Saturday, November 30, 2013

30-11-2013 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Tại sao tim cái khổ trong nỗi khổ?

Hỏi: Tại sao tim cái khổ trong nỗi khổ? 

(Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Sống trong cuộc đời này chúng ta có một nguyện vọng và cùng với nguyện vọng đó chúng ta tìm ra một cách sống, tìm ra một phương pháp để thành tựu được điều này thì có lẽ là một trong những hạnh phúc rất lớn, nhưng nó cũng sẽ là một điều mòn mỏi nếu chúng ta không tìm ra được một giải pháp, chúng ta không tìm ra được một phương hướng như là Đặng Dung hình ảnh của một tráng sĩ mà suốt cuộc đời bất đắc chí khi tóc trên đầu đã bạc rồi thì nhìn thấy rằng mộng bình sanh của mình chưa thành tựu được, "Thù trả chưa xong, đầu đã bạc, dưới trăng bao độ tuốt gươm mài" hình ảnh đó cũng là một hình ảnh khác nói về thân phận của kiếp người mà mộng bình sinh chưa thoả và vẫn chưa tìm ra được một câu trả lời cho những bí ẩn của cuộc sống. 

Chúng ta những người sống trong bể trầm luân sanh tử nghe câu nói này như là một hình ảnh, hình ảnh đó chỉ nói lên một thứ của sự bế tắc, hình ảnh đó là hình ảnh không lối thoát, nhưng với một thiền giả một người tu tập thì điều này lại cho chúng ta một ý niệm tương đối gần hơn. Cái ý niệm gần hơn ở đây là nếu trong đời sống hàng ngày mà chúng ta có phải đối diện với điều trái ý nghịch lòng và trong điều trái ý nghịch lòng đó chúng ta lại đi từ cái phiền lụy này sang cái khổ ải khác, chúng ta đi từ gánh nặng này sang cưu mang thương đau khác, thì chúng ta phải tự hỏi rằng chúng ta có khéo hay không khéo. Nếu chúng ta đã khéo thấy, đã khéo suy tư thì sự việc phải khác đi, nhưng nếu chúng ta càng nghĩ thì càng bế tắc, càng suy nghĩ thì chúng ta càng cảm thấy mệt mỏi, điều đó chứng tỏ rằng chúng ta đang rơi vào trong chỗ bế tắc, về điểm này thì đối với các vị thiền sư đối với những người hành thiền lại có một ý nghĩa thật sự rất là sâu sắc.

Ngài Ajahn Liam một vị thiền sư được truyền thừa phương pháp tu tập của Ngài Ajahn Cha có một lần chúng tôi được nghe Ngài thuyết pháp và Ngài dùng một thí dụ, Ngài nói rằng: "Có những người mà trong cuộc sống này họ giống như một kẻ đi bộ, đi dọc đường thấy tảng đá nào cũng muốn chất lên vai, gánh như vậy không trách chi nặng nề." Với một người đã thiền định rồi thì bất cứ một điều nào mà chọn ý niệm này để làm đề tài ngày hôm nay là khổ trong nỗi khổ. Tại sao khổ trong nỗi khổ? bởi vì cái phản ứng của chúng ta đối với nỗi khổ nó làm cho chúng ta khổ thêm, phản ứng đó không cho chúng ta được một chút trí tuệ soi sáng nào, khổ đó không làm cho chúng ta khả dĩ có thể an lạc hơn, mà cái khổ đó chỉ làm cho chúng ta cảm thấy tồi túng, cảm thấy ngộp thở, vì sao vậy? Bởi vì tự mình lại tạo thêm sự căng thẳng cho mình.

 Đức Phật  đề cập đến luân hồi, luân hồi ở trong đầu óc của chúng ta nghĩa là kiếp này sang kiếp khác, đời này sang đời khác, cuộc trầm luân sanh tử, nhưng không hẳn chỉ có vậy, không hẳn chỉ có trầm luân sanh tử đời này qua đời khác và ngay cả ở trong kiếp sống này nếu chúng ta không khéo chuyển hoá, nếu chúng ta không khéo thấy, không khéo nhận định về đời sống thì chúng ta cũng truyền từ cành cây khổ đau này sang cành cây đau khổ khác, bởi vì chúng ta không có một ý thức trong sáng về cuộc đời.

Chúng tôi lấy một ví dụ là những gì mà chúng ta mong muốn thường làm cho chúng ta bị căng thẳng, và có rất nhiều sự căng thẳng khủng khoảng của đời sống bởi vì chúng ta quá muốn một điều gì đó. 

Có mot lan chúng tôi có nói chuyện với một Phật tử đến chùa, Phật tử đó bày tỏ cho chúng tôi biết một tâm trạng hết sức là rối ren ở trong gia đình không làm vừa lòng ai hết, mẹ cũng trách, vợ cũng trách, anh chị em cũng trách và bản thân của mình thì đi làm lương có hạn, thì giờ có hạn, và khả năng có hạn, không biết phải làm vừa lòng ai và không biết ai thật sự làm vừa lòng mình. Chúng tôi nói với đạo hữu này là :

 "Nếu anh tiếp tục tự mình làm cho mình phải lo lắng như vậy thì tình hình từ chỗ tệ này đến chỗ tệ khác, nó sẽ tệ hơn, thay vào đó anh nên tìm lại một chút gì thanh thản cho mình, tụng kinh đi, nghe pháp đi và làm những gì mà anh cảm thấy có thể làm được để trả mình về với sự thanh thản, và chỉ có sự an lạc, chỉ có một chỗ đứng vững vàng của nội tâm thì mình mới có thể chuyển hoá được đời sống, còn nếu mà mình tiếp tục để gỡ rối, và đi từ cái rối này qua cái rối khác thì không bao giờ chúng ta có thể gỡ được". 

Ở trong cuộc sống này hình như mỗi chúng ta thường gặp rất nhiều vấn đề không có lối thoát, cái không có lối thoát này chúng ta quy vào chánh quyền, chúng ta quy vào cho xã hội, chúng ta quy vào hoàn cảnh kinh tế và chúng ta quy vào những người ở chung quanh, sự quy trách này không làm cho chúng ta khá hơn mà nó làm cho đời sống chúng ta tệ thêm, khi đời sống chúng ta tệ thêm bởi vì sao chúng ta không có lối thoát, chúng ta cứ nghĩ rằng: À! cái nỗi khổ trong lòng của mình là do ai đó, là do nguyên nhân A, nguyên nhân B, mà tất cả những nguyên nhân này đều hoàn toàn nằm khỏi tầm tay của mình và bởi vì nó nằm ngoài tay của mình nên chúng ta càng lúc càng bực bội hơn.

Với một người thiền định thì có thể dễ dàng nhận ra rằng hầu hết có thể nói là bảy tám mươi phần trăm những căng thẳng ở trong mỗi chúng ta đều do cái nhìn mà Đức Phật gọi là:

 "Yoniso manasikara - cái nhìn không khéo cái nhìn không như thật '.

 Và cái nhìn đó Đức Phật trong một lần khác Ngài dạy rằng giống như một người đã bị mũi tên rồi tự họ chuốt lấy một mũi tên thứ hai. Một người đã bị một nỗi bất hạnh và trong sự cảm nhận về sự bất hạnh là mình lại tạo cho mình sự bất hạnh khác. Phản ứng của chúng ta thường là phản ứng không khôn ngoan ở trong đời sống này, và chính vì vậy càng lúc càng dẫn chúng ta đến chỗ bế tắc đến chỗ phiền lụy hơn, chứ không nhìn thấy một ánh sáng làm cho đời sống của mình rạng rỡ ra, không tìm thấy một niềm hy vọng để cho đời sống mình thư thả hơn. 

Người xưa thường nói rằng: "Đa thọ thì đa nhục", càng sống lâu thì càng thấy tủi hổ nhiều. Điều đó không những chỉ nói đến sự nhục nhã khổ lụy mà nó còn nói đến là cuộc sống của chúng ta càng chất chứa lâu ngày thì chúng ta càng rối rắm, trong sự rối rắm đó chúng ta cảm thấy kiếp người không mang lại cho chúng ta bao nhiêu niềm hạnh phúc thật sự, và điều này là một điều hết sức là nguy hiểm.

Kiếp người sáng thức dạy chiều tối đi ngủ chúng ta lẩn quẩn từ sự lẩn quẩn này sang sự lẩn quẩn khác, và trong sự lẩn quẩn đó phải nói rằng chúng ta càng lúc càng mòn mỏi bởi vì không có lối thoát, cái không lối thoát này là bởi vì chúng ta không tìm thấy được cái sinh lộ của đời sống mình.

 Không phải ai cũng thấy kiếp người ngắn ngủi, cuộc sống nhiều lắm là một trăm năm với một số người thì không đủ để làm những công việc đáng làm đáng sống, nhưng mà có những kiếp người thì phải dùng chữ gọi là lê lết kiếp trăm năm, lê lết kiếp trăm năm là trong một kiếp vài ba mươi năm thật sự sống của cuộc đời họ cảm thấy đời sống quá dài, chỉ mong muốn rằng thời gian trôi qua mau và mình có thể rời khỏi kiếp này như là trút đi một gánh nặng, bởi vì người đó không tìm thấy một lẽ sống chân thực của kiếp người./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Chúng tôi lấy một ví dụ như sống ở trong một ngôi chùa hay trong một gia đình, không phải là vì ông nội bà nội hay không phải là vì một vị trưởng lão đó đẹp vị  đó sang mà vị đó cao qúi, mà chính những giá trị  vị đó gìn giữ mới là cao qúi. Và cái giá trị chúng ta gọi là giá trị cũng được, gọi là nguyên tắc cũng được, gọi là Pháp cũng được, nhưng những điều đó khi được thể hiện được tồn tại nói lên chân giá trị của đời sống.
Chúng ta có một đạo tràng, có một pháp hội, có một lớp học Phật Pháp ở tại đây, nếu chúng ta vào nơi này mà chúng ta không có cái biểu chuẩn là lấy Tam Tạng Pali làm chuẩn, không có sự tôn kính lẫn nhau theo hạ lạp, theo Pháp mà Đức Phật đã dạy, mình gặp nhau mình không có đặt nặng với nhau về cái giá trị của thiện pháp, chúng ta không có nguyên tắc, chúng ta xô bồ mạc cưa mướp đắng thì chúng ta làm giống như một cái chợ, thì thật sự không có giá trị gì hết. Giá trị của tồn tại là chúng ta gìn giữ một số nguyên tắc của Đức Phật gọi là Pháp.

TT Giác Đẳng - Y Chỉ Chánh Pháp - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

Tác Phẩm Của GiSho

Gisho được chấp nhận làm ni cô lúc mười tuổi . Gisho nhận sự giáo huấn như những chú tiểu khác . Khi được mười sáu tuổi , Gisho viếng từ Thiền sư này đến Thiền sư khác để học với họ .

Gisho lưu lại với Inzan ba năm , với Gukei sáu năm nhưng vẫn không đạt được giác ngộ.
Inzan chẳng phân biệt Gisho là người khác phái chi cả . Ông mắng nhiếc Gisho như mưa bão . Inzan đã tát Gisho để đánh thức bổn tánh của Gisho . Gisho ở lại với Inzan mười ba năm , và Gisho đã tìm được cái mình muốn tìm !

Ðể tôn vinh Gisho , Inzan viết một bài thơ :

Ni cô này đã theo học sự hướng dẫn của ta mười ba năm.
Buổi sáng cô ta xam xét một công án sâu xa nhất.
Buổi chiều cô ta dấn thân vào một công án khác.
Tetsuma , ni cô Trung Hoa , đã vượt qua tất cả trước Gisho.
Và kể từ Mujaka , không ai có chân tài như Gisho này .
Hẳn còn nhiều cửa nữa để Gisho vượt qua.
Gisho sẽ còn nhận nhiều cú đấm của bàn tay sắt ta .

Sau khi giác ngộ , Gisho đến tỉnh Banshi , bắt đầu sống trong một ngôi đền riêng và dạy hai trăm ni cô khác cho đến khi Gisho qua đời vào tháng tám một năm nọ .

Chuyện Xưa Tích Cũ - Con mèo của Cống Quỳnh


CON MÈO CỦA CỐNG QUỲNH

Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Trong cung vua có nuôi một con mèo rất đẹp, cổ mèo được cột một sợi xích vàng, nhà vua cưng mèo như của quý. Một hôm, Cống Quỳnh thấy con mèo của vua thì khoái ý, không phải Cống Quỳnh có lòng tham, mà vì muốn khuấy phá nhà vua để cười chơi.

Cống Quỳnh liền lẻn vào cung nhà vua rình đánh cắp được con mèo đem về nhà, tháo sợi xích vàng giấu đi, lấy dây luộc buộc vào cổ mèo. Thường bữa ông Cống Quỳnh bày ra hai dĩa đồ ăn, một dĩa toàn món ngon và một dĩa có đầu tôm, xương cá, cơm thừa canh cặn. Xong rồi ông thả con mèo ra, chờ nó mon men tới dĩa đồ ăn ngon thì ông đánh đập dữ tợn, còn nếu nó tới bên dĩa cơm thừa canh cặn thì ông để yên cho nó ăn. Lâu ngày thành thói quen.

Bị mất con mèo, nhà vua cho đi lùng kiếm tở mở. Có người thấy ở nhà Cống Quỳnh có một con mèo giống rặc con mèo của vua nên tâu cho vua rõ. Nhà vua vốn biết cái tánh rắn mắt của Cống Quỳnh, lại biết ông hay phá phách đầu này đầu kia nêu kêu Cống Quỳnh đến hỏi: -Khanh có bắt con mèo đeo xích vàng của trẫm để đùa chơi, xin cho lại trẫm, trẫm quí nó lắm.

Cống Quỳnh hỏi nhà vua: -Mất mèo sao bệ hạ nghi cho tôi?

-Vì có người thấy con mèo trong nhà của khanh.

Cống Quỳnh cãi lại ngay: -Kẻ đó ăn nói hàm hồ, chớ con mèo đó là con mèo của tôi nuôi.

Nhà vua nhất định đó là con mèo của mình, còn Cống Quỳnh thì bảo con mèo của ông. Đôi bên lời qua tiếng lại. Rốt cuộc Cống Quỳnh nói với vua: -Xin bệ hạ hãy triệu các đình thần vào chầu, tôi sẽ có cách làm cho tỏ rõ, mèo của bệ hạ hay mèo của tôi.

Đó rồi nhà vua cho tập họp đình thần lại đông đủ. Cống Quỳnh nói: -Xin các quan làm chứng cho.

Nói rồi ông xin nhà vua đem ra hai dĩa cơm, một dĩa toàn món ngon vật lạ, một dĩa cơm thừa canh cặn. Trước khi thả mèo, Cống Quỳnh nói với các quan: -Bây giờ muốn biết mèo của vua hay mèo của tôi rất dễ. Mèo của vua chỉ ăn toàn món ngon vật lạ, còn mèo của tôi chỉ biết cơm thừa canh cặn. Vậy các quan làm chứng cho.

Đoạn Cống Quỳnh thả con mèo ra. Đã tập quen rồi nên khi buông ra, con mèo đi ngay lại dĩa cơm thừa canh cặn. Cống Quỳnh reo lên vui sướng, ôm con mèo về nhà.

Cổ Học Tinh Hoa

CHUYỆN A LƯU

A Lưu là một tên tiểu đồng nhà ông Chu Nguyên Tố. Nó thực là ngây ngô, không được việc gì cả, mà ông Nguyên Tố vẫn nuôi nó suốt đời.

Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch được một cái buồng con. Ông giận mắng, thì nó quăng chổi xuống đất, lẩm bẩm nói: "Ông quét giỏi, thì ông phiền tôi làm gì!"

Khi ông đi đâu vắng, sai nó chực ngoài cửa, dù khách quen đến, nó cũng không nhớ được tên ai. Có hỏi, thì nó nói: "Người ấy lùn mà béo. Người ấy gầy mà lắm râu. Người ấy xinh đẹp. Người ấy tuổi tác và chống gậy..." Ðến lúc nó liệu chừng không nhớ xuể, thì nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa.

Trong nhà có chứa một ít đồ cổ như chén, lọ, đỉnh, đôn. Khách đến chơi, nó đem bầy ra cho xem. Lúc khách về, nó lén đến gõ các thứ ấy, mà nói: "Những cái này có khi bằng đồng mà sao nó đen xì lại như thế này!" Rồi nó chạy đi lấy cát, lấy đá, lấy nước để đánh. Nhà có cái ghế gãy chân, ông sai đi chặt cành cây có chạc, để chữa lại thì nó cầm búa, cầm cưa đi khắp vườn. Hết ngày, về, nó chìa hai ngón tay làm hiệu mà nói: "Cành cây có chạc đều chỉa trở lên cả, không có cành nào mọc chúc xuống đất." Cả nhà ai cũng phải phì cười.

Trước sân có vài cây liễu mới trồng. Ông sợ trẻ láng giềng đến nghịch hỏng, sai nó trông nom giữ gìn, đến lúc nó vào ăn cơm, thì nó nhổ cả cây lên mà cất đi một chỗ.

Công việc nó làm, nhiều chuyện đáng bật cười như thế cả.

Ông Nguyên Tố là một người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giỏi lắm. Một hôm, ông hòa phấn với mực để vẽ, thấy A Lưu đấy, nói đùa với nó rằng: "Mày có vẽ được không?"

A Lưu đáp: "Khó gì mà không vẽ đươc." Ông bảo vẽ thì A Lư vẽ nét đậm, nét nhạt, nét xa, nét gần, như người xưa nay vốn đã biết vẽ. Ông thấy vậy thử luôn mấy lần, lần nào A Lưu vẽ cũng được như ý cả.

Tự bấy giờ, ông dùng dến A Lưu luôn không lúc nào là rời ra nữa. Sau A Lưu nổi tiếng là một nhà danh họa.

GIẢI NGHĨA

Tiểu đồng: thằng nhỏ giúp việc.

Chữ châu: lối chữ nho viết phân minh từng nét.

LỜI BÀN

Quét nhà suốt buổi không sạch được cái buồng con, trồng cây lúc ăn cơm nhổ cả cây đem vào, người mà ngốc như thế, thì bảo còn dụng làm được gì nữa! Tuy vậy không nhớ tên người, chỉ nhớ hình người, thấy cành mọc lên, không thấy cành chúc xuống, xem đồ vật biết phân biệt đồng hay đất, thế đủ hay A Lưu có cái trí khuynh hướng về nghề vẽ vậy. Ôi! gỗ mục vứt đi người kiếm củi vẫn nhặt, đá cuội là xấu, thợ ngọc vẫn dùng, trong trời đất thì không có vật gì là vật bỏ đi, huống chi là người ta tinh khôn hơn vạn vật, lại không được một điều gì khả thủ ư? A Lưu ngây dại, tưởng là người bỏ đi, thế mà được nổi tiếng về nghề họa, cũng nhờ ông Nguyên Tố có lượng bao dung, biết dụng nhân như dụng mộc. Xem bài này thì cha mẹ dạy con, thầy dạy học trò chẳng nên tìm rõ cái sở trường của mỗi đứa mà dẫn dụ, mà luyện tập nó mặt ấy, ngay tự lúc còn trẻ tuổi, để cho nó may có cơ thành tài được ru! Ðã đành: Thiên địa vô khí vật, thánh nhân vô khí nhân, nhưng cốt phải biết: nhân tài nhi đốc, (tùy theo cái tài mà bồi bổ khải phát cho nẩy nở ra) thì tài mới thành được.

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Lừa và ngựa

Người nọ có một con lừa và một con ngựa. Bửa ấy đi đường, lừa nói với ngựa:

- Tôi nặng quá, tôi không đủ sức chở tất cả, chị mang đở tôi dù chỉ chút ít thôi.

Ngựa không nghe. Lừa ngã gục xuống vì gắng sức quá và chết. Người chủ bèn chất tất cả đồ đạc từ lưng lừa sang cho ngựa, lại còn thêm cả bộ da lừa nũa. Ngựa bây giờ mới rên lên:

- Ôi , cái thân khốn khổ của tôi mới bất hạnh làm sao! Tôi đã không muốn giúp đở nó dù chỉ chút ít, thế là bây giờ phải tha tất cả, lại còn thêm cả bộ da lừa.

Chuyện cười trong ngày

Xác nhận vấn đề

Vova thường ngồi chung xe bus với Natasa. Một hôm, Vova lấy hết dũng cảm dúi cho Natasa một mẩu giấy, trên đấy viết:

- "Tôi rất thích bạn, nếu bạn đồng ý kết bạn với tôi thì hãy đưa lại mẩu giấy này cho tôi, còn nếu không đồng ý thì hãy vứt nó qua cửa sổ".

- Một lúc sau Natasa chuyển lại mẩu giấy cũ, Vova vui mừng mở ra xem, trên giấy viết: "Không mở được cửa sổ!"

Friday, November 29, 2013

29-11-2013 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Khi tu tập thiền thì những điều gì thích hợp cần phải chuẩn bị?

Hỏi: Khi tu tập thiền thì những điều gì thích hợp cần phải chuẩn bị? 

(Thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Tuệ Siêu: Khi chúng ta muốn tu tập thiền thì ở đây có những điều thích hợp cần phải chuẩn bị: 
Pháp thích hợp cho việc tu thiền có kết quả:

- 1. Trước hết là phải có chỗ ở thích hợp tức là chỗ để thiền định phải yên tịnh vắng lặng không bị bận rộn chi phối, không bị vọng niệm tạp niệm thì như vậy chỗ ở đó là chỗ ở thích hợp.

- 2. Thứ hai vật thực thích hợp, là vị hành giả tu tập thiền, chúng ta cần phải lưu ý thể tạng của mình để biết thể tạng của chúng ta dùng vật thực gì thích hợp, để tránh sự ngứa ngáy khó chịu hay tránh đi sự chi phối bởi do buồn ngủ lười biếng chẳng hạn, nhất là những thức ăn nhẹ nhàng dễ tiêu hoá không bị phong độc thì những thức ăn đó thích hợp với vị hành giả tu tập. Hơn nữa, đối vị hành giả cho dù được vật thực thích hợp với thể tạng nhưng trong việc ăn phải biết tiết độ, ăn vừa phải vừa chừng chứ không nên ăn quá no một cách tham đắm để rồi sau đó sẽ bị phát sanh hôn trầm thụy miên làm trở ngại trong việc tu tiến.

- 3. Thứ ba là thân cận bạn lành tức là, nếu chúng ta tu thiền thì nên thân cận gần gủi với những người thích hợp để cho tâm thiền định của chúng ta được phát triển mạnh. Thân cận với người có đức tin, người có dồi dào sự nỗ lực chuyên cần tinh tấn, thân cận với người có nhiều trí tuệ như vậy thì khiến cho những pháp tu của mình được phát triển vì chúng ta sẽ ảnh hưởng đức tin của họ, ảnh hưởng sự tinh tấn nỗ lực của họ và chúng ta sẽ ảnh hưởng về trí tuệ sáng suốt của họ. Còn nếu người Phật tử tu thiền nhưng ở chung quanh chúng ta toàn là những người ác tà kiến, thiếu niềm tin, làm việc không có trí tuệ hoặc biếng nhác không chuyên cần, như vậy một thời gian sau sự tu tập của chúng ta bị ảnh hưởng rất nhiều đến chiều hướng suy sụp tinh thần.

- 4. Một yếu tố nữa gọi là pháp thích hợp, pháp ở đây là chỉ cho pháp môn để chúng ta thọ trì hay là đề mục thọ trì trong việc tu thiền. Chúng ta phải làm như thế nào, phải học như thế nào? Chúng ta phải lãnh hội từ nơi vị Thầy hướng dẫn hay vị Thiền Sư dạy cho chúng ta những đề tài nào thích hợp với cơ tánh của mình. Nếu mình là người tánh đa sầu đa cảm hay quyến luyến thì chúng ta phải chọn lấy đề mục nào để chúng ta thực hành cho thích hợp. Mình là người có tánh nóng nảy sân giận, hay giận hay phiền hay bất bình thì chúng ta phải chọn đề mục nào cho thích hợp. Mình là người có tánh dốt nát đần độn chậm hiểu thì phải thực hành thiền định theo đề mục nào v.v... chúng ta phải lựa chọn đề mục cho tương xứng với cá tánh của mình, như vậy thì việc tu tập mới thích hợp, chứ nếu không chúng ta tâm tánh là như vậy nhưng lại được dạy đề mục khác thì không lợi ích gì cả. 

Ngày xưa thời Đức Phật, Tôn Giả Xá Lợi Phất có tiếp độ một vị nam tử xuất gia, và sau khi xuất gia xong Đại Đức Xá Lợi Phất đã chỉ dạy đề tài thiền quán cho vị tân tỳ kheo ấy là niệm về thân thể trược, nhưng chúng ta đọc trong chú giải thì sẽ thấy rõ Đức Phật Ngài giải thích rằng vị tỳ kheo này trong đời quá khứ là một người thợ kim hoàn tức là người thợ làm đồ nữ trang bằng vàng, quanh năm suốt tháng chỉ nhìn thấy màu sắc đẹp khả ái khả hỉ của kim loại vàng, vì vậy tâm không chút nào hứng thú khi phải ngồi quán với đề mục thân uế trược này, quán mãi mà không được ấn chứng, Ngài Xá Lợi Phất mới đem vị tỳ kheo đến bạch Đức Phật thì Đức Phật Ngài là vị tối thượng y vương là vị thầy thuốc tối thượng là vị Đạo Sư tối thượng do vậy Ngài đã dùng một phương pháp, Ngài cho vị tỳ kheo đó mặc một bộ y mới đi khuất thực ở trong thành với Ngài và sau khi khuất thực trở về với những món ăn thượng vị loại cứng loại mềm, thọ thực xong Ngài bảo vị tỳ kheo đó hãy đi kinh hành và hãy ngồi nghỉ chân ở phía trước cổng chùa Jetavana và nhìn xuống hồ sen ở dưới có một bông sen rất đẹp, thì vị tỳ kheo đó vâng lời Đức Thế Tôn đi ra bờ hồ và ngồi ngắm cảnh một hoa sen đẹp vị ấy khởi nên tâm ái nhiễm và ưa thích với màu sắc khiến cho cảnh vật hữu tình như vậy. Đức Thế Tôn sau khi Ngài dạy vị tỳ kheo đó như vậy rồi thì Ngài trở về hương phòng dùng thần thông hóa hiện hoa sen thật đẹp ở trên bờ hồ và đồng thời Ngài theo dõi tư tưởng của vị tỳ kheo này và khi biết vị tỳ kheo này đang trú tâm với hương sắc của hoa sen thì Đức Thế Tôn dùng thần thông làm cho cánh sen đó lần lần úa tàn một cách nhanh chóng, rồi sau đó rụng những cánh sen chỉ còn phơi lại những gương sen, rồi từ cái gương sen màu xanh nó ngã vàng và cuối cùng nó khô như một vỏ bầu khô và gãy lià khỏi cọng sen rồi rơi xuống ao. Khi đó, vị tỳ kheo này đang chú tâm theo dõi và thấy được từng hiện trạng vô thường sanh diệt từ nơi hoa sen, vị tỳ kheo đó đã liễu ngộ được pháp thấy được lý vô thường từ nơi thân Danh và Sắc này và vị đó đã chứng quả A La Hán. Các vị tỳ kheo rất hoan hỷ và tán dương ân đức của Đức Phật là một vị Đạo Sư Tối Thượng có thể dẫn dắt và biết được tâm tánh của chúng sanh thích hợp mà cho những đề mục thích hợp.

Vấn đề tu tập thiền định mà chọn một đề tài thích hợp cho mình sẽ có lợi ích hơn, và rút ngắn con đường hơn rất nhiều so với việc học tuần tự các đề mục từ đề mục thứ nhất cho đến đề mục thứ 40 cho đến 44, rồi sau đó chúng ta thực hành hết cái này đến cái kia hoàn toàn không có tác dụng gì. 

Đó là bốn điều thuận lợi cho việc tu thiền định. Với một vị tu tập thiền định nếu như người đó tu tập thiền chỉ thì nên để tâm vắng lặng và ly các ác bất thiện pháp thì vị đó mới có thể tu thiền chỉ được. Còn tu thiền quán thì với một vị tu thiền quán vị phải sợ hãi và phải biết quán xét và sợ hãi với cảnh khổ sanh tử luân hồi hay là danh sắc khổ đau v.v... Khi đã sợ hãi thì vị đó nhàm chán và khi đã nhàm chán thì vị đó mới hướng đến sự viễn ly, và khi đã hướng đến sự viễn ly được rồi thì vị này mới có thể tu tập thiền quán một cách tốt đẹp, trình tự các trạng thái tâm của vị hành giả tu thiền phải là như vậy. Chứ nếu như một vị hành giả tu tập thiền định nhưng vị hành giả đó chỉ do theo một thói quen, hay do theo sự rủ mời của người khác vui mà đi hành thiền họăc là để hành thiền cho vui, nhưng thực chất người đó chưa nhàm chán thế gian, chưa nhàm chán sắc thân này, chưa sợ hãi cuộc sống sanh tử luân hồi thì như vậy khi họ bước chân vào tu tập thiền định thì chắc chắn họ không đạt được kết quả gì, trừ khi là đối với người đó họ có căn duyên trong quá khứ thì lúc bấy giờ họ cũng phải chuyển hướng.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Nếu một người nhìn sự vật không qua lý nhân quả thì người đó không có chánh kiến. Thí dụ: tự nhiên trong lòng không vui mình kêu con cái, kêu bạn bè hay kêu người nào ra để gây với người đó, tại vì chúng ta không vui và không biết vì lý do gì cho nên chúng ta tìm người nào đó để trút giận, thì như vậy chúng ta không có chánh kiến như thực về nhân quả trong đời sống này.

Nhân quả tức là hiểu mình khổ do đâu, và nếu hiểu được thế nào là khổ và do đâu mình khổ, thì mình sẽ hiểu được sự diệt khổ và con đường đưa đến sự diệt khổ. Ngài nói đến chánh kiến là cái nhìn phải thấy sự liên quan đến nhân quả. Và cũng trong mạnh văn nói về tuệ học nói về trí tuệ hiện thực, thì ở đây nếu chúng ta muốn nhìn mọi sự vật một cách thật sự sáng suốt thì chúng ta nên tránh đừng để cho cái nhìn đó bị chi phối bởi dục tư duy, bởi sân tư duy, bởi hại tư duy. Có nghĩa là khi chúng ta lượng định đánh giá hay nhận xét điều gì đó, mà trong sự nhận xét lượng định đánh giá đó đi chung với sự ham muốn thì chúng ta không trung thực, hoặc với sự bực tức bực bội thì cũng không chung thực, và với sự hiềm hận thì dĩ nhiên còn tệ hơn nữa. Thì nói một cách khác là ở trong thời gian chúng ta suy nghĩ về sự một sự vật tốt đẹp nhất nếu nội tâm của chúng ta không bị dục tư duy, không bị sân tư duy, không bị hại tư duy, những thứ đó chi phối mình. Ví dụ như bây giờ qúi vị vào trong rơom nghe pháp ở thời điểm nào, ở tâm thái nào mà qúi vị nghe pháp tốt nhất, ở giờ phút thanh thản nhất không bị dục, sân và hại tư duy chi phối.

TT Giác Đẳng - Chánh kiến - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

Ðúng Và Sai

Trong những tuần an cư để thiền định của Bankei , nhiều đệ tử khắp nơi trên đất Nhật đến theo học . Trong những cuộc tụ tập này , có một anh đệ tử bị bắt quả tang về tội ăn cắp . Việc này được trình lên Bankei với lời yêu cầu là phải trục xuất tội phạm . Bankei làm ngơ vụ này .

Sau đó , người đệ tử này lại bị bắt trong một hành vi tương tự , và Bankei cũng bỏ qua luôn . Việc nà làm cho những người đệ tử nổi giận , họ làm tờ khiếu nại hành động xấu của kẽ ăn cắp , và tuyên bố rằng nếu không họ sẽ bỏ đi nơi khác .

Bankei đọc xong lời khiếu nại , ông gọi tất cả mọi người đến và nói với họ :

_ “ Các anh là những người khôn ngoan . Các anh biết việc gì đúng , việc gì không đúng . Các anh có thể đến nơi nào khác để học nếu các anh muốn . Nhưng người anh em đáng thương này không biết phân biệt đúng sai . Nếu tôi không dạy thì ai dạy cho anh ta . tôi sẽ giữ người anh em này lại dù cho tất cả các anh em bỏ đi hết “ .

Một suối nước mắt chảy xuống rửa sạch khuôn mặt người đệ tử ăn cắp . Tất cả lòng ham muốn ăn cắp biến mất .

Chuyện Xưa Tích Cũ - Ông tiến sĩ mọc lông dê

ÔNG TIẾN SĨ MỌC LÔNG DÊ

Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Tại đất Hiệp Hữu có người họ Lê đã đỗ tiến sĩ, sống một đời vinh hiển ơn vua lộc nước. Tuy sống trong cảnh giàu sang nhưng ông tiến sĩ này thường vương vấn nỗi buồn riêng. Nơi lưng ông tự nhiên mọc ra những chòm lông trắng bệch như lông dê, đem hớt đi, nó lại mọc ra nhiều như thường. Người trong trấn đều biết chuyện nên ngầm gọi ông là Tiến sĩ mọc lông dê.

Buồn bã, ông tiến sĩ tắm rửa sạch sẽ rồi lập trai đàn và đi thiếp xuống âm ty, tìm xem kiếp trước mình đã làm những gì mà kiếp này lại mọc lông dê để cho người đời biếm nhẻ. Khi tới âm cung, ông tiến sĩ được Diêm chúa tiếp rước niềm nở và cho biết kiếp trước ông tiến sĩ là một thư sinh tánh ưa hoa nguyệt, lúc chết Diêm đình định bắt đầu thai làm con dê, nên quỷ sứ bắt tới pháp đình lấy bộ da dê để tròng vào, sắp sửa cho đi đầu thai bỗng thấy pháp quan ngăn lại nói rằng: sau khi tra sổ bộ thấy ông cũng có làm nhiều việc nhân đức cứu người. Vậy nên bỏ lót dê mà cho tái sinh làm người được đỗ đạt hiển vinh.

Vừa nghe pháp quan nói vậy, ông mừng rỡ vội vã tuột lớp dê chạy đi, chẳng ngờ tên quỷ sứ lẹ tay hơn ông, nắm bộ da dê mà giựt, vì ông chạy quá mau bên bộ da dê rách toác vướng lại trên lưng mấy mảnh, thành ra kiếp này phải chịu mọc lông dê.

Lê tiến sĩ nghe xong nửa mừng nửa tủi, mới hỏi Diêm chúa phải làm cách nào để gột sạch những lốt lông dê. Diêm chúa tiễn ông ra về bảo rằng: hãy rán tu nhân tích đức, làm lành cứu nhân độ thế thì tự nhiên lông dê sẽ rụng hết.

Trở lại dương trần, từ đó ông tiến sĩ hết lòng lo việc thiện; cứu giúp những người nghèo khó, khuyên răn những kẻ ác gian, lập trai đàn, cất chùa miễu thờ phụng thánh thần. Đến năm sáu mươi tuổi, tự nhiên những mớ lông dê biến đi đâu mất.

Cổ Học Tinh Hoa

TƯỜNG ÐỔ

Nước Tống có người nhà giàu. Một hôm trời mưa, tường nhà anh ta đổ.

Ðứa con nói: "Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào."

Người láng giềng thấy tường đổ, cũng nói: "Này bác, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào."

Tường chưa kịp đắp, tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm thật.

Anh ta khen đứa con là khôn ngoan biết trước, mà người láng giềng là gian giảo làm xằng.

Cùng một câu nói: con nói thì khen là tinh khôn, láng giềng nói thì ngờ là trộm cắp, bởi tại cớ làm sao? Tại con thì tình thân, cho nên không có bụng ngờ, láng giềng là tình sơ, cho nên sinh ra ngờ vực. Thế cho nên phận sơ mà câu nói thân, thì thế nào cũng làm cho người nghe mình đem lòng nghi ngờ.

Hàn Phi Tử

LỜI BÀN

Bài này cốt dạy ta phải thận trọng câu nói. Người láng giềng đây sở dĩ mà để người nhà giàu ngờ vực, là vì không được thân với người ta, mà nói một câu ra chừng thân lắm, muốn lo việc của người như việc của mình, coi việc thiết đến người cũng như thiết đến mình vậy. Cho nên gặp người đáng nói mà không nói là bỏ hoài mất một người, thì gặp người không đáng nói mà lại nói, chẳng những làm phí mất lời nói, mà lại để cho người ta sinh nghi tình ra nữa!

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Mụ đàn bà và con gà mái

Gà mái nọ mỗi ngày đẻ một trứng. Mụ chủ của nó nghĩ là cho gà ăn nhiều hơn, nó sẽ đẻ hai trứng một ngày. Mụ làm như vậy. Nhưng gà béo ú ra và hoàn toàn tịt đẻ.

Chuyện cười trong ngày

Vì sao phải đứng?

- Tại sao những người chỉ huy thường đứng khi đi thuyền?

- Vì nếu ngồi xuống, ông ta sẽ phải chèo như những người khác.

Thursday, November 28, 2013

28-11-2013 Suy Niệm Trong Ngày


Phật Học Vấn Đạo - Có nên trách người khác có làm hay không làm?

Hỏi: Có nên trách người khác có làm hay không làm?

(Câu thảo luận trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Đừng nhìn vào người khác để thấy rằng cái gì họ làm hay là họ không làm, hãy tự vấn chính mình cái gì mình không làm và cái gì mình đã làm. 

Chúng tôi sống ở tại thành phố Houston này, chúng tôi lại nghe được rất nhiều câu chuyện là những ngôi nhà thờ, những cơ sở tôn giáo khác vì sự khéo tổ chức, vì khả năng huy động nhân sự người ta có thể tổ chức hội chợ rất lớn làm được rất nhiều tiền, và mở ra rất nhiều cơ sở từ thiện xã hội, trong lúc đó Phật Giáo với một con số đông đảo các Phật tử nhưng lại không làm được những chuyện như vậy, qúi Phật tử đôi khi rất bực dọc về điểm này, tại sao người ta có thể làm được điều này tại sao người ta làm được chuyện khác và thậm chí người ta có những cơ quan truyền thông để công kích để nói những lời bất thiện không tốt cho Phật giáo, và tại sao mình là một tôn giáo có số lượng đông mà mình lại không có khả năng làm khác hơn được. Thì thưa qúi vị khi chúng tôi nghe những người Phật tử than phiền vậy chúng tôi chợt nhớ đến câu kệ này mà Đức Phật đã dậy. Thật ra một điều rất quan trọng của người Phật tử hôm nay, thay vì hỏi rằng tại sao chính quyền, tại sao những đạo giáo khác, và tại sao người khác, đã làm điều này hay không làm điều kia, mà chúng ta phải tự hỏi rằng cái gì mình nên làm và cái gì mình đã không làm.

Chúng tôi nhớ có một quyển sách ở trong quyển sách đó nói một lời ca mà Phạm Duy đã viết trong bài hát của mình. Thế hệ Việt Nam hiện tại là một thế hệ mà những thanh niên thiếu nữ có rất nhiều lời trách móc cha anh của mình, những thế hệ đi trước đã không làm tròn được trọng trách của mình, như thế hệ đi trước đã để lại một gánh nặng lớn cho một đất nước đau thương nghèo đói, cho một xã hội nhiễu nhương và cho một nền cầm quyền không có dân chủ tự do thật sự. Chúng tôi đã gặp bao nhiêu thanh niên thiếu nữ lớn lên ở trong thập niên 70, 80, lớn lên với tâm trạng thất vọng chán nản cuộc đời, chuyện đó không phải là ít và có rất nhiều người Việt Nam chúng ta nuôi một tâm trạng chán đời hận đời, và thấy rằng tại sao xã hội đã không làm như vậy, tại sao giáo hội đã không làm điều này, tại sao cha mẹ mình đã không làm điều kia. Nhưng với tất cả tâm tư u uẩn đó, với tất cả những nỗi uẩn khúc trong lòng, thay vào đó nếu chúng ta nhớ được lời dậy của Đức Phật: 

"Đừng hỏi rằng người khác đã làm hay không làm điều gì, mà hãy tự vấn là mình đã làm hay không làm." 
Điều đó quan trọng, điều đó thay đổi cả cái nhân sinh quan của mình tại vì mình biết khéo hướng tâm và tại vì mình biết đặt lại vấn đề.

Có rất nhiều bi kịch xảy ra trong đời sống gia đình giữa vợ và chồng, xảy ra cho một cá nhân suốt một cuộc đời luôn luôn nuôi một nỗi hận không nguôi, mà trong nỗi hận đó chỉ oán trách cuộc sống, chua chát với cuộc sống. Có bao nhiêu người đã đến với cuộc đời này và ra đi mà không bao giờ tìm thấy được sự thoải mãn, mà sống với tâm tư đầy sự thất vọng. Thất vọng thì bao giờ chúng ta cũng có thể thất vọng được, chúng tôi không nghĩ rằng có ai đó mà khi đặt cái vui cái buồn của mình vào cuộc đời mà không phải thất vọng.

Chúng tôi nhớ bà Dorathi có nói câu chuyện của một người thẩm phán, vị thẩm phán đó làm việc ở tiểu bang Illinois và trong suốt cuộc đời của ông đã từng cứu 76 người khỏi phải lên ghế điện chịu tử hình, trong 76 người đó ra đi chỉ có một người là viết thơ cảm ơn ông, còn 75 người kia hoàn toàn không bao giờ nghe tăm hơi gì cả. Người ta cứu mạng mình mà cũng không có nghĩ đến ơn, không nhớ tới thì thưa qúi vị việc đó cũng là việc bình thường thôi, nếu chúng ta nuôi một tâm trạng là trách cuộc đời, nếu chúng ta nuôi một tâm trạng là đặt quá nhiều kỳ vọng ở cuộc sống chung quanh mình, thì thái độ đó không sớm thì muộn cũng sẽ dẫn chúng ta đến một tâm tư chán nản thất vọng, bởi vì cuộc đời không bao giờ giống như chúng ta muốn. Dĩ nhiên là không phải trần gian luôn luôn đầy nỗi khổ, không phải trên bất cứ một bước chân nào của cuộc đời mình đều gặp những điều thất vọng, nhưng mà có một điều chắc chắn rằng ở trong thế gian này cái vui thì ít cái khổ thì nhiều, cái gì mà tao nhã tốt đẹp thì không có nhiều bằng cái thô tháo tục tằn. Nếu chúng ta không có một nhìn đặt đúng chỗ thì chúng ta sẽ tiếp tục thất vọng, tiếp tục buồn chán và chúng ta tiếp tục đánh mất cơ hội tốt đẹp nhất trong cuộc đời của mình.

 Đức Phật dậy cho chúng ta một bí quyết quan trọng của cuộc sống là hãy đặt cái ưu tiên lên đời sống đúng chỗ. 

Cái gì là cái thật sự ưu tiên? 

Ở đây, cái ưu tiên mà Đức Phật Ngài dậy rằng nên tu tập tự thân. Những gì mà mình đã làm, và những gì mình không nên làm, cái làm và cái không làm đó nó liên quan đến cái thiện và bất thiện của chính bản thân của mình, nó liên quan đến sự trì trệ và sự tiến bộ của bản thân mình, nó liên quan đến sự sáng suốt và sự quên lãng của bản thân của mình. Nếu chúng ta xét mình và xét rất rõ thì chúng ta sẽ không muốn phí thì giờ để bận lòng với cuộc đời, những lúc mà chúng ta trách móc cuộc đời nhiều là chúng ta quên rằng bản thân của mình có nhiều việc cần thiết phải làm lắm, bởi vì nó quá nhiều việc phải làm mà chúng ta quên nó đi nên chúng ta mới thật sự là người đáng trách, thân phận của chúng ta mới thật sự là tội nghiệp, thân phận của chúng ta là một kẻ đi trong cuộc đời này đang gánh trên vai một gánh nặng mà lại quên bẳng đi sự nhọc nhằn và lúc nào cũng nói chuyện thiên hạ mà quên đi bản thân của mình.

Và vì vậy có nhiều người nói đạo Phật là một tôn giáo theo chủ nghĩa thực dụng (Pragmatic), chúng tôi không nói như vậy, tại vì nói như vậy có đôi khi đó là một cách dán nhãn hiệu, nhưng có một điều rất rõ ràng là Đạo Phật luôn luôn hướng dẫn con người chịu khó phản tỉnh, chịu khó tự vấn, chịu khó tự tìm lấy cái ưu tiên của đời sống này. Bởi vì chỉ có một người nhìn bản thân của mình với cái nhìn sáng suốt thì người đó mới có thể cống hiến cho trần gian này cái gì tốt đẹp nhất. Một người không còn biết được cái gì mình làm nên hay không nên, thì người đó không có gì để ban tặng cho trần gian này hết.

Nếu chúng ta biết đặt lại cái nhìn của mình, nếu chúng ta biết hướng tâm đúng chỗ thì chúng ta có thể vượt qua những cái bận tâm, vượt qua những chuyện vô ích. Bởi vì đời sống có nhiều chuyện ưu tiên hơn phải làm, có nhiều chuyện quan trọng hơn phải để ý, chứ không nhất thiết chỉ tập trung hay là lúc nào cũng suy nghĩ đến lỗi lầm của người khác, suy nghĩ đến cái gì mà thiên hạ đã làm mà mình thấy rằng mình mất mặt hay không mất mặt.

Chúng ta là một người Phật tử sanh ở trong thời đại này, trong cái vận thế suy vi lòng người điên đảo, và phải nói rằng đạo cũng có thịnh có suy, là một người theo đạo Phật thì chúng ta cũng nhận ra rất nhiều điều là cộng đồng Phật tử có nhiều điều phải thay đổi, nhận rằng những tôn giáo khác với khả năng tài chánh dồi dào, với một khả năng về phương pháp làm việc khá hơn là cộng đồng Phật tử, vì chúng ta có nhiều sự thua kém. Nhưng mà việc chính không phải là việc so đo, không phải đặt vấn đề là mình phải công kích, phải bôi bác người khác, phải nói rằng người ta thế này thế khác, điều quan trọng chúng ta phải tự hỏi rằng mình là một người Phật tử mình đã làm được cái gì để thể hiện được cái tinh hoa của đạo, để phát huy được cái hay của lời dậy của Đức Phật, để làm sống được lời dậy của Đức Phật ở trong lòng của chính mình. Nếu mình có thể phát huy được cái hay của đạo thì chúng ta đã không phải bận lòng với chuyện của nhân thế.

Và thưa qúi vị, người quân tử sống ở trong đời nếu thấy được cái đạo mà nó sống mạnh ở trong lòng của mình thì đã đủ an tâm rồi, hà tất phải bận rộn với đảo điên của thiên hạ./.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Ðời sống của chúng ta thì mong mỏi cái gì mà vừa lòng, toại ý. Có thể đứng lại, và hiện hữu mãi mãi và không bao giờ thay đổi, nhưng mà thực tại thì không phải như vậy. Bất kể đó là cái đẹp của núi, cái đẹp của sông hồ, hay là một vẻ đẹp dường như khó có thể hủy hoại được của một viên kim cương, thì điều đó nó sẽ không có ý nghĩa dễ gì trên phương diện lâu dài, đối với mỗi chúng ta. Bởi vì một viên kim cương có tồn tại hàng triệu triệu năm như vậy, nhưng mà bản thân của chúng ta sống trong thế giới này, dù chúng ta sống ở một nơi, một cái đẹp của sơn thủy đã có mặt vài ba chục triệu năm thì bản thân của chúng ta cũng không có hưởng nó được quá một trăm năm, và " Chính thân chẳng có lại cầu chi ai " có thể nói rằng khi chúng ta nằm xuống trút hơi thở cuối cùng, những gì của trần gian thì chúng ta trả lại cho trần gian, và thưa quí vị lúc đó những thứ đó trở thành vô nghĩa.

   TT Giác Đẳng - Tất cả pháp hữu vi là vô thường - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

Cỏ Và Cây Sẽ Giác Ngộ Thể Nào

Vào thời Kamakura , Shinkan học ở trường Tendai sáu năm , và học Thiền bảy năm ; rồi Shinkan sang Trung Hoa chiêm ngưỡng Thiền mười ba năm.

Khi trở về Nhật , nhiều người muốn viếng Shinkan và hỏi nhiều câu hỏi khó . Nhưng khi tiếp khách , thường hiếm khi Shinkan trả lời những câu hỏi của khách .

Một hôm , một Thiền sinh năm mươi tuổi đạo đến nói với Shinkan :

_ “ Tôi đã học ở Tendai về tư tưởng khi tôi còn bé , nhưng có mộ điều tôi không thể hiểu được . Tendai dạy rằng cả đến cỏ cây cũng sẽ giác ngộ. Ðối với tôi điều này có vẻ kỳ lạ quá.”

Shinkan hỏi : “ Bàn luận về cỏ cây sẽ giác ngộ thể nào có ích chi đâu ? Vấn đề làm sao chính ông có thể giác ngộ được; ông có xét thấy điều này không ?”

Người già lạnh lùng : “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này.”

Shinkan kết thúc : “Rồi, hãy về nghĩ thử xem.”

Chuyện Xưa Tích Cũ - Chử Đồng Tử

CHỬ ĐỒNG TỬ

Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Vào đời Hùng Vương thứ ba, tại Chữ Gia khẩu có người tên là Chử Đồng Tử, mồ côi từ nhỏ, chỉ sống heo hút một mình ở bên bờ sông. Ban ngày chài lưới kiếm ăn, tối trèo lên cây mà ngủ. Vì nghèo khổ, cả một chiếc khố cũng không sắm nổi nên tối ngày lắt lẻo ở ngoài sông, hoặc giấu mình trong lùm bụi, chớ ít khi nào dám vào chỗ làng xóm đông người.

Một hôm đang vẩn vơ trên bãi cát, Chử Đồng Tử bỗng thấy một chiếc thuyền chèo đến và đỗ lại bên bãi cát, một bầy thế nữ phò một vị công chúa xinh đẹp từ trên thuyền xuống bãi định vây màn tắm gội.

Biết nàng là công chúa Tiên Dung, con của vua Hùng Vương, lại mười phần xinh đẹp, Chử Đồng Tử phần sợ mang tội thất lễ, phần sợ công chúa Tiên Dung cả thẹn nên phải moi cát rồi vùi cả nửa thân mình xuống dưới để tránh sự lõa lồ. Chẳng ngờ, công chúa Tiên Dung thấy vậy liền cho thế nữ gọi tới hầu. Chử Đồng Tử không dám ngoi mình lên khỏi cát, cứ nằm ì một chỗ mà chịu trận.

Công chúa Tiên Dung thấy thế cho là duyên tiền định nên bằng lòng gá nghĩa cùng chàng, và cho thế nữ đem lụa là đến cho chàng che thân. Từ đó, công chúa Tiên Dung cất nhà cùng ở với Chử Đồng Tử tại Chữ Gia khẩu. Vài lần nàng giục chàng về ra mắt vua cha mà Chử Đồng Tử không thuận.

Một hôm, Chử Đồng Tử hóa ra cung vàng điện ngọc ở giữa bãi Chữ Gia để cùng công chúa sống trong cảnh vui vầy. Các quan trong triều thấy vậy, tâu lên vua Hùng Vương rằng Chử Đồng Tử có ý mưu phản, tạo nên một triều đình riêng ở bãi Chữ Gia.

Vua Hùng Vương cả giận, sai quan sĩ đến nơi đánh bắt cho được Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung đem về trào 1 trị tội.

Lúc quân sĩ rần rộ đến nơi thì Chử Đồng Tử dẹp bỏ cung điện, cùng công chúa Tiên Dung chắp cánh bay về trời.

Cổ Học Tinh Hoa

NGƯỜI CON CÓ HIẾU

Thầy Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng: -“Đội nặng đi đường xa thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi có quyền cao, chức trọng, mới chịu làm. Ngày trước Do này, lúc song thân còn, cơm thường đưa dưa muối, dường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như trước thì không sao được nữa! Cha mẹ già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, con muốn nuôi, mà cha mẹ không còn sống.

Đức Khổng Tử nói: “Do, nhà ngươi phụng sự song thân rất là phải. Lúc người còn thì hết lòng phụng dưỡng, lúc người mất, thì hết lòng thương tiếc.”

Gia Ngữ

GIẢI NGHĨA

Tử Lộ: Người thời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, tính hiếu thảo, hùng dũng có tài chính sự.

Bóng qua cửa sổ: Bóng đây là bóng mặt trời, ý nói thời giờ chóng qua cũng như câu ngựa phi qua khe cửa.

LỜI BÀN

Khi cha mẹ còn, hết lòng nuôi nấng, khi cha mẹ mất, hết lòng thương nhớ, đó thực là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ. Làm trái lại hẳn như thế là bất hiếu, mang một cái tội rất to! Làm trái lại một nửa như thế, “nghĩa là lúc cha mẹ còn, thì thờ ơ chểnh mảng, lúc cha mẹ mất thì nấu một mâm cao cỗ đầy, làm văn tế ruồi”, như thế cũng là bất hiếu, cho nên người con có hiếu, còn cha mẹ ngày nào, nên mừng ngày ấy, kíp ăn ở cho trọn đạo, chớ để đến lúc cha mẹ mất rồi, có hối lại cũng không sao được. Vì rằng làm con mà được còn có cha mẹ để báo đáp là một việc sung sướng ở đời, mà cũng là có duyên có phúc nữa.

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Gà mái và những quả trứng vàng

Con gà mái của người chủ nọ đẻ ra những quả trứng vàng. Người chủ muốn có ngay thật nhiều vàng liền đem giết con gà (anh ta nghĩ là trong bụng gà có cà một cục vàng to tướng) nhưng con gà cũng lại chẳng khác gì những con gà mái khác.

Chuyện cười trong ngày

Thưởng

Mày râu và áo dài đi xe máy song song nhau, áo dài nói:

- "Ông" có dám bỏ cả hai tay ra khi đang điều khiển xe không?

- Hả... tui chỉ dám khi đi xe đạp, nhưng nếu tui bỏ cả hai tay ra bây giờ thì "bà" mất gì nào?

- Tui sẳn sàng thưởng cho "ông" một món quà cực kỳ có ý nghĩa.

- Cái gì vậy chứ?

- Một bộ áo quan!

Wednesday, November 27, 2013

27-11-2013 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Tại sao tâm chúng ta dễ bị chao động?

Hỏi: Tại sao tâm chúng ta dễ bị chao động?

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buddhadhamma, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Đức Phật Ngài đề cập đến sự tu tập nội tâm,  Ngài nhắc cho chúng ta biết rằng nội tâm của mỗi chúng ta vốn dĩ là một trạng thái không phải đơn giản, ngay cả ở một người đơn giản nhất, đó là một nội tâm dễ hoảng hốt và dễ dao động.

Dễ hoảng hốt là bởi vì con người trong đời sống ai cũng thích tìm về một thế giới bình yên, không phải chỉ có thế giới bình yên làm cho chúng ta cảm thấy hạnh phúc, cảm thấy vững lòng, mà chúng ta luôn luôn tìm cách để nhốt mình vào trong tháp ngà, và tìm thấy sự che chở trong sự che chở này dường như chúng ta thấy rằng ít nhất cũng có 5, 7 phần được bảo đảm sự an bình của mình, do vậy chúng ta luôn luôn mong mỏi rằng mình không gặp tai ương nào. 

Như vậy nói rằng cuộc sống là một cái gì bấp bênh vô định, không phải chỉ có những tai ương, không phải chỉ những tai bay hoạ gửi đến bất ngờ, mà ngay cả cái vui cái buồn ở trong đời sống như Đức Phật Ngài đề cập đến 8 ngọn gió đời khen chê vui khổ, đặng danh mất danh, đặng lợi mất lợi. Cái đặng cái thất cũng làm cho chúng ta hồi hộp, cũng làm cho chúng ta phân tán, làm cho chúng ta lo sợ. Chúng ta càng ưa thích nhiều thì chúng ta lại càng lo sợ nhiều, tham muốn sanh ra lo sợ, và sự lo sợ đó là một bản năng tìm ẩn trong mỗi chúng ta, và rất dễ dàng để nỗi lo sợ, nỗi hoảng hốt trổi dậy. Và bởi vì hoảng hốt là một bản chất cố hữu của nội tâm chúng ta, do vậy dẫn đến tình trạng gọi là khó trì, khó giết .

Chúng ta cứ tưởng tượng ngày xưa nếu qúi vị nào sống ở miền quê, qúi vị biết rằng nếu chúng ta đi chăn vịt ở ngoài đồng và trong lúc chúng ta đi chăn vịt thì sẽ rất dễ dàng nếu không có chuyện gì xảy ra làm cho bầy vịt sợ hãi, nhưng chỉ có một con chó săn chạy ngang hay một tiếng động lớn bày vịt sợ hãi, nó sẽ chạy tán loạn hết. Tâm tư của chúng ta cũng vậy nếu chúng ta có một nội tâm tương đối ổn định, không biết sợ trước sự chết, không biết hồi hộp trước những điều bất trắc, và những gì bất ngờ xảy ra mà không làm cho chúng ta lao chao loạn động, thì , có lẽ tâm đó dễ điều phục, dễ phòng hộ hơn nhiều.

Đức Phật Ngài cho chúng ta biết bản chất dể hoảng hốt, dễ dao động, chính hai bản chất rất tự nhiên của đời sống nội tại, và một người tu tập là người phải rất thành thật nhận ra điều đó. Chúng ta dao động bởi vì tâm tư của chúng ta giống như mặt hồ mênh mông, mặt hồ đó trước những cơn gió rất khó có thể giữ bằng phẳng, cho dù chúng ta nhìn thấy mặt hồ thật phẳng, nhưng lúc nào cũng có những gợn sóng lăn tăn, bởi vì bản chất của nước là không thể nằm yên được.

Đời sống nội tâm vốn dĩ là một đời sống hết sức phức tạp, chúng ta thường có những đinh ninh về cuộc sống của mình, mình lớn lên ở trong một gia đình tương đối có tiền bạc xung túc, sống trong một xã hội nền pháp trị vững mạnh, ở một quốc gia tương đối về tiền hưu bổng, về vật chất mọi thứ đều có thể được xem như đã được an bày, đã được xắp đặt một cách rất trật tự, một cách rất ngăn nắp.

Nhưng mà rồi, những thứ đó chỉ là một sự bình an giả tạo, bởi vì rõ ràng nỗi nguy hiểm vẫn là cái gì chờ đợi chung quanh chúng ta, cho dù chúng ta không nhận ra điều đó, nhưng chúng ta tận trong đáy lòng, từ trong bản năng của mình vẫn cảm nhận được như vậy.

Chúng tôi có nghe nhiều người đi về Việt Nam nói rằng, đất nước Việt Nam ngày hôm nay khi đi ra ngoài đường rất dễ bị sợ hãi trước cách lái xe của những người lái xe mô tô, tức là giao thông ở Việt Nam tương đối dễ gây nhiều tai nạn. Chúng tôi nghĩ rằng không riêng về Việt Nam mà có nhiều quốc gia, ngay cả những nơi đường xá rộng rãi tương đối việc lái xe lưu thông có trật tự đi nữa, thì khi chúng ta cầm tay lái để lái xe, có thể vì một cơn buồn ngủ, hay vì một người nào đó uống rượu họ có thể đâm vào xe của chúng ta, và chính bản thân của mình không lái xe mà mình ngồi, mình cũng giao mạng của mình cho người tài xế lái xe.
Như vậy chỉ riêng một khía cạnh nhỏ cũng cho thấy đời sống của chúng ta luôn luôn bấp bênh vô định, và trong cái bấp bênh vô định đó chúng ta hiểu nhiều, chúng ta cảm thấy bị đe doạ rất nhiều.

Cho dù ở thời buổi nào, dù ở cuộc sống ra sao, mỗi chúng ta ở trong lòng đều cảm thấy một sự bất an len lén thầm kín mà chính chúng ta cũng không nhận ra được. Mình nghĩ rằng mình rất vững lòng, nghĩ rằng mình có đầy đủ sự điềm tỉnh, nghĩ rằng có thể đối diện với bất cứ cái gì ở cuộc đời này kể cả cái chết, nhưng thật sự đó chỉ là một cái đinh ninh, một sự tưởng tượng , hay một sự ngây thơ của chúng ta, mỗi chúng ta đều bị run sợ khi chúng ta đối diện với sự chết, mỗi chúng ta đều cảm thấy lo lắng khi nhìn thấy những con số của thị trường cổ phiếu lên hoặc xuống, chúng ta nghe nói chiến tranh xảy ra thì cũng hoang mang, không biết tương lai của mình như thế nào.

Tất cả những điều đó cho chúng ta thấy rằng bản tâm của chúng ta vốn dĩ có hai trạng thái được Phật nói ở đây là tâm dễ bị hoảng hốt, và tâm luôn lao chao giao động. Chính hai bản chất này dẫn đến một hệ quả đó là một tâm rất khó để hộ trì, hộ trì tức là chúng ta gìn giữ mà chúng ta có thể bảo đảm được nó và nhiếp phục, có nghĩa là chúng ta sẽ hướng tâm ở trong một cảnh giới, một trạng thái chúng ta mong muốn, hai điều này là hai điều hết sức khó khăn. Đúng ra chỉ có những người nào đã dành thời gian sống với nội tâm của mình, ví dụ như bỏ 5 ngày, 10 ngày đi tập thiền, hay làm một cố gắng nào đó để sống với đời sống nội giới, mới hiểu được là tại sao điều phục tâm trí lại khó như vậy.

Thì tất cả chúng ta đều nhận rằng đời sống nội tại của chúng ta là một đời sống có nhiều giông bão, đời sống nội tại của chúng ta là đời sống có nhiều xáo trộn và hiểu được nội tâm đó thì chúng ta nên làm một việc là hãy cho tâm tư của mình sống theo một số nguyên tắc nhất định.

Chúng ta phải đối diện với tâm của mình, đó là một trạng thái tâm không có hướng đi rõ ràng nó dễ bị xao động, dễ bị hoảng hốt và vì vậy chúng ta nên tìm chỗ cho nó tựa, tìm chỗ cho nó nương nhờ, tìm hướng đi chúng ta cắm những cọc quy định rõ ràng, những cột móc này chỉ ra rằng là tâm chúng ta nên sống như thế nào, nên làm gì tại vì nguyên tắc đó và những thái độ rõ ràng, thái độ thiện xảo đó sẽ giúp cho chúng ta chống lại được với trạng thái hoảng hốt giao động là một trạng thái cố hữu ở trong lòng của mỗi chúng ta.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Cái khổ đôi khi nó tàng ẩn nó không dễ dàng để chúng ta cảm nhận và chúng ta phải bắt đầu từ cái manh mối rất thô sơ của nó về những giọt nước mắt, về những cái khổ như ở trong Thanh Tịnh Đạo khi nói về một người ăn xin.  Qúi vị đi sang một vài quốc gia như Ấn Độ hay Trung Quốc rất nhiều người ăn xin trên đường và chúng ta biết rằng họ ăn xin như là một nghề nghiệp, nhưng chúng ta không chịu nổi cái khổ của họ, nào là những người hoàn toàn tàn tật không còn tay chân, nào là những người giữa mưa nắng nằm trần trụi, qùi xuống đất, mặt úp xuống mặt đường đầy bụi cát dơ bẩn để mà xin đồng tiền.  Nếu chúng ta có tiếp xúc thì chúng ta mới thấy được cái khổ của họ.  Câu chuyện hiện tại của chúng ta là nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh may mắn, không phải sống qua những cảnh nghèo thì khó cảm nhận được nỗi khổ.  Phải sống trong những điều kiện nào đó thì chúng ta mới hiểu được và cảm thông sâu sắc nỗi khổ của người khác, mình chưa nghèo thì mình chưa bao giờ hiểu được nghèo, mình chưa sống cô độc thì ít hiểu được nỗi khổ của người sống cô độc, và để hiểu được thì chúng ta phải có mặt ở đó để tiếp xúc và sống với điều đó thì mới cảm nhận được. 

TT Giác Đẳng - Pháp Thoại - Tu Tập Tâm Bi - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

Ðúng Và Sai

Trong những tuần an cư để thiền định của Bankei , nhiều đệ tử khắp nơi trên đất Nhật đến theo học . Trong những cuộc tụ tập này , có một anh đệ tử bị bắt quả tang về tội ăn cắp . Việc này được trình lên Bankei với lời yêu cầu là phải trục xuất tội phạm . Bankei làm ngơ vụ này .

Sau đó , người đệ tử này lại bị bắt trong một hành vi tương tự , và Bankei cũng bỏ qua luôn . Việc nà làm cho những người đệ tử nổi giận , họ làm tờ khiếu nại hành động xấu của kẽ ăn cắp , và tuyên bố rằng nếu không họ sẽ bỏ đi nơi khác .

Bankei đọc xong lời khiếu nại , ông gọi tất cả mọi người đến và nói với họ :

_ “ Các anh là những người khôn ngoan . Các anh biết việc gì đúng , việc gì không đúng . Các anh có thể đến nơi nào khác để học nếu các anh muốn . Nhưng người anh em đáng thương này không biết phân biệt đúng sai . Nếu tôi không dạy thì ai dạy cho anh ta . tôi sẽ giữ người anh em này lại dù cho tất cả các anh em bỏ đi hết “ .

Một suối nước mắt chảy xuống rửa sạch khuôn mặt người đệ tử ăn cắp . Tất cả lòng ham muốn ăn cắp biến mất .

Chuyện Xưa Tích Cũ - Con mèo của Cống Quỳnh

CON MÈO CỦA CỐNG QUỲNH

Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Trong cung vua có nuôi một con mèo rất đẹp, cổ mèo được cột một sợi xích vàng, nhà vua cưng mèo như của quý. Một hôm, Cống Quỳnh thấy con mèo của vua thì khoái ý, không phải Cống Quỳnh có lòng tham, mà vì muốn khuấy phá nhà vua để cười chơi.

Cống Quỳnh liền lẻn vào cung nhà vua rình đánh cắp được con mèo đem về nhà, tháo sợi xích vàng giấu đi, lấy dây luộc buộc vào cổ mèo. Thường bữa ông Cống Quỳnh bày ra hai dĩa đồ ăn, một dĩa toàn món ngon và một dĩa có đầu tôm, xương cá, cơm thừa canh cặn. Xong rồi ông thả con mèo ra, chờ nó mon men tới dĩa đồ ăn ngon thì ông đánh đập dữ tợn, còn nếu nó tới bên dĩa cơm thừa canh cặn thì ông để yên cho nó ăn. Lâu ngày thành thói quen.

Bị mất con mèo, nhà vua cho đi lùng kiếm tở mở. Có người thấy ở nhà Cống Quỳnh có một con mèo giống rặc con mèo của vua nên tâu cho vua rõ. Nhà vua vốn biết cái tánh rắn mắt của Cống Quỳnh, lại biết ông hay phá phách đầu này đầu kia nêu kêu Cống Quỳnh đến hỏi: -Khanh có bắt con mèo đeo xích vàng của trẫm để đùa chơi, xin cho lại trẫm, trẫm quí nó lắm.

Cống Quỳnh hỏi nhà vua: -Mất mèo sao bệ hạ nghi cho tôi?

-Vì có người thấy con mèo trong nhà của khanh.

Cống Quỳnh cãi lại ngay: -Kẻ đó ăn nói hàm hồ, chớ con mèo đó là con mèo của tôi nuôi.

Nhà vua nhất định đó là con mèo của mình, còn Cống Quỳnh thì bảo con mèo của ông. Đôi bên lời qua tiếng lại. Rốt cuộc Cống Quỳnh nói với vua: -Xin bệ hạ hãy triệu các đình thần vào chầu, tôi sẽ có cách làm cho tỏ rõ, mèo của bệ hạ hay mèo của tôi.

Đó rồi nhà vua cho tập họp đình thần lại đông đủ. Cống Quỳnh nói: -Xin các quan làm chứng cho.

Nói rồi ông xin nhà vua đem ra hai dĩa cơm, một dĩa toàn món ngon vật lạ, một dĩa cơm thừa canh cặn. Trước khi thả mèo, Cống Quỳnh nói với các quan: -Bây giờ muốn biết mèo của vua hay mèo của tôi rất dễ. Mèo của vua chỉ ăn toàn món ngon vật lạ, còn mèo của tôi chỉ biết cơm thừa canh cặn. Vậy các quan làm chứng cho.

Đoạn Cống Quỳnh thả con mèo ra. Đã tập quen rồi nên khi buông ra, con mèo đi ngay lại dĩa cơm thừa canh cặn. Cống Quỳnh reo lên vui sướng, ôm con mèo về nhà.

Cổ Học Tinh Hoa

TƯỜNG ÐỔ

Nước Tống có người nhà giàu. Một hôm trời mưa, tường nhà anh ta đổ.

Ðứa con nói: "Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào."

Người láng giềng thấy tường đổ, cũng nói: "Này bác, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào."

Tường chưa kịp đắp, tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm thật.

Anh ta khen đứa con là khôn ngoan biết trước, mà người láng giềng là gian giảo làm xằng.

Cùng một câu nói: con nói thì khen là tinh khôn, láng giềng nói thì ngờ là trộm cắp, bởi tại cớ làm sao? Tại con thì tình thân, cho nên không có bụng ngờ, láng giềng là tình sơ, cho nên sinh ra ngờ vực. Thế cho nên phận sơ mà câu nói thân, thì thế nào cũng làm cho người nghe mình đem lòng nghi ngờ.

Hàn Phi Tử

LỜI BÀN

Bài này cốt dạy ta phải thận trọng câu nói. Người láng giềng đây sở dĩ mà để người nhà giàu ngờ vực, là vì không được thân với người ta, mà nói một câu ra chừng thân lắm, muốn lo việc của người như việc của mình, coi việc thiết đến người cũng như thiết đến mình vậy. Cho nên gặp người đáng nói mà không nói là bỏ hoài mất một người, thì gặp người không đáng nói mà lại nói, chẳng những làm phí mất lời nói, mà lại để cho người ta sinh nghi tình ra nữa!

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Mụ đàn bà và con gà mái

Gà mái nọ mỗi ngày đẻ một trứng. Mụ chủ của nó nghĩ là cho gà ăn nhiều hơn, nó sẽ đẻ hai trứng một ngày. Mụ làm như vậy. Nhưng gà béo ú ra và hoàn toàn tịt đẻ.

Chuyện cười trong ngày

Quá lịch sự

Một phụ nữ bước lên xe buýt với dáng vẻ mệt mỏi. Ngay lúc đó, người đàn ông có tuổi đang ngồi ở ghế gần đấy đứng dậy. Cô này ấn vai ông ta xuống và nói:

- Ông cứ ngồi đi, tôi đứng được mà!

- Ở bến tiếp theo, ông kia lại bị ấn vai xuống cùng câu nói ấy. Đến bến thứ ba, mọi chuyện vẫn lặp lại. Lúc này, người đàn ông không chịu nổi đành khẩn khoản: Xin cô để cho tôi xuống. Cô đã làm tôi bị lỡ hai bến rồi!

Tuesday, November 26, 2013

26-11-2013 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Nếu tu mà thấy chán tất cả các pháp, nhàm chán thế gian

Hỏi: Nếu tu mà thấy chán tất cả các pháp, nhàm chán thế gian, và không thích thú khi làm những việc thiện. Nếu tu để đi tới kết qủa như vậy thì mới đúng là tu, riêng cảm nhận của con thì con thấy như vậy có phải là yếm thế hay không? Và nếu với tâm trạng như vậy nếu là con thì con sẽ không làm gì hết và con chỉ ngồi tự mình để hành thiền và để tiến tới đạo quả giải thoát cho riêng mình mà thôi, đó là sự suy nghĩ của con như vậy. Con kính mong Sư từ bi giảng giải rõ cho chúng con về sự nhàm chán trong tất cả các pháp. 

(Câu hỏi được hỏi trong rơom Diệu Pháp , Minh Hạnh chuyển biên)

TT Tuệ Siêu : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Một câu hỏi rất hay, một câu hỏi mà nếu như quí vị không nêu lên thì rất tiếc là vì sẽ không có cơ hội để trình bày cho quí vị nghe về điểm này.

Bây giờ chúng ta đặt vấn đề: Người tu có phải là người yếm thế hay không? ở đây thưa quí vị, chữ yếm thế, yếm là chán, thế là thế gian hay là đời, yếm thế có nghĩa là chán đời. Người tu có nên chán đời hay không? Thật sự thưa quí vị, người tu là người nên chán đời.

Người ta thường dùng từ ghép với nhau là yếm thế bi quan, hễ yếm thế là nghĩ bi quan, nhưng thật sự thưa qúi vị không phải như vậy, yếm thế không phải là bi quan, chưa hẳn là như vậy. Chúng ta đưa ra một trường hợp như thế này, một người mà họ từ trước đến nay đã sống vui chơi với bè bạn trong tửu lầu say sưa chè chén hay trong hí viện đàn điếm chẳng hạn, cuộc sống trụy lạc vô thả như vậy khiến cho đời sống của họ phải mất danh dự và sa sút, thì sau một thời gian người đó ý thức được, và bắt đầu người đó cảm thấy nhàm chán trong những cuộc truy hoan, những cuộc vui chơi, vô bổ, vô ích như thế, và người đó bắt đầu cải thiện hoàn lương, bắt đầu năng tu tập để tạo dựng tài sản sự nghiệp, sống giữ mình đàn hoàng đứng đắn.

Xin hỏi rằng người chán cuộc sống phóng túng buông lung hư hỏng như vậy, thì người đó gọi là người bi quan được hay không ?. Ở đây thưa quí vị, không thể nói là người đó là người bi quan. Bi quan là như thế nào ?, khi mà nhìn thấy cuộc đời họ chỉ nhìn thấy trong ngõ cụt, họ ngao ngán cuộc đời, họ chán nản, họ không còn biết phải làm gi` nữa, họ không thiết ăn, không thiết uống, họ không thiết đi, không thiết đứng, không thiết làm bất cứ việc gì hết, chỉ ngồi ủ rủ ở đó, như vậy người đó mới thực sự là người bi quan, và thái độ bi quan này là không nên có đối với người Phật tử.

Nhưng trường hợp đối với người Phật tử yếm thế, có nghĩa là chúng ta chán cuộc đời vì thấy cuộc đời giả tạm qúa, tranh đấu với nhau để dành giựt từng miếng ăn, tranh đấu với nhau để dành giựt từng chỗ ngồi, từng địa vị, từng cái ghế ở trong xã hội, để cuối cùng nhắm mắt xuôi tay, trở lại không có cái gi` cả, hoàn tay trắng, thi` cuộc đời nó vinh nhục được mất như vậy, thi` thử hỏi đối với người trí khi nhi`n cuộc đời như vậy, họ có tham đắm được không ?. họ không có sự tham đắm.

Người Phật tử chúng ta tu tập thì khi quán thấy sự vô thường, khổ và vô ngã đối với vạn pháp đó là sự sáng suốt, và khi chúng ta nhàm chán cuộc đời vậy, chúng ta tiến đến sự viễn ly sự khổ tham sân si, thì đây là một sự tích cực, nỗ lực của tinh thần chớ không phải là sự bi quan yếm thế như người đời họ suy nghĩ .

Thái độ giống nhau, nhưng tâm lý khác nhau, chúng ta phải hiểu hai chỗ đó. Một người ngồi vào bàn ăn nhìn vật thực, vẻ mặt của họ thờ ơ, họ không thèm gắp món này, không thèm ăn món kia, và người thứ hai cũng vây, họ nhìn vào bàn ăn với nhiều thức ăn thượng vị, họ nhìn thấy như vậy họ cũng im lặng và họ không thiết tha với việc ăn. Hai người này chúng ta đừng nói rằng tâm trạng họ giống nhau. Người này sở dĩ họ thấy nhiều thức ăn mà họ ngao ngán, họ không ăn, họ chán ăn là người đó bị bịnh, vì bị bịnh tiêu hoá hay bịnh tỳ vị, bịnh đau bao tử, cho nên gặp những món ăn không thích hợp cho nên họ ngao ngán, họ chán ăn. Còn người kia tại sao họ chán ăn?, tại sao họ không muốn ăn ?, chúng ta cần xét lại. Có đôi khi người này đã no rồi, cho nên họ không muốn ăn nữa, người đã no rồi không muốn ăn nữa, hoặc là người này cảm thấy những thức ăn này, ở chỗ này nếu ăn quá nhiều thì sẽ bị người ta cười, người ta nói mình chết đói v.v...cho nên người này có thái độ dửng dưng, không thèm ăn, thì đó là trạng thái khác nữa.

Cũng như trong cuộc đời này khi chúng sanh gặp hoàn cảnh khổ đau, họ không biết phải làm sao nữa, lúc ban đầu thì họ lúng túng, sau đó họ quằng quại, họ than thở và họ không thiết tha gì đến việc sống để làm việc hết, thì người đó mới gọi là người bi quan. Còn đối với người Phật tử chúng ta khi gặp cuộc sống là như vậy, chúng ta không khởi lên sự tham muốn, không khởi lên sự ướt muốn để chúng ta dành giựt để tranh đấu với cuộc đời, trạng thái đó là trạng thái chúng ta chối bỏ cuộc đời, vì chúng ta thấy nó không đáng để chúng ta phải đắm nhiễm. Trong trường hợp đó là trạng thái tích cực, chúng ta phải hiểu hai trạng thái khác nhau.

Bây giờ chúng ta nói qua vấn đề khác, khi một người đã tu, thấy được vô thường, khổ, vô ngã, người đó họ không muốn làm phước nữa, họ không thiết tha làm thiện nữa, như vậy có nên chăng ?. Có nên ngồi lại chỉ để mà tu thiền thôi, để mà tu quán thôi?

Thưa quí vị, ở đây có hai vấn đề, một là người đáng khen và một người đáng trách, hai thái độ lơ là với chuyện làm phước, có một thái độ đáng khen và một thái độ đáng trách.

Một người khi đã vượt qua khỏi phận sự cần phải làm, việc nên làm đã làm, tức là chỉ cho vị ALaHán, lúc bấy giờ Ngài đã qua đến bờ bên kia bấy giờ Ngài mới lên trên bờ, và ra đi bỏ chiếc bè lại sau lưng, không còn đoái hoài đến chiếc bè đó nữa, như vậy là hợp lý.

Còn một người đang đứng bờ bên này, đang gặp sự nguy hiểm, giặc rượt ở phía sau, thú dữ đang rượt đuổi ở phía sau, mà trong khi đó người này không cố tạo một chiếc bè, hoặc là đang ở trên bè, nhưng người đó lại tháo gởi chiếc bè đó, cho nó tan tác trôi theo giòng, người này không thiết tha ôm giữ chiếc bè để qua sông, thì như vậy người này kết qủa là phải chết giữa giòng sông hay là chết bên bờ bên này do bị thú dữ ăn.

Chỉ khi nào chúng ta thành tựu tuệ giải thoát, chấm dứt được phiền não, việc nên làm đã làm, không còn sự tái sanh nữa thì lúc bấy giờ chúng ta mới bỏ thiện pháp, còn khi chúng ta vẫn là kẻ phàm phu, vẫn còn chịu lăn trôi trong bể khổ trầm luân mà bỏ thiện pháp, chúng ta sẽ không bao giờ thành tựu sự an vui cả, trái lại chúng ta sẽ chết. 
Nhưng nói đúng lý thì chúng ta phải nói như thế này. Làm sao ? Thiện pháp là gi`. Tất cả những gì thuộc về tâm thiện dục giới, tâm thiện sắc giới, tâm thiện vô sắc giới hay tâm thiện xu thế đều là thiện pháp.

Nhưng ở đây, thường thường phàm phu chúng ta sử dụng tâm thiện dục giới. Tâm thiện dục giới của chúng ta dùng để tu tập, dùng để bố thí, dùng để tri` giới, dùng để cung kính, phục vụ, thính pháp, thuyết pháp, tùy hỉ phước. Bây giờ chúng ta dùng trí tuệ sáng suốt hàng ngày chúng ta ngồi lại để tu thiền, đó cũng là một thiện pháp, một thiện nghiệp, đó cũng là một cơ hội để tạo phước báu. Chứ Sư không nói đó là không phải thiện pháp, Sư không nói là quí vị nên bỏ phước báu, nếu khuyên quí vị bỏ phước báu đừng làm nữa, thì Sư khuyên quí vị tu thiền để làm gì ? Tu thiền tức là để tạo phước báu, quí vị nên hiểu rằng phước ở đây có nhiều dạng, phước vật, phước đức, phước trí . Phước vật chất là phước phát sanh lên sự may mắn hanh thông trong đời sống, phước phát sanh lên sự sáng suốt thông minh, trí tuệ hiểu thấu đáo các pháp gọi là phước trí.

Ba phước, phước vật, phước đức, phước trí , quí vị muốn tạo phước nào cũng được. Muốn có tài sản thì nên bố thí, nên cúng dường, sự bố thí cúng dường để tạo phước vật chất. Muốn tạo phước đức thì giữ ngũ giới hay tu tâm tứ vô lượng, hoặc hạnh phạm trú. Muốn tạo phước trí để cho trí tuệ càng ngày càng sáng lên tỏ rõ được pháp vô thường, khổ và vô ngã, để đừng đắm nhiễm say mê với cuộc đời này, thì hãy tạo phước trí, tức là việc tu thiền của chúng ta, hay là chúng ta thính pháp để tạo phước trí.

Phước nào cũng là tạo phước cả, chúng ta tạo phước nào cũng tốt cả, đó là chúng ta chưa nói đến vấn đề hồi nãy, Sư khuyên quí vị là việc tu tập của chúng ta hãy gấp rút nhắm vào một tiêu nhắm cứu cánh phạm hạnh để giải thoát thân này chứ đừng tạo phước để sanh về cõi người cõi trời, đó là Sư phân ra hai loại phước, tức là phước hiệp thế và phước siêu thế. Phước hệ thuộc luân hồi, và phước dẫn đến xuất luân hồi, thì hai loại phước đó khác nhau, một người Phật tử chúng ta, nếu như làm phước mà cứ để kết buột vào vòng sanh tử luân hồi mãi như vậy không đáng.

Đức Phật dạy: "này chư Tỳ kheo, vị Tỳ kheo tu tập với mục đích mong rằng nhờ phạm hạnh này tôi được sanh vào cõi người, cõi trời chẳng hạn thì vị Tỳ kheo này thực hành phạm hạnh, xem như phạm hạnh bị bể vụn, bị sức mẻ, bị tỳ vết, phạm hạnh đó không được viên mãn, không được thanh tịnh hoàn toàn. Mục đích của vị Tỳ kheo xuất gia tu tập phạm hạnh không phải để sanh về cõi trời, cõi người mà vị đó cố gắng tạo những phước vật, phước đức, phước trí là để nhắm vào sự giải thoái trong tương lai, như vậy mới gọi là tạo phước.

Tạo phước để dẫn xuất luân hồi, hay không hệ thuộc luân hồi, thì phước đó là phước dẫn đến quả vô lậu giải thoát thì chúng ta nên làm. Còn phước để phát sanh quả hữu lậu để đời sau chúng ta sanh ra để được làm vua, làm chúa làm quan hay được làm chư thiên, hoặc làm những cô gái đẹp, hoặc làm những anh chàng tài tử có danh tiếng, thì cuộc sống cũng chẳng vui vẻ gì, điều này hết sức nguy hiểm. Cho nên ở đây Sư muốn nhắc thêm quí vị điều này, chúng ta đừng có hiểu lầm, mà cần phải phân tích rõ ràng. Mong rằng các Phật tử chúng ta hãy vững tâm, chúng ta cũng phải làm phước, nhưng làm phước với mục đích giải thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi thì tốt hơn, chứ chúng ta làm phước để kết hợp luân hồi, hệ thuộc luân hồi thì điều đó không tốt, đó là những điều chúng tôi muốn nhắc như vậy. Đây là câu trả lời của chúng tôi. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Có bao nhiêu lần ở trong đời của chúng ta đã từng thấy những người già, những người bịnh và những người chết, nhưng chúng ta không thay đổi nhiều. Chúng tôi trong thời gian trước đây có nhiều lần đi theo Hoà Thượng đến bịnh viện, và mỗi tuần ba ngày Hoà Thượng đi lọc máu, ra chỗ lọc máu thì chúng tôi nhìn thấy có mấy mươi người ngồi ở trên những cái ghế, và khi lọc máu thì con người của chúng ta giống như một cái máy, người ta đặt một máy lớn rồi họ đặt ống vào trong người, máu lấy từ trong người ra đi qua một hệ thống lọc rồi đi ngược trở lại trong thân mình. Chúng tôi nhìn thấy bao nhiêu người ngồi đó lọc máu, hình ảnh đó rất khác với những hình ảnh đập vào mắt chúng ta khi đi ngang một tiệm uống tóc, người ta ngồi để hớt tóc để làm đẹp hay là ở bất cứ nơi nào khác. Ở chỗ lọc máu thì tất cả những người đó đều bị bịnh. Có những lần trong lúc Hoà Thượng đang lọc máu, chúng tôi đứng đó và chúng tôi tự hỏi là tâm thức của chúng ta đã cảm nhận bao nhiêu về tính chất của đời sống, cái thân con người mỏng mảnh như vậy, phù du như vậy, hứng chịu bao nhiêu cái đau khổ như vậy.  Đức Phật Ngài nói rằng thân của con người là một ổ bệnh tật, ở đó có trăm muôn ngàn thứ bịnh. Chúng ta đến đó chúng ta sẽ thấy rất rõ. Nhưng những điều đó nếu nó có tác động được ý thức của chúng ta thì ở trong những giây phút nào đó chúng ta không thể làm được quyết định lớn như Đức Phật, một người sống ở trong cung vàng điện ngọc mà chỉ cần một lần thấy người già, một lần thấy người bịnh, một lần thấy người chết, một lần thấy vị samon đã làm một quyết định thay đổi hoàn toàn đời sống của mình, đó là quyết định lớn chứ không nhỏ. 

TT Giác Đẳng - Đức Phật của chúng ta - Minh Hạnh chuyển biên

Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống

Ngủ Ngày


Ðại sư Soyen Shaku qua đời lúc sáu mươi mốt tuổi . Soyen Shaku đã làm trọn việc đời mình . Soyen đã để lại một giáo lý vĩ đại , phong phú hơn rất nhiều giáo lý của hầu hết các Thiền sư khác . Các đệ tử Soyen hay ngủ ngày giữa mùa hè , trong khi Soyen bỏ qua điều này và chính mình không lãng phí một phút nào .

Vừa được mười hai tuổi , Soyen , đã học tư tưởng triết lý của trường phái Tendai . Vào một ngày mùa hạ khí trời rất oi bức , chú bé Soyen vãi chân ra ngủ trong khi thầy chú đi vắng .

Ba tiếng đồng hồ êm ả trôi qua , bổng dưng chú Soyen thức giấc , nghe tiếng chân thầy bước gần , nhưng quá trể rồi . Chú nằm ì ra đó , chắn ngang lối vào cửa .

“ Xin lỗi con , xin lỗi con “ , thầy chú thì thầm , và nhè nhẹ bước qua người chú như là một người khách đặc biệt . Sau vụ này , Soyen không bao giờ ngủ ngày nữa .

Chuyện Xưa Tích Cũ - Tích trái sầu riêng

TÍCH TRÁI SẦU RIÊNG

Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình

Thuở xưa kia, có hai anh em cùng nhau đến dựng nhà bên bờ suối. Người anh là một vị quan tể tướng tại trào, nhưng vì chán cảnh danh lợi phù du nên lìa bỏ phồn hoa đô hội, bỏ cả hầu thiếp, ăn mặc áo bã, hài gai về ẩn dật trong cảnh lâm tuyền, mượn gió mát trăng thanh, cầm, kỳ, thi, tửu làm bầu bạn.

Bấy lâu nương nhờ vào sự vinh hiển của người anh, nên người em mới tạm theo về hôm sớm bên anh, chớ lòng chỉ nghĩ đến danh lợi, mũ cao, áo rộng nơi chốn kinh thành xa hoa tráng lệ. Người em hằng tìm cách xa lánh núi rừng để trở về thành thị. Biết vậy người anh thường khuyên em: -Càng cao danh vọng, càng giàu gian nan, chú lưu luyến cảnh lầu son gác tía, có kẻ hầu người hạ mà làm gì bận tâm nhọc xác, chúng ta sống thong dong trong cảnh thiên nhiên như vầy chẳng là thảnh thơi sung sướng lắm sao?

Những lời người anh nói, người em thường gác bỏ ngoài tai, lại chê trách anh mình gàn dở, nên mới bỏ địa vị tể tướng tại trào, chọn cái sống mai một như cỏ cây. Ngày ngày người em tìm đủ cách hoặc tạo lấy cơ hội để tiến thân với nhà vua. Một hôm gần bờ suối có cội cây trổ sanh một quả, trông hình dáng xù xì như quả mít tố nữ, ngặt vì vỏ cứng và có gai lổm chổm nhọn hoắt như từng mũi kim châm. Thật là một quả lạ chưa từng thấy bao giờ, mùi thơm lại thoảng đưa nồng nực. Người em cho rằng cơ hội tiến thân của mình đã đến rồi, liền hái quả lạ ủ vào trong lá để ngày mai đem về kinh thành dâng lên cho vua thưởng thức.

Người anh hết sức khuyên lơn em không nên liều lĩnh mà chuốc vạ vào thân, nơi chốn triều đình chẳng thiếu chi trái ngon, vật lạ vua đoái hoài chi đến một thứ quả hình dạng xấu xa. Người em vẫn không nghe, nằn nằn quyết một ra đi.

Khi người em xuống đến kinh thành. Đem quả lạ dâng lên vua bảo là quả này có mùi thơm tựa hương trầm. Vua liền đòi người em vào rồi truyền thị vệ lấy dao bổ quả quý ấy ra. Đến chừng nhà vua đưa lên mũi bỗng ngài nhăn mặt, bịt mũi kêu thúi om sòm. Các thị vệ bèn xúm lại bắt trói người em rồi đem ra chém đầu về tội khi quân.

Sau lúc chiếc đầu người em rơi rụng, quan Tư đồ vụt có ý tò mò, tìm đến nơi đã quăng trái lạ mà xem, ông thấy trái này có từng múi màu vàng, cơm của nó lầy nhầy như mỡ đặc, ngửi thấy mùi thúi mà nếm vào miệng thì ngọt ngào đầy mùi vị thơm ngon. Lập tức quan Tư đồ vào bệ kiến nhà vua trình qua tự sự. Nhà vua vẫn chưa tin, truyền đem cho mình nếm thử. Quả nhiên, nhà vua thưởng thức được hương vị đặc biệt lạ lùng của trái quý này trước giờ chưa từng thưởng thức.

Nghĩ lại, nhà vua lấy làm hối hận lỡ tay giết oan một mạng người đã vì trọng vọng mình đem hiến dâng của lạ. Tuy vậy việc đã lỡ rồi, không lẽ để cho triều thần nhìn thấy sự lầm lỡ phiền trách mình, nên nhà vua chỉ âm thầm với nỗi sầu riêng.

Hôm sau, nhà vua truyền cho triều thần tìm xem gốc tích của trái lạ và hiện nơi nào có nó để hái đem về. Quan quân đi lùng kiếm ở khắp nơi vẫn không biết nơi nào có thứ trái lạ. Chỉ có người anh là biết, nhưng từ lúc hay tin người em bị rụng đầu vì hiến dâng trái lạ, người anh không khỏi châu mày hối tiếc, tại sao không quyết liệt ngăn cản em mình lao đầu vào chỗ chết, nghĩ thẹn và lòng những buồn riêng, người anh âm thầm sầu khổ như thấy em hiện về trách móc, cho đến lúc sự sầu riêng làm người anh nhuốm bệnh qua đời.

Đến sau, một vị vua nhà Lý, nhân trẩy quân qua cánh rừng, thấy trái lạ vừa chín vàng trên cây, mùi thơm bay phảng phất mới bảo quân sĩ hái xuống nếm thử, lại được nghe một quân sĩ già kể chuyện nên đặt tên trái lạ là trái sầu riêng.

Cổ Học Tinh Hoa

MẤT BÚA

Có người đánh mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó,rõ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, hành động không một tí gì là không rõ ra một đứa ăn trộm búa cả.

Ðược một lúc, người ấy bới trong hố, lại thấy cái búa. Thì hôm sau, trông đứa con nhà láng giềng ngôn ngữ cử chỉ không một tí gì giống đứa ăn trộm búa nữa. 

LỜI BÀN

Người ta khi mất một cái gì, thì một mất mười ngờ. Mà khi trong bụng đã ngờ vực thì các ngoại vật cũng theo đấy mà biến đổi đi cả.Phàm tâm trí mình đã cảm giác làm sao, thì tự mình lại tưởng tượng một cái cảnh sắc hợp như thế. Người mình vui, thì mình thấy sự vật ngoài hình như cũng vui, người mình buồn thì mình thấy sự vật ngoài cũng buồn. Chẳng qua là tại tự mình in trí như vậy, chớ ngoại vật hồ dễ đã có mối liên lạc mật thiết với mình mà thật thay đổi như thế đâu! Cái tâm chuyển thời hết thảy muôn pháp đều chuyển theo. Cho nên tâm cần phải chính. Tâm có chính thì tư tưởng hành vi mới thoát khỏi tà khúc được. 

Những câu chuyện ngụ ngôn hay

Sư tử và chuột

Sư tử ngủ. Chuột chạy qua trên ngời sư tử. Sư tử choàng tỉnh và tóm được chuột. Chuột lên tiếng van xin sư tử tha cho no ra. Chuột nói:
- Nếu ông thả cháu ra, cháu sẽ làm điều tốt cho ông.
Sư tử bật cười vì chuột nhắc hưá sẽ làm điều tốt cho nó, nhưng cũng thả chuột ra. Về sau ngững người thợ săn tóm được sư tử và lấy dây trói sư tử vào thân cây. Chuột nhắt nghe thấy tiếng sư tử gầm, chạy đến cắn đứt dây thừng và bảo:
- Ông có nhớ là khi ấy ông cười, ông không nghỉ là chuột nhắt cháu lại có thể làm cho ông điều tốt, cón bây giờ thì ông thấy đấy, cũng làm được điều tốt chứ. 

Chuyện cười trong ngày

Một ngày đẹp trời nghĩa là gì?

Sherlock Holmes và bác sĩ Watson đi cắm trại. Hai người nằm ngủ cạnh nhau. Gần sáng, Holmes lay bạn dậy và hỏi:

- Watson, nhìn xem, anh thấy cái gì?

- Tôi thấy rất nhiều sao.

- Vậy theo anh, điều này có nghĩa là gì?

- Nghĩa là chúng ta sẽ có một ngày đẹp trời. Còn anh?

- Theo tôi, điều này có nghĩa là ai đó đã đánh cắp cái lều của chúng ta.

Monday, November 25, 2013

25-11-2013 Suy Niệm Trong Ngày

Phật Học Vấn Đạo - Bốn nhân nào khiến một người có ngoại hình đẹp và khả ái?

Hỏi: Bốn nhân nào khiến một người có ngoại hình đẹp và khả ái?

(Câu thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma, Minh Hạnh chuyển biên)

TT Giác Đẳng: Chúng tôi muốn nói đến bốn nhân khiến cho một người có ngoại hình đẹp và khả ái. Dĩ nhiên là từ bốn nhân này chúng ta có thể nhìn qua một khía cạnh khác.

1. Nhân đầu tiên chúng ta được biết một người có tướng hảo quang minh hay có thân tướng đẹp là do nghiệp ở trong quá khứ đã tạo. Một bài kinh ở trong Trường Bộ Kinh đó là kinh Lakkhana Sutta được dịch là Tướng Kinh nói về 32 đại trượng phu tướng của Đức Phật từ: răng, tóc, da, vóc dáng v.v.... Những thứ này đẹp, Đức Phật Ngài cho biết rằng mỗi một đặc điểm trong đại trượng phu tướng là kết tinh của thiện nghiệp trong quá khứ, và khi thiện nghiệp đó kết tinh trổ quả thì được tướng đó và chẳng những được cái tướng đó không mà từ cái tướng đó nó cũng tiêu biểu cái phúc quả liên quan đến tướng đó. Đọc bài kinh Tướng Kinh ở trong Trường Bộ Kinh chúng ta sẽ thấy ba khía cạnh luôn luôn được đề cập đến đó là nghiệp quá khứ và biểu tướng do quả của nghiệp quá khứ trổ ra trong hiện tại và điểm thứ ba là từ biểu tướng này một người được cái gì ở trong đời sống? được thọ mạng, được uy đức v.v... 
2. Một đặc điểm khác, sau khi chúng ta nói về nghiệp quá khứ thì phải nói đến chủng loại. Dĩ nhiên chủng loại này bị ảnh hưởng bởi nghiệp quá khứ.  Thế giới chúng sanh ở trong đời này thì trong sự mô tả của kinh điển cho chúng ta biết thì bốn loài trong cõi khổ là, địa ngục, a tu la, ngả qủi và bàng sanh, thì có thiên hình vạn trạng nhiều thân tướng khác nhau duy chỉ có loài người là có một số có tướng cách giống như Phạm Thiên giống như Chư Thiên. Trong kinh thường dùng hai thuật ngữ: một thuật ngữ là bàng sanh, chữ bàng sanh có nghĩa là những chúng sanh đi ngang là loại đưa lưng lên trời chỉ cho loài bốn chân. Một loại khác chúng ta gọi là lưỡng túc là loài hai chân, loài hai chân thường được chỉ loài người, chỉ cho chư thiên, phạm thiên. 
3. Điểm thứ ba là là tâm từ. Có thể nói rằng tâm từ và tâm sân không những chỉ về những trạng thái hoặc giả là nung nấu hoặc giả là làm mát mẻ nội tâm của chúng ta mà còn biểu hiện ra bên ngoài.
Có một lần Hoàng Hậu Millika nói chuyện với Đức Phật, và Đức Phật có đề cập rằng một trong những lý do làm cho con người xấu xí không được khả ái đó là vì họ có nhiều sân tâm, và một trong những lý do làm cho con người có màu da tươi sáng diện mạo khả ái đó là từ tâm. Vẻ đẹp của từ tâm là cái đẹp rất lạ lùng. Trong cuộc đời của chúng tôi được gặp một vài vị cao tăng, có vị là thiền sư, có vị là pháp sư, và tâm tư của các vị đó có rất nhiều lòng từ, mình biết mình cảm nhận được tâm từ ở trong tâm tư của những vị này, tuy rằng mình không đọc được tâm vị đó nhưng qua ánh mắt qua cử chỉ thái độ có nét khả ái khả kính lạ lùng. Về điểm này thì ở loài người ít có thấy. 
Người Việt Nam, chúng ta có đề cập đến một sự kiện khác biệt nói về cái đẹp thì có người có vóc dáng đẹp nhưng lại không có duyên, nhưng đôi khi có những người không đẹp nhưng họ có duyên, chữ có duyên đó là nói lên một sự khả ái mà không thể nói bằng lời. Chúng tôi nhớ có một lần tình cờ đọc một bài đăng trên tờ báo Houston Today nói về một số tài tử ở trong đó có bà Meryl Streep, nếu nói về nét đẹp về thẩm mỹ thì bà không phải là người đẹp lắm nhưng người tài tử này đóng phim rất ăn khách tại vì có duyên. Dĩ nhiên, có nhiều lý do nhưng căn bản mà nói thì con người không phải chỉ đẹp là do màu sắc, do đường nét, do kích thước. Nhưng người đẹp của từ tâm thì chúng ta thường quan niệm là một sự biểu tỏ của một trạng thái sâu kín trong lòng có từ tâm. Người có từ tâm là người luôn luôn mang lại sự an lạc cho những người chung quanh mình, người có từ tâm là luôn luôn mát mẻ luôn luôn không nuôi sân tư duy, hại tư duy với những người chung quanh mình và cái từ tâm này mang lại cho họ cái nét đẹp một sự toả sáng rất đặc biệt.
4. Chúng ta đã nói về nghiệp trong quá khứ, chúng ta nói về chủng loại, chúng ta nói về tâm từ, đó là ba yếu tố đầu tiên mà trong kinh thường nói đến, bây giờ chúng ta nói đến yếu tố sau cùng làm cho một người có thân tướng đặc biệt và đẹp. Về điều này thì rất ít khi ở trong thế gian này chúng ta tìm thấy. Đó là các căn trong sáng. Về điểm này thì mới nói ra thì có nhiều vị không quen vì khó hình dung ra. Các căn ở đây là, nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý hay nói cách khác là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Con mắt của một người có tâm từ và con mắt của một người đầy dục vọng, đầy phiền não sân hận thì có khác nhau. Về điểm này rất lạ. Chúng tôi có thời gian ở gần các thiền sinh sống trong rừng thiền có một vài vị tu tập rất tinh tấn, khi tiếp xúc với các vị đó thì chúng tôi nhận ra được cái ý nghĩa thế nào gọi là các căn thanh tịnh. Có lẽ về điểm này chúng ta không để ý nhưng khi nào mình đi đâu sống gần với thiên nhiên ít có phiền não ít có những u uẩn trong lòng, những lúc chúng ta tu tập ở trong các khóa tu chẳng hạn thì những lúc đó, một ngày, hai ngày, ba ngày, mười ngày, chúng ta gọi là các căn được trong sáng không có phiền não ấp đầy trong tâm, không bị chi phối bởi những nghiệp não, lo âu, phiền muộn. Thì trong kinh dùng chữ các căn trong sáng để chỉ cho những người lục căn thanh tịnh không phiền não, sự trong sáng này toát ra một ấn tượng, một hào quang ít khi chúng ta thấy. 
Khi chúng ta nói đến bốn điểm này là: phước nghiệp ở trong quá khứ, chúng ta nói đến chủng tộc, về từ tâm, và nói đến các căn thanh tịnh. 
Nói tóm lại, chúng ta đã nói về bốn nguyên nhân tạo nên ngoại hình, tạo nên dáng cách:
1- Túc nghiệp ở trong quá khứ. Túc nghiệp tức là cái nghiệp đã tạo ra trong đời trước, hễ người tạo nghiệp thiện thì đời sau sinh ra thân tướng đẹp đẽ.
2 - Điểm thứ hai, chúng ta biết cũng liên quan đến nghiệp nhưng có liên quan đển chủng loại.
3 - Và chúng ta cũng nói hai yếu tố của nội phần đó là từ tâm và sự thanh tịnh. Người có từ tâm thì trong cử chỉ ánh mắt, trong lời nói chúng ta thấy có chứa tính chất của từ bi.
4 - Và khi nói đến các căn thanh tịnh thì chúng ta đặc biệt phải nói rằng một người tu tập trên hành trình tu tập hay là đã hoàn tất con đường tu tập và sáu căn được phòng hộ không phiền não, không bị chi phối, không bị chao động thì các căn thanh tịnh toát ra một vẻ đẹp cao qúi mà có lẽ khó có ai có thể sánh được.

Mỗi Ngày Trầm Tư Sanh Tử

Phải nói rằng tâm tư của chúng ta thường rất nhảy cảm, nó không phải nhảy cảm mà có thể nói rằng nó mẫn cảm đến mức độ dễ vui dễ buồn dễ bị tổn thương, cái gì cũng có thể làm cho chúng ta nhức nhối, cái gì cũng có thể làm cho chúng ta sầu muộn và đây có thể nói là một điều không may không những cho một người hai người mà cả một thế hệ của chúng ta. Con người càng lúc càng đòi hỏi sự tự do cá nhân càng nhiều nhưng mà nghịch lý hết sức là càng lúc chúng ta lại càng sống gần với nhau hơn ở trong nếp sống đô thị và chúng ta càng đụng chạm nhau hơn. Tại Hoa Kỳ có những trường hợp vợ chồng cãi nhau đưa ra toà tại vì một trong hai người đó khi ngủ gáy lớn quá, hoặc giả người ta đề cập đến một chuyện là hàng xóm nếu mình sơn cái nhà mà sơn không đúng màu người ta cũng có thể kiện mình, người ta có trăm ngàn lý do để nói lên là cá nhân của họ được bảo vệ, sự bảo vệ đó mới xem ra thì dường như là bảo đảm lắm nhưng về lâu về dài thì điều đó giống như là một vết thương được bưng bít lại, cái vết thương mà nó được băng hầm kín lại thường nó lại không mau lành như là vết thương được rửa sạch được làm cho thoáng làm thế nào để sát trùng chăm sóc đầy đủ, chúng ta không chăm sóc vết thương bằng cách lấy vải với băng bọc kín lại từ ngày này qua ngày khác mà không chịu rửa không chịu xức thuốc. Tâm tư của chúng ta cũng vậy, ở cái nhìn của Đức Phật là chúng ta luôn luôn tìm cách bảo vệ cái mà chúng ta quan niệm bản ngã của mình, bảo vệ cảm giác của mình, và nếu trước đó chuyện gì đụng chạm đến thì chúng ta đau giống như một đứa bé mà mỗi lần rửa ghẻ nó khó chịu nó xốn xao.

TT Giác Đẳng - Tâm giải thoát là tâm bất động - Minh Hạnh chuyển biên