Hỏi: Tâm Niệm là gì?
(Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Đẳng giảng: Phải nói rằng trong kinh điển của Ðạo Phật chữ "Tâm" và chữ "Niệm" hai chữ được hiểu một cách khác nhau hoàn toàn. Có lẽ chúng tôi không cần phải nói dài dòng ở tại đây, riêng thường thức ở bên ngoài "Tâm Niệm" là điều gì mà chúng ta phải tâm tâm, niệm niệm tức là phải thường ghi nhớ, phải thường tưởng nhớ, phải thường xuyên dặn lòng nhắc nhở chính mình, phải thường xuyên dùng những thứ đó thường niệm, tưởng. Thí dụ như chúng ta có quyển 10 điều tâm niệm của Hoàng Ðạo, một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Ðoàn trước đây, và chúng ta có 10 điều tâm niệm của người xuất gia, hoặc giả chúng ta có 10 điều tâm niệm trong Luận Bảo Vương Tam Muội mà các chùa thường in ra và treo ở trên tường.
Chữ "Tâm Niệm" ở đây hiểu theo phương diện thường thức cái gì mà chúng ta thường phải nhắc nhở, thường ghi nhớ lấy. Thật ra pháp tu tập về "tâm niệm" không phải xa lạ trong Ðạo Phật, như trường hợp chúng tôi vừa nhắc đến 10 điều tâm niệm của người xuất gia, Ðức Phật Ngài dạy 10 điều tâm niệm đó, ví dụ như Ngài nhắc hình dáng của ta đây phải khác hơn kẻ thế, như đầu tròn áo vuông khác hơn kẻ thế, sự nuôi mạng ta phải nhờ nơi kẻ thế, để không sanh tâm kiêu mạn. Rồi bậc trí có thể tự chê trách mình không, ngày và đêm trôi qua mình đã làm đưọc chuyện gì v.v....
Có nhiều điều để nhắc nhở hàng ngày, hay hoặc giả chúng ta cũng nghe những điều quán tưởng của người xuất gia, khi thọ dụng tứ vật dụng, tức là khi ăn, khi mặt, khi sử dụng chỗ ở, khi dùng thuốc men, những thứ đó cần nên được quán tưởng ra sao. Sự quán tưởng đó là một sự nhắc nhở, là một sự ý thức, sự quán tưởng hay là tâm niệm cho chúng ta đi theo đường hướng nhất định. Và về điểm này, quí vị sẽ thấy rằng rất thú vị khi chúng ta nêu lên một vài điểm ở tại đây, quan niệm của một người tu tập chánh niệm, thấy sao ghi nhận như vậy, hơi thở vào biết là hơi thở vào, hơi thở ra biết là hơi thở ra, hơi thở ngắn biết hơi thở ngắn, hơi thở dài biết hơi thở dài, mình thở ra với tâm hân hoan thì mình biết là mình thở ra với tâm hân hoan và thở ra với tâm không hân hoan biết là thở ra với tâm không hân hoan.
Như vậy ở trong một phương diện nào đó, một người tu thiền quán là người thấy sao biết vậy, không tô hồng chuốt lục, không vẽ rắn thêm chân, và cái nhìn của người thiền quán là cái nhìn rất tự nhiên. Nói như vậy không phải rằng một người tu tập không cần đến tâm niệm, không cần đến những khái niệm, khái niệm vốn đã lấy từ trong kinh điển, khái niệm đó vốn có sẵn mà chúng ta dùng ở đây là tiền chế. Tiền chế có nghĩa là những quan niệm vốn đã đặt bày, vốn được gợi ý, vốn đã được nói đến, đã được dạy ở trong kinh điển, còn cho biết một người tu thiền quán thấy sao ghi nhận như vậy, thấy sao biết vậy, thật ra hai điều này không có trái chống với nhau nhiều.
Nếu chúng ta ở tại các trường thiền, nếu chúng ta ở tại các trung tâm thiền định, chúng ta sẽ biết rằng không phải một ai bước vào trong trường thiền, được giao cho chìa khoá của am thất, rồi về am thất đó ngồi xuống một mình là có thể nhìn vào hơi thở của mình được, không phải ai được vị thiền sư dạy thiền rồi thì có thể ngồi xuống để theo dõi hơi thở được, không phải như vậy, chúng ta phải phấn đấu rất nhiều và lấy ví dụ chúng ta bị sự lôi cuốn của sắc đẹp của tiếng hay của mùi thơm vị ngon xúc lạc.
Ở đây, phải nhắc lại một giai thoại mà ông Chosacoton thường nhắc đến các khoá thiền của ông, có một lần ông đến dự một khoá thiền, thức ăn theo kiểu người Miến Điện và thức ăn lại hạn chế, một ngày chỉ ăn được một buổi thôi, và do vậy đầu óc của ông bị ám ảnh bởi một miếng bánh mì nướng, bánh mì nướng là một cái gì rất quen thuộc đối với bữa ăn sáng của người Tây Phương, và miếng bánh mì nướng bình thường thì nó không có nghĩa gì hết, bánh mì nướng mà để nghĩ đến, cũng không ai muốn nghĩ đến làm gì, thật ra muốn ăn thì ra nướng bánh mì, bánh mì đối với người Tây Phương cũng giống như cơm đối với chúng ta vậy. Tuy nhiên vào trong giờ hành thiền thì miếng bánh mì nướng nó trở nên một cái gì ám ảnh ở trong đầu, tự nhiên thèm miếng bánh mì nướng một cách lạ lùng, chưa bao giờ thèm như vậy, và lúc bấy giờ không ngồi định tâm được và không ngồi tập trung vào hơi thở được.
Nên chi, một người hành thiền cũng thường phải sống với một số tâm niệm, một số tâm niệm tức là một số nhắc nhở, hay một số lời dạy được trích từ trong kinh điển hay lời dạy của các vị thiền sư và điều này chúng ta gọi là điều tiền chế cũng được, và điều này chúng ta gọi những gì đã định đặt sẵn cũng được, tuy vậy những điều tâm niệm này giúp ích cho người hành thiền rất nhiều, chứ không có đơn giản, tại sao giúp cho chúng ta rất nhiều, bởi vì chúng ta không phải ai cũng có thể giữ được tâm tự nhiên để mà theo dõi hơi thở ngay lập tức như chúng tôi đã nói, mà chúng ta phải phấn đấu với bản thân, và trong sự phấn đấu với bản thân để có thể ngồi xuống yên lặng, có thể ngồi xuống lẳng lặng nhìn hơi thở thì sự phấn đấu đó đòi hỏi một số khí giới để chúng ta có thể đánh lại với giặc phiền não.
Phải nói nhận ra một điều là đối với tất cả những người tu tập hay những người muốn thay đổi cuộc sống của mình, trước nhất chúng ta phải trọn một số điều để tự nhắc nhở lấy mình, và những điều này đối với chúng ta phải là những gì có ý nghĩa rất lớn, không phải chúng ta phải nhắc mình như là những điều răn của thánh thần, mà chúng ta chỉ nhắc mình về những điều đến từ những lời dạy của Đức Phật, những điều này khi chúng ta đọc vào chúng ta cảm thấy thấm thía, cảm thấy có đủ sức mạnh để cho chúng ta vượt qua những phiền não.
Khi nãy chúng tôi cũng nhắc đến trường hợp người xuất gia có những pháp quán tưởng, quán tưởng về bốn món vật dụng, bốn món vật dụng của người xuất gia ngày hôm nay người ta ít có đề cập đến bởi nó không quan trọng và nó có sẵn nhiều.
Chúng tôi nhớ những năm tháng đầu, TT Trí Siêu với chúng tôi đi xuất gia, và đặc biệt là thời gian sống ở Long Thành, thực phẩm rất khan hiếm, lúc bấy giờ hầu như thường xuyên phải ăn độn với khoai mì và lúc bấy giờ người ta bán rất nhiều loại mì sợi, hồi trước năm 75 chúng tôi thích ăn mì sợi lắm, nhưng phải nói rằng lúc sống ở Long Thành, rất sợ ăn mì sợi, mì sợi người ta luột cả thúng to, rồi lấy nước chấm chan lên cho ăn thôi, chứ không có cái gì để ăn với nó hết, ăn thế cho cơm, lúc đó mới thấy rằng miếng ăn nó quan trọng, chỗ ở cũng quan trọng, nhưng thật sự đối với người Việt Nam thì một giai đoạn nào đó miếng ăn được coi như quan trọng như vậy.
Bây giờ chúng tôi được nghe rằng thực phẩm rất đầy đủ, miếng ăn không còn quan trọng nữa. Nhưng nói chung đời sống khi đi xuất gia, cái ăn, cái mặc, thuốc uống, chỗ ở rất dễ trở thành những thứ làm cho mình sanh ra tâm phiền não, dễ dàng để sanh phiền não lắm, bởi vì khi đã giảm bớt những nhu cầu khác, nó chỉ tập trung vào những nhu cầu hết sức tương đối thì những nhu cầu đó lại có sức quyến rủ rất đặc biệt.
Chúng tôi nhớ là có một vị Thầy cho chúng tôi biết rằng có một lần đi đến một chùa ở Uden, chùa của Ngài Ajahn Maha Boowa, Ngài giao cho một cái thất, mà chúng ta gọi là cái cốc, cốc là chỗ để những vị xuất gia ở, bên Thái lan tì những ngôi chùa theo truyền thống đầu đà, hay tu thiền, những ngôi chùa này đa số cất những cái cốc riêng, những cái cốc này gọi là những am thất, đa số được cất ở những nơi thanh vắng, thường thường được bao bọc chung quanh bởi những rừng cây để tạo ra sự yên tĩnh, và có một phong tục ở bên Thái Lan, có nhiều người khi họ qua đời, tài sản họ còn để lại, thân nhân hay gom tất cả tài sản đó để cúng dường vào trong chùa để cất những am thất cho những người tu thiền, ví dụ như người đó để lại một số tiền vài ba chục ngàn đồng, số tiền đó sẽ được dùng cất một cái cốc và ở trước cái cốc đó có bản nhỏ đề là cốc này cất để hồi hướng cho ông A bà B nào đó, và cũng có trường hợp đặc biệt, mỗi cái cốc như vậy người ta xây một con đường kinh hành, con đường kinh hành nghĩa là con đường bằng gạch để cho những vị hành thiền đi tới đi lui tu tập, gọi là thiền hành, tức là tu thiền tu dưỡng chánh niệm lúc đang đi, thông thường người ta lấy hũ cốt của người mất, họ chôn ở cuối con đường kinh hành đó, có nhiều vị sợ ma khi đi hành thiền mà biết rằng có hũ cốt chôn ở cuối con đường kinh hành thì sợ, nhưng thường thường người ta tin rằng khi một người tu thiền, đi kinh hành hay ngồi thiền mà nhớ rằng cái cốc này, con đường kinh hành này được xây dựng bởi một thí chủ nào đó, bây giờ thí chủ đã quá vãng, người ta hồi hướng cho thí chủ đó, nên chi cái phong tục như vậy thường dễ tìm thấy ở các chùa thiền.
Chúng tôi trở lại với câu chuyện đang bàn đó là những cái am thất thông thường được cất rất đẹp, chúng tôi ở và chúng tôi phải nhìn nhận rất đẹp, rất thoáng. Người Thái Lan họ có kinh nghiệm rất lớn về thủ pháp cất các am cốc, họ cất như thế nào mà kiến không vào được, rắn không vào được, cất như thế nào mà thoáng mát, trông nó giản dị. Ví dụ như cốc luôn luôn cất giống như nhà sàn và cao lên một chút, cửa sổ không cao, cửa sổ sát với cái sàn vì vậy khi mở cửa sổ gió có thể vào trong, cả trong lúc chúng ta nằm cũng có thể có gió thoáng được. Và phải nói rằng một cái am thất nằm giữa trong rừng cây bao bọc ở chung quanh, là một nơi rất dễ làm cho chúng ta sanh tâm ái nhiễm, ái nhiễm chỉ muốn ở tại chỗ đó mà thôi. Đặc biệt nếu chúng ta đến đó vào mùa gần tết, như mùa bây giờ không có mưa, tâm hay sanh dính mắc, bởi vậy ở tại các trường thiền của Ngài Ajahn Chah thông thường những vị tu thiền phải dời chỗ ở của mình, trong ba tháng phải đổi một lần, ví dụ như chúng ta mới bước vào trong rừng thiền, người ta giao cho chúng ta một cái am thất rất đẹp, chúng ta nghĩ rằng mình sẽ xin Ngài Thiền Sư ở luôn tại đó tu tập, như vậy tâm sẽ dính mắc. Trong vòng khoảng chừng ba tháng, có một phiên họp vào ngày bố tát, người ta lấy chìa khoá ra để đổi với nhau, người này phải rời qua chỗ kia, chỗ kia rời qua chỗ nọ, có thể am thất của mình ở chỗ rất gần lại rời đi xa, chỗ rất đẹp rời lại cái am xấu, chỗ mới dời đi chỗ cũ chẳng hạn, để không có tâm dính mắc vào những am thất mà mình đang ở.
Nói chung, đời sống khi dẫn đến sự tu tập, thường thường những nhu cầu về vật chất nằm trong bốn nhu yếu phẩm, như bốn nhu yếu của một người tu đó là thực phẩm, chỗ ở, thuốc men, và y phục, những thứ đó làm cho người tu tập dễ dính mắc và để đối trị với những thứ này Đức Phật Ngài dạy một người xuất gia quán tưởng, quán tưởng trước khi dùng, quán tưởng khi đang dùng, quán tưởng sau khi dùng, và mỗi buổi sáng trước khi mặt trời mọc, các vị Tăng sĩ đọc những bài về quán tưởng như một điều tâm niệm, bởi vì những điều tâm niệm này, ví dụ như Đức Phật Ngài dạy một người xuất gia nên tâm niệm rằng mình ăn uống không phải để mập, để mạnh, để làm cho cơ thể được đẹp đẽ, ăn uống để từ cái khổ của đói, ăn uống để nuôi cái mạng tu tập v.v...Sự nhắc nhở như vậy ban đầu nghe giống như thủ tục, giống như những điều răn, nhưng mà với một người tu tập, những điều đó có ý nghĩa lớn, tại vì trả chúng ta trở về với ý thức chân thực về thái độ nào là thái độ nên có đối với những món vật dụng những nhu yếu của đời sống, như vậy tâm niệm là pháp tu rất phổ thông trong Đạo Phật.
Chúng tôi chỉ đưa ra có hai ví dụ thôi, chúng tôi chưa kể ra những ví dụ khác, ví dụ như chúng ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm Chư Thiên, những pháp niệm đó quí vị gọi tiền chế thì cũng có một phần tiền chế, thế nào là ân đức Phật, ân đức Pháp, ân đức Tăng như chúng ta đọc ở trong Thanh Tịnh Đạo, kể cả ơn đức của Chư Thiên và những thứ đó được đem vào trong đời sống để khai triển làm một khái niệm để tập trú, để an trú. Như vậy những cái chúng ta gọi là tâm niệm nó vẫn có một giá trị nhất định, nó vẫn có giá trị lợi lạc, chứ không phải khi chúng ta tu thiền rồi chúng ta nhìn sự vật một cách tự nhiên, cái gì xảy ra như thế nào chúng ta nhận là đủ, phải nói rằng trước khi chúng ta có khả năng để quan sát sự vật có tánh cách tự nhiên, chúng ta phải có rất nhiều tâm niệm cần thiết để chúng ta đem vào cuộc sống tu tập của mình.
Bây giờ chúng ta hãy bước qua một đề tài khác, khi chúng ta đề cập đến những điều tâm niệm và cuộc sống tu tập. Chúng tôi có đặt ra một câu hỏi:
Tâm niệm có phải là một giới luật hay không?
Đối với chúng tôi điểm này là một điểm rất thú vị, có thể nói rằng những gì mà mình cần phải tâm niệm và quán tưởng để nhắc nhở, trừ khi liên quan những điều tứ vật dụng mà Đức Phật Ngài dạy những điều đó là thanh tịnh giới, ở trong tứ thanh tịnh giới gọi là quán tưởng thanh tịnh giới, nhưng những điều tâm niệm khác, phải nói rằng tùy vào căn cơ, tuỳ vào căn duyên của mỗi người, và mỗi người có thể đem vào trong tâm tư của mình những tâm niệm, và những tâm niệm này phải thích hợp với căn tánh của mình, ví dụ ân đức Phật, ân đức Pháp, ân đức Tăng, hay ân đức của Chư Thiên.
Một người niệm ân đức của Chư Thiên không có nghĩa ân đức của Chư Thiên hơn của Phật, hơn ân đức Pháp, hơn ân đức Tăng, mà tại vì người đó họ hạp với tâm niệm đó, họ hạp với khái niệm đó. Như vậy khi nói đến những điều tâm niệm, chúng ta cứ tưởng nghĩ rằng đó là những khuôn mẫu mà tâm nhất định phải đi theo. Ở trên thực tế những điều tâm niệm này là những gợi ý, nhưng khi áp dụng vào đời sống chúng ta thì được áp dụng như là giới luật, giới luật là điều phải thọ trì, giới luật là điều không có thể thay đổi được, nhưng những tâm niệm thì khiến cho chúng ta có một không gian rộng lớn khác, ở trong không gian rộng lớn đó chúng ta có thể lựa chọn.
Thật ra trong lịch sử đạo Phật thời gian gần đây có một trường hợp rất thú vị, đó là trường hợp của Hoà Thượng Nhất Hạnh có lập ra một dòng tu tiếp hiện và có một giới luật gọi là giới luật tiếp hiện, đúng ra trong những năm tháng gần đây Hoà Thượng Nhất Hạnh đã đổi hướng đi từ những quan niệm hết sức khác biệt với truyền thống, bây giờ là Hoà Thượng lại trở về với quan niệm rất là truyền thống, kể cả tu chính và kể cả nhấn mạnh đến những giới bổn người xuất gia, nhưng trước đây Hoà Thượng nói rất nhiều đến giới luật tiếp hiện, khi đọc vào giới luật tiếp hiện thì thật ra với quan niệm của một vị tu sĩ Phật Giáo truyền thống, nhất là tu sĩ Nam Tông những điều trong giới luật tiếp hiện mang tánh cách tâm niệm nhiều hơn giới luật.
Chúng tôi nói tâm niệm nhiều hơn giới luật là ví dụ như vầy, ví dụ như chúng ta quan niệm trong giới luật là không sát sanh, thế nào là người phạm giới sát sanh thì có quy định rất rõ, con vật có thức tánh là biết con vật có thức tánh và có ý giết rồi ráng sức giết, rồi con vật đã chết vì sự ráng sức đó, thì sau khi tính như vậy mới đủ gọi là giới sát sanh, và nếu mà chúng ta vẫn quan niệm một điều như vậy là mình sống mình phải thương yêu muôn loài, phải thương yêu sự sống, phải bảo vệ môi sinh, phải bảo vệ hành tinh sanh này v.v... những khái niệm như vậy mang tánh cách tâm niệm hơn là giới luật, tại vì phải áp dụng được trên phương diện giới, nếu mà đem điều đó áp dụng vào đời sống hàng ngày của chúng ta thì không biết ai là người phạm giới hay là người không phạm giới.
Chúng tôi lấy một ví dụ, những tờ báo chúng ta đang đọc hiện nay, những tờ báo in màu và giấy láng bóng, những tờ giấy đó vốn là những tờ giấy được sản xuất một cách rất tai hại cho việc bảo vệ môi sinh, quí vị cầm tờ báo, trang bià in màu bóng láng, thì các hoá chất để họ dùng vào thứ đó là hoá chất làm ô nhiễm rất lớn môi trường, do vậy người ta kêu gọi rằng con người hãy bỏ bớt những thứ đó lại. Khi người ta in bản in màu, mà bản đó không có sáng, màu nó không bóng láng tự nhiên thấy màu nó không hấp dẫn, tuy nhiên cách in đó khiến cho chúng ta ít có làm ô nhiễm môi sinh.
Bây giờ nếu như một tờ báo được in bìa bóng như vậy mà chúng ta mua, chúng ta cầm đọc thì bảo rằng người đó đã phạm giới luật tiếp hiện, tức là người đó không bảo vệ môi sinh, điểm đó rất khó bởi vì chung quanh chúng ta có rất nhiều thứ chúng ta hoặc ỳ thức được hoặc không ý thức được, do vậy tinh thần bảo vệ môi sinh không thể gọi là giới luật được, tinh thần bảo vệ môi sinh là một điều rất đẹp, nhưng cái đẹp đó lại khác với quan niệm về giữ giới, khi nói về giữ giới không nói về đẹp hay xấu, giới là điều, điều đó là điều qui định rất rõ ràng chứ không phải chỉ là một khái niệm như tâm niệm. Do vậy chúng tôi phải nói rằng những giới luật về tiếp hiện của Hoà Thượng Nhất Hạnh đề ra, nếu quí vị đọc kỹ lại thì đó là những điều mang tánh cách tâm niệm hơn là giới luật, bởi vì có những thứ không có.
Chữ Bồ Tát giới ở trong Đại Thừa có rất nhiều điểm mang tới tâm niệm hơn là về giới, cái giới khác xa với điều đó, có thể nói rằng khi đề cập đến giới luật, nó là một câu chuyện khác hơn những gì chúng ta quan niệm mang tánh cách tư tưởng hay khái niệm, hay là tâm niệm đem áp dụng vào trong đời sống, và chúng tôi cũng phải nói ở tại đây những điều tâm niệm là những điều rất có lợi cho sự tu tập của mình, tuy nhiên khi đã nói đến tâm niệm thì không thể đem một kiểu mẫu nào đó áp dụng cho tất cả mọi người, có những người họ lại hạp với những thứ này, có những người hạp thứ khác.
Chúng tôi lấy một ví dụ, hồi nãy chúng tôi nói rằng một người tu tập thiền chỉ hay thiền quán, những người này có thể niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm Chư Thiên, chúng ta không thể nói một ân đức nào lớn hơn ân đức nào, thật ra đối với một người tu tập thì dù ân đức Pháp, ân đức Tăng, hay ân đức của Chư Thiên, hay ân đức của thí, của giới thì tất cả đều giống nhau ở một điểm, cái nào thích hợp với căn tính của mình thì cái đó nên tu tập, nên thường xuyên niệm tưởng. Chính vì vậy đối với những điều chúng ta gọi là tâm niệm, tuy là mang tánh cách tiền chế, tức là cái gì được quy định sẵn, nó là những khái niệm đã được tìm đâu đó ở trong kinh điển, tìm đâu đó ở trong lời dạy và chúng ta chỉ dựa trên điều đó để nhắc đi nhắc lại trên đời sống, tuy vậy phải nói rằng những điều tâm niệm là một lợi khí rất lớn cho chúng ta để đương đầu với phiền não.
Phải nói rằng cuộc sống tu tập hay đời sống của người xuất gia, khi chúng ta phấn đấu với phiền não thì thưa chúng ta phải có một vài chỗ đứng, và chỗ đứng này nhất định phải của mình chứ không thể của phiền não được, như một người lính họ ra trận, tuy rằng xông pha ngoài trận mạc sống giữa làn tên mũi đạn, nhưng họ phải trở về hậu cứ, hậu cứ tức là nơi an toàn của họ, hậu cứ là nơi họ canh gác cẩn mật để họ có thể an toàn sống ở trong lãnh vực nào đó, thì hậu cứ đó sẽ giúp cho quân đội được dưỡng quân, phải giúp cho những người lính tìm thấy những giây phút mà không phải mặt đối mặt với kẻ thù và lúc nào cũng lo sợ, thì như vậy một người tu tập phải có cứ điểm nội tâm, và những cứ điểm nội tâm đó khiến cho chúng ta qua đó không có tranh luận hơn thua, không phải đôi co, không có bàn thảo mà nó là như vậy để chúng ta có sự ổn định.
Chúng tôi muốn nói ở đây một điểm đó là sự nghi hoặc, nghi hoặc tức là một người tu tập không sống bằng những tâm niệm, thì thường xuyên phải đối diện với tâm hoài nghi, hoài nghi ở đây là hoài nghi Phật, hoài nghi Pháp, hoài nghi Tăng, hoài nghi về quá khứ hiện tại vị lai, hoài nghi về nhân quả v.v.... và những hoài nghi này có thể đưa chúng ta trôi dạt về nhiều phương hướng. Vì vậy tâm niệm là cái gì cho chúng ta hậu cứ, cho chúng ta một cứ điểm, cứ điểm đó khi chúng ta trở về, chúng ta không cần phải đôi co, không phải vật vã, không phải hoài nghi, không phải nghi hoặc, để tạo ra sự ổn định cho mình, cái sự ổn định này cần thiết.
Không hẳn là khi chúng ta tu tập, chúng ta phải sống với một số quan niệm định bất di bất dịch không thay đổi, nhưng, khi đương đầu với phiền não, từ cái tham, cái sân, cái si, cái thay đổi trong đi đứng nằm ngồi, thay đổi ở trong bất cứ sự thay đổi nào khi đối diện với phiền não thì làm chúng ta trở lên lúng túng, làm cho chúng ta trở lên khó chịu và lâu ngày mình cảm thấy mình bị thua trận nhiều hơn là đạt được lòng tự tin.
Chúng tôi xin được nhắc ở đây lại giai thoại liên quan đến một vị thiền sư, đó là vị Tăng sĩ Ajahn Sumedho là người đã thành lập ra Tăng đoàn Phật Giáo Tây Phương ở Anh Quốc và nhiều quốc gia khác, Ngài là một trong những khuôn mặt Phật Giáo lớn của thế kỷ này, khi quí vị nghe Ngài kể câu chuyện, quí vị rất ngạc nhiên về đời sống tu tập của Ngài, Ngài là một người sanh ra ở tại Mỹ, và là người da trắng, lớn lên ở tại Mỹ, khi đi sang Á Châu xuất gia tu tập dưới sự hướng dẫn của Ngài Ajahn Cha, thì phải nói rằng: Một con người đến từ nền văn hoá khác, một con người sống từ một xã hội như Hoa kỳ mà chọn con đường tu tập xuất gia lại trọn con đường trở thành người Phật tử, một đứa con của Phật thì phải nói rằng đó là sự lựa chọn lớn.
khi chúng ta nghe về quan niệm tu tập của Ngài có một vài đoạn chúng ta rất ngạc nhiên ví dụ như Ngài Sumedho nói, đời sống của ngài thường an trú trong ba câu:
Buddham saranam gacchami,
Dhammam saranam gacchami,
Sangham saranam gacchami
là
con về nương tựa với Phật,
con xin quay về nương tựa với Pháp,
con xin quay về nương tựa với Tăng.
Đối với một người Phật tử Việt Nam quan niệm rằng: quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng là những quan niệm rất sơ đẳng, vào chùa thì tam quy trước, rồi ngũ giới, rồi sau đó thiền định v.v..., mà tại sao với một vị xuất gia, một vị thiền sư có thể nói rằng một người có nhiều năm tu tập mà lại trở về với những quan niệm đó. Thật ra, quan niệm của một người đã một lần người đó quì xuống và phát nguyện từ đây trở về sau cho đến trọn đời con sẽ sống nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng đó là quyết định lớn và trong quyết định đó, tâm niệm này hoàn toàn có thể nói rằng trong sạch tịnh tính, và trong cái tâm tịnh tính đó không còn nghi hoặc nữa và vị đó lựa chọn là từ đó trở về sau sự quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng trở thành cứ điểm an toàn của mình, hễ khi mình nghĩ đến điều đó thì tâm mình được thuần, tâm mình được trong sạch, tâm mình được ỗn cố, nó không hoài nghi, nó không có những uế nhiễm phức tạp.
Do vậy đối với Ngài Sumedho thì ba câu Buddham saranam gacchami, Dhammam saranam gacchami, Sangham saranam gacchami mang lại cả một ý tưởng rất lớn lao, mang lại cả một vùng trời an toàn, một không gian mà ở trong đó vị đó không bị chi phối bởi những nghi hoặc, những hoài nghi.
Như vậy là tâm niệm của mỗi người xuất gia, và quan niệm sự tu tập khả dĩ cho phép chúng ta có một hậu cứ an ổn và không phải thường xuyên vật lộn đối với những phiền não nghi hoặc mà chúng ta sống trong tâm trạng hồi hộp, năm ăn năm thua, mà trái lại tìm được một không khí hết sức là ổn định về tinh thần, một cảm giác gọi là an toàn. Vì vậy khi chúng tôi nói về những tâm niệm ở tại đây thì phải nói rằng với một người tu tập chúng ta không có bác bỏ những giá trị tiền chế, giá trị tiền chế ở đây tức là những giá trị mà chúng ta hấp thụ từ trong kinh điển, những giá trị mà chúng ta vốn tìm thấy ở từ vị Thầy, từ sự nhắc nhở răn bảo của vị Thầy mà những thứ đó khi đem vào trong đời sống tu tập nhất là người tu thiền thì bao giờ cũng cần thiết và hết sức cần thiết để chúng ta tìm được một sự ổn định trước khi bắc đầu vào sự tu tập.
Như vậy chúng ta phải tìm sự tu tập ở thế quân bình giữa giá trị tiền chế và giá trị tự nhiên của một người tu tập, cái giá trị tiền chế ở đây là chúng ta phải sống bằng một số khái niệm đã được quy định sẵn, và giá trị về tự nhiên, là ở trong trách nhiệm là ghi nhận cái gì xảy ra mới nghe nói như vậy, chúng ta tưởng tượng như hai giá trị giữa cái tự nhiên vào tiền chế nó có tính cách mâu thuẫn, trái chống với nhau nhưng trên thực tế thì không phải như vậy. Một người bỏ vào trong rừng thiền sống 5 ngày ba ngày thì người đó cần rất nhiều sự trang bị, những trang bị này khả dĩ giúp cho vị đó đương đầu với nhiều phiền não, cả hai thứ đó nó đều cần thiết hết và hỏi rằng những quan niệm này cần được khai triển tới đâu, thì cái khéo đó là cái khéo của mỗi người hành giả, cái khéo đó là cái khéo của mỗi người tu tập./.
No comments:
Post a Comment