi có một vài Phật tử tự hỏi một điều là tại sao những bậc cao tăng đó lại đặc biệt lưu tâm lui tới thường một số các gia đình mặc dầu những gia đình này ở rất xa, thì chúng ta có thể hiểu một cách rất dễ dàng là vì những gia đình này có đức tin rất là trong sạch và các Ngài rất hoan hỉ để được nói chuyện, được tiếp xúc, và được thăm viếng. Chúng tôi biết không phải là một gia đình mà nhiều gia đình như vậy ở tại Hoa Kỳ. Người xưa ở Việt Nam thường có câu nói rằng: "Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu" ở trong tầng lớp người nào thì thường thường thích hợp với người đó. Đối với đời sống của Chư Tăng nhất là những vị có một sự bén nhạy với quần chúng Phật tử thì hình ảnh của những người Phật tử phát tâm trong sạch, những người Phật tử giàu đức tin luôn luôn là hình ảnh rất khích lệ, một hình ảnh rất thân thương đối với những vị này, và ở đây Đức Phật dùng chữ thương tưởng.

TTGiác Đẳng - Lợi ích của lòng tin - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngô - Minh Triết Cho Đời Sống

Bài Thơ Cuối Cùng Của Hoshin


Thiền sư Hoshin sống ở Trung Hoa nhiều năm. Sau đó ngài về vùng đông bắc nước Nhật Bản, tại đây ngài dạy các đệ tử của ngài. Khi ngài quá già, ngài kể cho họ một câu chuyện ngài đã nghe được ở Trung Hoa. Đây là câu chuyện:
Một năm vào ngày hai muơi lăm tháng Mười Hai, Tokufu, đã rất già, nói với đệ tử của ngài: "Ta không sống nổi đến sang năm vậy các con hãy chăm sóc ta cho chu đáo trong năm nay."
Các đệ tử nghĩ rằng ngài nói đùa, nhưng vì ngài là vị thầy có tấm lòng cao cả cho nên mỗi người đệ tử của Ngài thay phiên chiêu đãi ngài trong những ngày của của năm sắp hết.
Vào đêm giao thừa, Tokufu kết luận: "Các con đã tử tế với ta. Ta sẽ xa các con vào chiều mai khi tuyết ngừng rơi."
Các đệ tử đều cười, nghĩ rằng ngài đã lớn tuổi nói năng lẩm cẩm bởi vì đêm đó quang đãng và không có tuyết. Nhưng vào nửa đêm tuyết bắt đầu rơi, và đến ngày hôm sau thì họ chẳng thấy vị Thầy của họ đâu nữa. Họ đi đến thiền đường. Ngài đã qua đời nơi đó.
Hoshin, người kể câu chuyện này, nói với các đệ tử của ngài: "Một thiền sư đoán trước ngày mình viên tịch cũng không phải là một điều cần thiết, nhưng nếu vị ấy thực sự muốn làm như vậy, vị ấy có thể làm được."
"Sư Phụ có làm được không ?" một đệ tử hỏi.
"Được chứ," Hoshin trả lời. "Ta sẽ cho các con biết ta có thể làm được những gì bảy ngày nữa tính từ hôm nay."
Không một đệ tử nào tin ngài, và hầu như họ cũng đã quên câu chuyện cho đến lần sau khi Hoshin gọi họ tụ họp lại.
"Bảy ngày trước đây," ngài nhắc lại, "Ta nói ta sẽ xa lìa các con. Theo lệ thường thì nên viết một bài thơ từ biệt, nhưng ta chẳng phải là thi sĩ cũng không là người viết thư pháp. Vậy một người trong các con hãy ghi lại những lời cuối cùng của ta."
Các đệ tử của ngài tưởng ngài nói đùa, nhưng một người trong bọn họ đã sửa soạn để viết.
"Con sẵn sàng chưa?" Hoshin hỏi.
"Dạ rồi, thưa Sư Phụ" người viết đáp lời.
Rồi Hoshin đọc:

Ta đến từ nguồn sáng
Và về với nguồn sáng.
Cái này là cái gì ?

Bài thơ thiếu một dòng nữa để trở thành một bài tứ tuyệt thường làm, vì vậy người đệ tử nói: "Thưa Sư Phụ, chúng ta thiếu một câu."
Hoshin, với tiếng gầm của một con sư tử chiến thắng, la lớn lên: "Kaa!" rồi ra đi. 

Chuyện Xưa Tích Cũ - Sự tích cá he hay cá nược


SỰ TÍCH CÁ HE HAY CÁ NƯỢC


Bên Phật giáo cũng có một chuyển kể về sự tích con cá Nược (còn gọi là cá He) như dưới đây (Sưu tầm được trên Net): 

Ngày xưa có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu luyện, sư thuộc lòng tất cả các kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi vẫn chưa được thành chính quả. Nhà sư bụng bảo dạ: “Phải đến đất Phật một phen mới có hy vọng thành Phật.” Nghĩ vậy, sư mới quyết chí tìm đường sang Tây Trúc. 

Ðường đi từ nước nhà sang Tây Trúc ngày đó chưa có cách nào cho thuận lợi. Việc giao thông hầu hết là bằng đường bộ, mà đi bộ thì thật là muôn vàn nguy hiểm. Nhưng nhà sư trẻ tuổi quả quyết nhằm hướng tây tiến bước. 

Cuộc hành trình đã được năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều lần lạc đường và mấy lần mê man vì sốt rét, nhưng nhờ được sự giúp đỡ nên đều qua khỏi, và vẫn cứ tiếp tục cuộc hành trình. 

Một hôm, sư đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi nghỉ vì trong người đã thấy ớn rét. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng thấy một ngôi nhà. Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sân. Sư tỏ ý định của mình là xin nghỉ nhờ một đêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách đã xua tay rối rít: -Ði mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng. 

Sư đáp: -Tôi bây giờ thật là kiệt sức, không thể nào bước được bước nữa. Nếu không cho tôi nghĩ thì cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi. 

Bà cụ bảo: -Chao ôi! Con ta vốn là Ác Lai hay ăn thịt người. Cố đi nhanh lên, bây giờ nó sắp về rồi đó. 

Nhưng sư đã vứt tay nải, nằm vật xuống đất. Hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay sư lôi vào trong nhà, bà cụ bảo sư phải cố giữ cho thật im lặng để tránh cái chết thê thảm. Ðoạn, bà cụ chất củi phủ lá rất kín đáo. 

Trời tối hẳn thì Ác Lai về đến nhà, tay xách một con mang. Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi. Hắn bảo: -Có mùi thịt mẹ ạ! 

Mẹ hắn đáp: -Thì chả là thịt mày mang về đây là gì? 

-Không phải, thịt người. Con biết lắm. Có thịt người. 

Bà cụ chưa kịp can thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm. Chả mấy chốc, hắn đã lôi được nhà sư ngủ say như chết từ dưới hầm nhà mình. 

Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy Ác Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát: -Mày đi đâu? 

Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì người thường bèn tỉnh táo đáp: -Tôi đi tìm Phật. 

-Tìm để làm gì? 

Sư bây giờ mới nói rõ mục đích của mình. Rồi luôn miệng, sư giảng giải đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể bao nhiêu ngày gian khổ của mình dọc đường, là làm sao được nhìn mặt đức Phật để được thành đạo. Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ác Lai đều cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên “vô sinh vô diệt.” sẽ sống sung sướng trên Niết Bàn, nếu họ kiên quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác lúc nãy bây giờ dịu lại. 

Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho sư. Họ lại tiến đưa sư đi qua một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, ác Lai hỏi: -Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây? 

Sư đáp: -Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm. Chỉ dâng tấm lòng mình là đủ. 

Sư không ngờ Ác Lai đã rút mũi mác nhanh như cắt, tự rạch bụng mình lôi ra cả một mớ gan ruột đưa cho sư và nói: -Nhờ hoà thượng đưa hộ dâng lên đức Phật. 

Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì Ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ biết làm thế nào đây. Cuối cùng sư ta đành nhìn vào cặp mắt của Ác Lai gật đầu, nhận lời rồi gói bộ lòng của con người đáng thương đó lại và quảy quả lên đường. 

Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, biển lộ ra trước mặt mênh mông bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư thì chẳng vui chút nào. Món lễ vật của Ðức Phật đè nặng lên vai. Nếu chỉ có thế thì không gì lo ngại cho lắm. Khổ một nỗi là mùi thối của bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư đã bọc nó ba tầng bốn lớp mà mùi thối vẫn nồng nặc. Sư lẩm bẩm: -Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình. 

Qua ngày hôm sau, không thể chịu nổi nữa, sư bèn vứt bộ lòng Ác lai xuống biển. 

Nhà sư đi mãi rồi cũng đến Tây Trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật Ðài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo: -Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả. 

Sư rất đỗi kinh ngạc, cố ngước mắt nhìn lên một tí. Trên cao vòi vọi sư thấy Ðức Phật ngự giữa toà sen sáng chói, sau lưng có bóng dáng hai người tựa hồ hai mẹ con Ác Lai. Sư bỗng hiểu hết: Ðức Phật đã rõ sự thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình rồi, còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ nhờ sự ngộ đạo đột ngột và chân thành trong phút chốc. Sư nằm phục vị hồi lâu, trong lòng hổ thẹn vô cùng. 

Nhà sư trẻ sau đó lại trở về chốn cũ tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông và sâu kín, nhưng sư cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai gửi cho mình. Sư nghĩ chỉ có làm thế mới dám nhìn lại mẹ con Ác Lai và hy vọng gần gũi toà sen Ðức Phật. Sư bơi lên lặn xuống mãi. Sau đó sư hoá làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he cũng gọi là cá nược hay có nơi gọi là cá ông sư. Vì cho đến ngày nay dòng dõi loài cá đó còn nào con nấy có cái đầu trọc như đầu ông sư và vẫn làm việc của nhà sư, nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn, không chịu nghỉ. 

Những người đánh cá còn nói loài cá he rất ghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu chọc nghĩa là gợi lại chuyện cũ của tổ tiên chúng nó, chúng nó sẽ làm đắm thuyền rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi, reo hò thì chúng sẽ lặn xuống nổi lên cho mà xem.

Cổ Học Tinh Hoa

THỔI SÁO
Vua Tuyên Vương nước Tề thích nghe sáo, và lúc nào muốn nghe, bắt ba trăm người cùng thổi một loạt. Trong ba trăm người ấy, có Đông Quách tiên sinh không biết thổi sáo, nhưng cũng lạm dự vào đây để kiếm lương ăn.
Đến khi vua Tuyên Vương mất, vua Mẫn Vương nối ngôi, cũng thích nghe sáo. Nhưng chỉ muốn nghe riêng từng người một mà thôi. Đông Quách tiên sinh thấy thế, tìm đường trốn trước.

Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Đông Quách tiên sinh : bấy giờ các nhà làm văn thường dùng bốn chữ này để chế nhạo những người vô tài mà lạm dự vào một địa vị nào. Chính nghĩa bốn chữ ấy là nhà thầy (tiên sinh) họ Đông Quách hay ở ngoài thành bên phía

Lạm dự: ăn may mà được hưởng một phần quyền lợi quá tài đức mình.
LỜI BÀN
Những kẻ vô tài, gặp may nhờ dịp, mà được làm quan, có khác gì Đông quách tiên sinh nói trong chuyện này? Những khi ồ ạt, gọi là có mặt cho đủ số, thì còn giữ được địa vị, chứ đến khi khảo sát từng người một thì tài nào mà không bị thải.

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Kiên và chim bồ câu


Kiến tìm xuống suối: nó khát nước. Sóng nước trào lên cuốn kiến đi và suýt nữa dìm chết nó. Bồ câu đang tha cành cây, chim nhìn thấy kiến chết đuối đến nơi, bèn thả cành cây xuống suối cho kiến. Kiến bò lên được cành cây và thoát chết. Về sau người thợ săn chăng lưới bắt bồ câu mái và sắp chụp tới. Kiến bò đến chổ người thợ săn, đốt vào chân bác ta. Người thợ săn giật mình đánh rơi lưới. Bồ câu cất cánh và bay thoát.

Chuyện cười trong ngày

Song sắt

Một phạm nhân hỏi cai tù:

- Sao cửa sổ ở đây lại có tới hai lớp song sắt vậy?

- Để đảm bảo chắc chắn hơn.

- Vớ vẩn thật, làm quái gì có đứa nào muốn vào đây ăn trộm cơ chứ!

Thursday, September 26, 2013

26-9-2013 Suy Niệm Trong Ngày


Phật Học Vấn Đạo - Vấn đề ẩm thực trong Phật Giáo

Hỏi:  Vấn đề ẩm thực trong Phật Giáo.

(Bài giảng trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, ngày 12-8-2013 Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Ở đây, có một số điểm về vấn đề ẩm thực trong Phật giáo xin được nhắc. Đây là một ttong những vấn đề tế nhị tạo ra rất nhiều tranh cãi nhưng nó cũng tạo ra nhiều cái thú vị cho chúng ta khi bàn về điểm này. 

Trước nhất, chúng ta nên nhìn vấn đề qua ba điểm chính rồi từ ba điểm chính này chúng ta sẽ đi vào những chi tiết.
- 1. Điểm đầu tiên, trong kinh điển Phật Pháp, Đức Phật Ngài khuyên chúng ta nên đi theo con đường trung đạo. Trung đạo là cái gì vừa phải không có cực đoan không có tuyệt đối quá. Chữ trung đạo ở đây hàm ý  phải làm thế nào mà không có quá dính mắc với thân nhưng cũng không quá bỏ bê trong việc giữ gìn sức khoẻ, thì đó gọi là vừa phải.

- 2. Từ quan niệm trung đạo chúng ta đưa đến một quan niệm khác gọi là dễ nuôi, tức là đời sống của một vị tu sĩ sống trong giáo pháp của Đức Phật không nên làm gánh nặng cho người khác. Thật sự mà nói thì trừ một vài trường hợp nào đó một vài vị tăng sĩ có được điều kiện đa phần đi xuất gia đời sống nhờ vào đàn tín, nhưng nếu mình luôn luôn làm gánh nặng cho người khác thì thật ra điều này không phải là điều tốt cho vị tu sĩ. Một vị tu sĩ đi đâu mà sự sống của mình trờ thành nỗi phiền cho người khác thì chẳng những là nó không đẹp mà còn làm mất đức tin cho người khác nữa. Nên Đức Phật Ngài dạy người tu sĩ nên sống dễ dưỡng dễ nuôi. 

Có nhiều người đạc biệt nghĩ rằng mình sống kiểu này là tốt kiểu kia là tốt và cứ sống một kiểu thôi và đôi khi gây ra khó khăn thì chúng ta nên hiểu rằng căn bản của người tăng sĩ như là một khất sĩ không phải là người có quyền lựa chọn. Nếu mình là một người tu sĩ sống nhờ vào tín thí mà mình đòi hỏi phải sống thế này đòi hỏi phải sống thế kia thì điều đó trở thành gánh nặng. Do vậy người tăng sĩ căn bản là người dễ nuôi.

- 3. Nhưng điểm thứ ba, chúng ta cũng nên hiểu là nếu trong vấn đề thực phẩm mà có sự trái trống lại với cơ thể, ví dụ mình có những món ăn làm cho mình ngứa nhiều, có những món ăn làm ảnh hưởng đến một cơ phận nào đó trong cơ thể chúng ta, ví dụ như ăn ngọt quá ảnh hưởng đến lá lách của chúng ta chẳng hạn, hay chúng ta ăn mặn quá thì làm áp huyết cao, những việc đó chúng ta nên giảm thiểu tức là mình làm sao đó lựa chọn thức ăn tương đối là thích hợp và sự lựa chọn của vị tu sĩ thay vì đòi hỏi thì vị tu sĩ có thể bớt đi những thứ mà mình không ăn được. Ví dụ, Phật tử cúng dường một mâm cơm thì có những thứ mình ăn được có những thứ mình ăn không được, cái nào ăn không được ví dụ như mình bị áp huyết cao mà thấy thức ăn mặn quá thì ăn món rau. Thực ra thức ăn của Việt Nam mình đa dạng. Một hình ảnh mà xem không được đẹp là, ví dụ như có những thứ chỉ có tánh cách vừa miệng thôi thí dụ như mình thích ăn ớt khi vào ăn mà không thấy ớt thì mình kêu người này người kia phải tìm ớt, rồi không có ớt thì mình cằn nhằn chẳng hạn thì đó không là hình ảnh của vị tu sĩ Phật Giáo, thay vì chuyện đó mình nghĩ là chuyện nhỏ nhưng căn bản mà nói thì một vị tu sĩ không nên đòi hỏi người ta phải cúng cái này cúng cái kia vừa khẩu vị của mình. 

Ý chúng tôi muốn nói ở tại đây là, cái nhìn của Đức Phật Ngài dạy mình là không nhất thiết cái gì người ta cúng mình cũng phải ăn hết cái mà người ta cúng mình, đó là quan niệm của người Trung Hoa, quan niệm của Phật Giáo Bắc Truyền, ở trong Phật Giáo Nam Truyền thì chuyện mình ăn không phải là ăn hết mà ăn cái nào thích hợp, còn cái không thích hợp thì mình không ăn và mình có quyền không ăn. Cái mình không ăn khác hơn là cái mình đòi hỏi là phải là cái này phải là cái kia. Thì đôi khi trên phương diện giới luật Đức Phật Ngài có uyển chuyển về điều này khi Ngài ban hành những học giới như vị Tỳ kheo không nên đòi hỏi là mình không nên nói là mình cần cái gì về thực phẩm nhưng nếu như vị Tỳ kheo bị bịnh thì có thể chấp nhận được. Chúng ta đọc ở trong kinh thì chúng ta thấy rằng Đức Phật Ngài dạy: một vị Tỳ kheo bịnh thì Ngài cho rất nhiều sự uyển chuyển.

Tuy vậy, căn bản đời sống của người tu sĩ Phật Giáo nên là dễ dạy, cuộc sống của mình mà nó làm nặng nề làm khó khăn cho người khác nhiều quá thì không có nên. Do vậy, đối với một vị tu sĩ Phật Giáo truyền thống thì điểm này là điểm còn quan trọng hơn. Vị tu sĩ khi ngồi ăn thì không nên khen không nên chê, Phật tử nào hỏi thì chỉ nên nói là "được" chứ không nên chê món này chê món kia, tại đó là vật cúng dường của tín thí. Và chúng ta nhớ một điều rằng căn bản của đời sống tu sĩ không thể nào mình đưa ra một cái lối sống đặc biệt một kiểu riêng đặc biệt mà áp dụng cho tất cả mọi người, mình nhớ là về điểm này tương đối là tế nhị, mình sống làm sao đừng là gánh nặng cho người khác.

Và có một vài điểm trong giới luật hồi xưa chúng ta không có hiểu và bây giờ thì từ từ chúng ta có thể nhận ra được, thật sự thì không phải mình ăn thức ăn bổ dưỡng mà nó khỏe, theo Đức Phật dạy thì ăn điều độ là cách khỏe nhất và kinh nghiệm này chúng tôi cũng được nghe nhiều vị nói về những người sống trường thọ, không phải là họ cần đến những thức ăn cao lương mỹ vị hoặc sơn hào hải vị mà họ sống lâu, mà họ ăn không quá ít không quá nhiều và ăn vào giờ cố định trong ngày không ăn vặt nhiều, khi ăn điều độ thì khỏe, ở trong kinh Đức Phật Ngài quan trọng điều này hơn là những điều khác. 

Thật ra cách sống  ngày hôm nay chúng ta không quan trọng sự điều độ, điều độ ở đây nghĩa là được hiểu theo ba cách:
 - Cách thứ nhất là ăn đúng giờ, ví dụ như ngày hôm nay mình ăn 12 giờ thì ngày mai cũng ăn vào lúc 12 giờ, đến giờ đó cơ thể chúng ta tự nó tiết ra chất dịch dưỡng để nó tiêu hóa, gọi là ăn đúng giờ. 
 - Thứ hai là ăn đúng lượng, theo trong kinh Đức Phật dạy là mình không nên ăn quá no, giả sử như còn ba bốn miếng cơm nữa no thì mình nên ngừng lại là ăn đúng lượng. 
 - Thứ ba, ở trong kinh cũng có dạy đến một điều mà chúng ta thấy bây giờ càng lúc người ta càng đồng ý, hồi xưa không đồng ý là nên ăn buổi sáng nhưng nên giảm bớt ăn buổi tối thật ra cuộc sống của chúng ta ảnh hưởng người Tây Phương thời gian dài chúng ta quan niệm rằng mình sống theo người Tây Phương là tốt nhưng bây giờ thì người Tây Phương họ cũng đồng ý là ăn buổi tối nhiều nó không tốt cho cơ thể, cơ thể nên nhẹ nhàng vào buổi tối nhưng buổi sáng thức dậy thì nên ăn uống đầy đủ, hồi còn nhỏ thì chúng tôi không biết về điểm này, thường thường có nhiều khi cũng nghe những lời chê phê phán là tại sao không ăn buổi chiều ăn buổi chiều là tốt nhưng về sau này thấy rằng ăn buổi chiều không tốt như là ăn buổi sáng, nhiều người Tây Phương họ cũng đồng ý về điểm đó. 

 Đức Phật Ngài có dạy một số phương pháp liên quan đến sức khỏe mặc dầu Ngài không muốn cho các vị tỳ kheo để ý quá nhiều về sức khỏe, ví dụ như là Ngài dạy là giữ răng sạch, miệng sạch thì ăn ngon miệng hơn và nó dễ tiêu hóa hơn, răng với miệng không sạch thì ăn không có tiêu hóa. Ngày xưa nước Ấn Độ người ta xử dụng những cây trà răng, ở Mỹ thì chúng tôi không biết,  ở Việt Nam có cây xoan cây sầu đông, mình chặt nhánh và đập tưa ra thì cũng trà răng được và ở trong đó có chất fluoride có thể làm thuốc đánh răng được, bây giờ chúng ta có thuốc đánh răng nên cũng tốt. Tong kinh, Đức Phật dạy nếu chúng ta muốn sức khỏe tốt thì chúng ta nên giữ răng và miệng sạch. 

 Thứ hai nữa đó là, ở đây chúng tôi không nói hết được nhưng chúng tôi nói một số điểm liên quan đến dưỡng sinh Đức Phật Ngài dạy. Hồi nãy chúng tôi nói là ăn uống điều độ tức là ăn uống đúng thời, bữa nay ăn giờ đó mai ăn cũng giờ đó mốt ăn cũng ăn giờ đó luôn luôn vào giờ đó ăn là tốt. Ăn đúng lượng, tức là ăn không quá no, rồi giữ răng sạch sẽ, Đức Phật Ngài dạy là ăn xong thì mình đi kinh hành tốt cho sức khỏe, đi kinh hành là cách đi chậm chậm, vừa đi vừa chánh niệm, thay vì ăn xong nằm ngủ liền hay ngồi liền thì Đức Phật dạy ăn đi kinh hành đi bộ là sống lâu. Đó là một cách mà Đức Phật dạy dưỡng sinh.

(Những điều chúng tôi nói ở tại đây nếu qúi vị nào cần tham khảo chúng tôi có thể cho biết xuất xứ ở trong các bản kinh để quí vị biết trong kinh Đức Phật Ngài có dạy như vậy.)

Đức Phật Ngài cũng dạy rằng ăn cháo vào buổi sáng rất là tốt, hồi trước chúng tôi không biết điểm này nhưng sau này chúng tôi mới biết là một cách để tăng appetite (sự ngon miệng) là ăn cháo, giả xử như buổi sáng sớm thì buổi chưa mình cảm thấy mau đói, qúi vị để ý buổi sáng không ăn gì hết thì buổi trưa chưa chắc mình đã thấy đói bụng nhưng mình ăn cháo khoảng 10, 11 giờ mình thấy đói bụng tại vì cháo giúp cho bộ tiêu hóa của chúng ta làm việc, và làm chúng ta mau đói và chúng ta ăn dễ hơn ăn thấy ngon miệng hơn, Đức Phật dạy ăn cháo là một điều tốt liên quan đến sức khỏe.

 Về phương diện dưỡng sinh trong kinh cũng đề cập tắm rửa sạch sẽ cũng làm cho mình sảng khoái, làm tăng trí tuệ và cũng làm cho mình giữ được sự tươi tỉnh. Nhưng cũng có một điểm như vầy là thời xưa bên Ấn Độ có những nơi như ở thành Vương Xá nước không có nhiều, nếu Chư Tỳ Kheo đôngtắm nhiều thì các vị vua chúa các vị hoàng thân và dân chúng không đủ nước tắm, ngày xưa họ kính trọng Chư Tăng khi Chư Tăng đi tắm thì họ không ra đó tắm thành ra chiếm quá nhiều thì giờ do vậy Đức Phật Ngài đặc biệt ban hành giới luật hạn chế sự tắm của Chư Tăng. Nhưng khi hạn chế không phải là vì ít tắm là tốt mà tại vì ở chỗ thiếu nước, Đức Phật Ngài cho biết ở ngoài những nơi nào khang hiếm về nước thì Chư Tỳ kheo có thể tắm được như ở các quốc gia khác  nếu có đầy đủ nước thì tắm được. Nói tóm lại, những điều giới luật Đức Phật ban bố là tắm một tháng bao nhiêu lần thì chỉ có trong miền Trung Ấn mà thôi chứ ra ngoài Trung Ấn thì không có áp dụng. 

 Liên quan đến sức khỏe Đức Phật Ngài cũng dạy là theo lời yêu cầu của thái y Jivaka là vận động tay chân, dĩ nhiên, vị Tỳ kheo không làm việc không vận động tay chân như là quét dọn hay là chấp tác ở trong chùa thì Đức Phật cũng khuyên nên vận động tay chân. Chúng ta để ý ở trong kinh điển của Đức Phật về sức khỏe mang tính trung đạo nghĩa là chúng ta không quá chăm sóc như là lưyện võ, hay luyện yoga, luyện khí công để cho cơ thể chúng ta trở thành một lực sĩ cường tráng hay người vận động viên chuyên nghiệp, Đức Phật không dạy như vậy, nhưng Đức Phật Ngài cũng dạy là chúng ta không nên coi thường hay  bỏ phí sức khỏe hủy hoại sức khỏe của chúng ta mà ở đây có tánh cách trung đạo. Một người hiểu về Phật Pháp thì chữ trung đạo không đơn giản mà là bài học chúng ta phải nghiền ngẫm lâu lắm từ vấn đề thân cho đến tâm.
  Trong những bài học tới chúng ta sẽ nói nhiều về vấn đề này, nhưng chúng tôi cũng lưu ý qúi vị là ngày hôm nay người ta nói lung tung lắm, ngay cả chúng tôi có quen với một số Phật tử dạy võ Thiếu Lâm thì họ nhất định là võ Thiếu Lâm do tổ Đạt Ma sáng lập và võ Thiếu Lâm xuất phát từ Phật gia tức là từ nhà Phật, thậm trí họ nói Phật tổ Thích Ca Mâu Ni là vị đầu tiên dạy võ rồi sau này truyền sang Trung Hoa thành võ Thiếu Lâm, thì chúng tôi nghĩ chuyện đó hơi quá, hay mình đi tu rồi tối ngày cứ lo làm sao cho cơ thể mình được trường sinh bất tử được khỏe mạnh được thế này thế kia thì Đức Phật không dạy như vậy, mình nên hiểu mục đích để làm gì, minh giữ thân của mình là để mình nương vào phương tiện đó để tu tập, giống như có chiếc xe mình nên bảo quản nó tốt để mình sài, nhưng cũng không nên o bế nó từ sáng tới chiều cưng nó quá thì cũng không nên. Điểm này tương đối là tế nhị. Người sống biết hiểu về trung đạo khó lắm, chúng ta có tính cực đoan hễ mình làm thì mình làm không ai bằng mà hễ mình bỏ thì mình bỏ xó nó mình không muốn đụng tới, thì cả hai điều đó đối với sức khỏe Đức Phật Ngài khuyên không nên như vậy, không nên quá hoang phí sức khỏe của mình nhưng cũng không nên quá coi thường sức khỏe.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử

Chúng ta nên tự tâm niệm với chính mình vào buổi sáng hay buổi chiều trước khi chúng ta hành một pháp môn nào đó. Sau khi tự nhắn nhủ như vậy rồi, chúng ta khởi lên một cái tâm quyết rằng ta sẽ cải thiện lại, không để cho lỗi lầm xâm chiếm, không để cho vi phạm những lỗi lầm tiếp tục nữa. Khởi lên tâm niệm như vậy rồi thì chúng ta lại phải trú vào một đề tài, một đề mục tu tập. Đức Phật ngài dạy rằng hằng ngày phải tùy  niệm bốn hoặc là sáu pháp môn như là: tùy niệm ân đức Phật, niệm ân đức Pháp, niệm ân đức tăng, niệm ân đức của sự bố thí, trì giới hoặc là niệm ân đức của quí vị chư thiên, công hạnh của các vị chư thiên rồi đem so sánh với mình hay chúng ta niệm về trạng thái tịch tịnh v.v. hoặc là ta tùy niệm bốn pháp, niệm Phật, niệm tâm từ, niệm thân thể trược, niệm về cái chết là những đề tài mà ta phải thường xuyên tâm niệm, phải thường xuyên nhớ tưởng suy xét.

TTTuệ Siêu - Nói mà không làm không có giá trị - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Cho Đời Sống

Lời dạy quan trọng nhất
Một vị Thiền Sư nổi tiếng nói rằng lời dạy cao qúi nhất của ông ta là: Phật là tâm của bạn. Ý tưởng này đã tạo ấn tượng thật là sâu sắc, đến nỗi một vị sư đã quyết định rời tu viện và sống ẩn dật tại vùng hoang vu để tu tập thiền định theo sự nhận xét này. Sư đã trải qua 20 năm như là nhà tu khổ hạnh nhằm phát hiện sự thật lời dạy cao qúi này.
Một ngày nọ Sư gặp một vị hành giả đang đi xuyên qua khu rừng. Nhanh chóng vị Sư khổ hạnh nhận ra vị Sư này cũng đã từng học chung dưới chân vị Thiền Sư. "Làm ơn, nói cho đệ biết sư huynh biết gì về lời dạy cao cả của Sư Phụ." Mắt của vị hành giả sáng lên, "Ah, Sư Phụ đã rất rõ ràng về điều này. Sư Phụ nói rằng lời dạy cao qúi của Ngài là: Phật không phải là tâm bạn.

Chuyện Xưa Tích Cũ - Con cá nược


CON CÁ NƯỢC

Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Thuở xưa, ở thành phố nọ có người đàn bà gian giảo, sống bằng nghề bắt mối các ghe từ phương xa đến. Lắm người phải sạt nghiệp vì giọng đường mật của bà.

Hay tin có chuyến ghe hàng đến, bà lập tức đi tìm chủ ghe. Để tỏ lòng thành thật, bà mời chủ ghe lên nhà ăn cơm cho vui. Tàn buổi cơm bà nói: -Trong nhà tôi còn vài món đồ quý. Là bạn thân thiết, đem ra cho anh xem thử.

Món đồ quý giá ấy là một nải chuối và một con rùa đúc bằng vàng ròng.

Người chủ ghe khen ngợi, ao ước những món ấy. Bà ta trả lời: -Tôi không thể nào cho người ngoài được. Anh chị chịu phiền.

Đêm đó, bà ta lẻn đem nải chuối và con rùa vàng giấu dưới ghe của người khách nọ. Chừng hừng sáng, bà tri hô: -Mấy món đồ quý trong nhà tôi mất hết rồi. Chắc chắn là mấy người dưới ghe này ăn cắp của tôi.

Chủ ghe cãi lại. Bà ta mời làng xã tới làm chứng. Hai đàng cam đoan như vầy: “Nếu bà ta khai gian thì tất cả tài sản của bà sẽ bị chủ ghe tịch thâu. Nếu chủ ghe ăn cắp thiệt thì bà ta sung công tất cả ghe hàng nọ, bắt chủ ghe làm tôi tớ.”

Sau khi khám xét dưới ghe, chủ ghe chưng hửng vì mình không ăn cắp mà cớ sao mấy món đồ nằm trong ghe mình. Biết mình mắc mưu bà nọ, chủ ghe đành chịu cảnh phá sản.

Anh chủ ghe vô cùng tức giận. Sau khi suy nghĩ kỹ, bèn gởi thơ lén cho người vợ rằng: “Anh bây giờ nghèo nàn, bị làm tôi tớ cho người ta. Mình phải sắm chiếc ghe khác, chở đầy hàng hóa, trương buồm tới đây làm như vầy, như vầy …”

Nhận được bức thơ, người vợ làm đúng lời, sắm ghe chở hàng đem theo một người thợ bạc có mang sẵn ống bể, than, lò. Anh thợ này giả dạng là bạn chèo ghe.

Chừng đến chợ, bà “đầu nậu.”gian tham ăn quen thói cũ, xuống ghe làm giá rồi mời khách lên nhà ăn cơm, đem con rùa và nải chuối bằng vàng ra khoe khoang. Đêm đến, bà ta cho người đem hai món đồ quý giá đó giấu dưới ghe của khách. Nhưng chủ ghe đã hay trước, giả đò không hay biết.

Chờ bà ta lên bờ, dưới này anh thợ bạc nghề, thổi ống bể lên, nấu chảy nải chuối và con rùa lại thành vàng nén. Xong xuôi anh này thảy đồ nghề xuống biển để phi tang.

Sáng hôm sau, bà “đầu nậu.”tri hô, mời bà chủ ghe lại cam kết, đặt ra mấy điều kiện như trước.

Chừng làng xã khám xét dưới ghe thì ô hô! Tuyệt nhiên không thấy nải chuối và con rùa nọ. Bà đầu nậu thua cuộc, phải đi theo làm đầy tớ cho bà chủ ghe, tất cả tài sản đều bị tịch thâu chở đi.

Người vợ vô cùng mừng rỡ, được tái hiệp với chồng. Dọc đường, bà đầu nậu nọ tức mình vì thua trí người khác nên nhảy xuống biển mà tự vận. Trước khi chết, bà ta ráng trồi lên hụp xuống để nhìn bao nhiêu của cải bị tịch thâu chở trong ghe. Bà ta hóa ra con cá nước.

Ngày nay, trên sông cái, ngoài biển, chúng ta thường thấy loài cá này có vú như người đàn bà, lặn hụp bên cạnh các ghe xuồng, lâu lâu thở dài, hú lên như oán giận, tiếc của.