Hỏi: Có chăng trường hợp một người chỉ biết ghét tất cả mà không ưa thứ gì hoặc ưa thích tất cả mà không ghét thứ gì?
. (Thảo luận trong rơom Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Ðẳng giảng Nói đến đời sống cảm xúc thì phải nói rằng chúng ta ít khi nào có được một thứ gì mà nó chỉ có một mặt hay chỉ một chiều thôi. Giống như hai mặt của một đồng tiền, khi nói đến đồng tiền thì nó có mặt này và mặt kia. Và nói đến thương ghét, đẹp xấu, hay dở, thì hầu như những thứ này nó thường hay đi song song với nhau.
Trong cách nói khác thì chúng ta có thể khẳng định được rằng, hể chúng ta càng ưa thích với cái đẹp thì chúng ta cũng dễ dàng cảm thấy bất mãn với cái không đẹp, cảm thấy không hài lòng, và cảm thấy có thể trở nên phẫn nộ với cái gì mà nó ngược lại.
Bài kệ này nói đến các vị thánh nhân, các Ngài như cánh chim trời, vụt bay trên không, không để lại dấu vết. Và bản tâm của các Ngài là bản tâm tĩnh lặng, tĩnh lặng đến nỗi không còn điều thương và điều ghét nữa, nó là một gợi ý rất quan trọng cho mỗi chúng ta.
Giống như quả lắc đồng hồ, hễ nó đi về bên trái được thì nó sẽ đi về bên phải, đi về bên phải được thì nó đi về bên trái được. Chúng ta lấy một cây tre mà có độ giãn, rồi chúng ta kéo xuống về bên phải được thì khi buông tay ra nó sẽ đi về bên trái, chứ nó không thể nào đứng yên ngay ở giữa, hễ chúng ta kéo về bên phải nhiều bao nhiêu thì nó quật ngược về bên trái càng mạnh bấy nhiêu.
Ðây là bài học lớn , ở trong Ðạo Phật khi nói về đức quân bình, những người càng hớn hở, càng hoan hỷ, càng cảm thấy hào hứng nhiều với cái đẹp thì khi gặp cái xấu người đó lại càng tiêu nghiủ, càng cảm thấy buồn bã, càng cảm thấy xuống tinh thần bấy nhiêu. Một con người tâm hồn trưởng thành thì ở trong lúc vui nhất người đó cũng hiểu rằng cái buồn sẽ là một cái giá mà mình phải chịu sau đó.
Lấy ví dụ những lúc người khen mình, mình cảm thấy sung sướng, cực kỳ sung sướng, thì mình cũng nên ghi nhận rằng; lúc người ta khen mình, mình sung sướng đến mức độ nào, thì điều đó cũng chứa đựng ý nghĩa, nếu mình bị chê thì cũng sẽ khổ sở tới mức chừng đó.
Như vậy nếu chúng ta không muốn bị dày xéo, không muốn bị khổ đau vì tiếng chê thì trong lúc người khác khen mình, mình phải thấy được ở trong cái khen, nó có mặt bên kia là cái chê, ở trong cái vui thì có mặt bên kia là cái khổ.
Ngài Buddhaghosa hay là Ngài Phật Xứ, là một vị cao Tăng đương đại, Ngài có một ví dụ mới nghe rất buồn cười, Ngài nói rằng chó mà nuôi trong nhà, không phải tất cả loại chó đều giống nhau, có những loại chó mình nuôi, nó có thể quay lại cắn chủ, có những con chó không được khôn nên nó cắn chủ, và Ngài nói rằng, tuy vậy nó không nguy hiểm bằng những hạnh phúc của trần gian này. Và Ngài nói một cách nửa đùa nửa thật, Ngài nói rằng hầu hết hạnh phúc của trần gian này nó sẽ quay lại cắn chúng ta. Hễ con người mà gặp cảnh vui, gặp cái danh, gặp cái lợi, được cái thắng thế mà càng hỷ hả, càng hân hoan thế nào thì khi gặp cái buồn, cái sự mất mát, gặp lời chê, gặp những điều không hài lòng, thì người đó lại buồn thấm thía, buồn da diết chừng đó.
Và có thể nói rằng đây là cái gía tự nhiên của cảm xúc ở trong cuộc đời này, do vậy bảo rằng ở trong thế gian này, có khi nào mình làm được sự lựa chọn, ở trong sự lựa chọn đó mình chỉ có một thái độ hoan hỷ ưa thích với cái đẹp, với cái hay, với cái gì khả ái, khả ý, khả hỷ với cái gì thật sự làm cho vừa lòng mãn nguyện, rồi đến khi những cái khổ đau, những cái đối nghịch lại những thứ đó mà xảy ra, thì chúng ta nói rằng mình không dự phần, thật ra chúng ta không làm được như vậy.
Hễ con người muốn đạt đến cao điểm của niềm hoan lạc thì họ sẽ bị dìm xuống tận đáy của khổ đau, đó là một định luận tất yếu, mà chúng ta khi chú ý đến đời sống nội tại, đến tâm thức thì chúng ta không thể tránh được chuyện đó.
Người ta có dạy một câu nói rằng; “Khi mình thương một người nào đó thì mình cũng nên biết cái nhược điểm của người đó, và khi mình ghét một người nào thì mình cũng nên biết cái ưu điểm của người đó.”
Một hành giả tu tập ở trong lời dậy của Đức Phật cũng có thể nói một câu tương tự như vậy, với mượn cách nói như vậy mà nói rằng, những lúc nào mà chúng ta cực kỳ sung sướng vui vẻ hoan lạc, thì lúc đó chúng ta cũng nên biết rằng cái khổ khi nó đến với chúng ta, nó cũng đến nhiều như vậy. Hiểu như vậy đó, dầu chỉ là cái hiểu thảng thốt nhất thời, dầu cái hiểu đó nó chợt thoáng qua tâm tư, nhưng nó sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều ở trong sự chuẩn bị, và khi cái khổ nó đến mình hiểu rằng đó là một phản ứng tự nhiên của cảm xúc, và ít có ai có cảm xúc quân bình được.
Chúng tôi nhớ hồi còn bé, có đọc một quyển sách, ở trong đó người ta dậy về sự huấn luyện tình cảm. Tình cảm đó, ở đây chúng ta hiểu giống như là cảm xúc làm sao để vui, để buồn, lúc bấy giờ đọc quyển sách huấn luyện tình cảm này, chúng tôi có cảm tưởng như đó là những lời dạy rất cụ thể, rất thiết thực. Nhưng khi lớn lên về sau này, khi có dịp nghiền ngẫm về giáo lý của Đức Phật, đặc biệt là thiền học thì mình mới thấy một điểm là con người của chúng ta chỉ muốn có một thứ, một chiều, một mặt của đời sống thôi, đó là làm sao đi truy tìm cái vừa lòng mãn nguyện. Hình như từ sáng tới chiều chúng ta luôn nghĩ đến là làm sao để tìm cái gì đó mà hài lòng đẹp ý, là làm cho chúng ta cảm thấy có hạnh phúc, mình có đạt được một cái gì.
Rồi sau đó chúng ta khám phá ra rằng, mình càng đi truy tìm cái mình thích, cái mình muốn, thì khi mà cái mình không thích, cái mình không muốn nó xảy ra, và chắc chắn nó xảy ra thì những lúc đó chúng ta lại khổ rất nhiều, nên mới có một bài học từ ngàn xưa ở trong kinh Phật. Kkhi chúng ta nói thì như sáo ngữ, chúng ta nói đã nhàm tai, nhưng mà thưa quí vị, nó rất thấm thía nếu chúng ta sống ở trong trường hợp như vậy.
Khi nào vui thì nên biết tới lúc khổ, khi hợp thì nhớ lúc tan, khi sum vầy thì phải nhớ buổi chia ly.
Tại sao chúng ta phải nhớ như vậy, ít nhất là trong cái nhớ, cái biết đó, chúng ta có khả năng để chuẩn bị về tinh thần, và có một điều rất chắc chắn, một con người mà thỉnh thoảng nhìn một đám tang đi qua trước mặt mình, nhìn thấy một cụ già chống gậy lụm cụm, nhìn thấy người bịnh. Và lúc đó chúng ta nhìn với thái độ hững hờ, nghĩ rằng chuyện đó là chuyện của thiên hạ, chuyện đó là chuyện của trần gian, nó không ăn thua gì tới mình hết. Thì thưa quí vị chúng ta sẽ cực ky` khổ đau, khi mà chính bản thân của mình phải đi qua nhịp cầu khó khăn đó của cuộc đời, và chắc chắn chúng ta phải đi qua, không ai có thể tránh khỏi điều đó.
Một vị trưởng thành ở trong giáo pháp của Đức Phật, khi nhìn một di thể, một xác chết, nằm ở trong áo quan, có thể nhìn thấy một cụ già lụm cụm, thì vị đó sẽ hiểu rằng đó là những tín hiệu, đó là lời nhắn, và đó là hình ảnh mà mình không thể làm ngơ được, ít nhất mình cũng nhận biết rằng, rồi mình cũng sẽ như vậy. Nói như thế thì có vẻ mất cảm hứng nhiều lắm, lúc chúng ta đang sum vầy vui vẻ, buổi tiệc đang huyên náo, và cuộc đời đang lên, cuộc sống được nhìn bằng cặp mắt kính màu hồng, khi mà chúng ta nghĩ đến những lúc chúng ta đi xuống, chúng ta nghĩ đến những lúc mà cuộc đời sẽ về chiều. Thì thật sự, nghĩ như vậy, nói như vậy, thì hầu như nó là một gáo nước lạnh tạt vào trong người mình, chúng ta không còn cảm hứng, sinh thú đối với cuộc sống này.
Nhưng ở trên thực tế không phải như vậy thưa quí vị, chúng ta rất sợ phải nghĩ đến cái gì không đẹp ý. Nhưng hãy lấy một ví dụ rất rõ ràng, là khi nào mình được người khác khen tặng, tán thưởng, ca ngợi, những lúc đó trong lòng mình rất sung sướng, thì phải nhớ rằng mình càng hoan hỷ điều đó chừng nào, thì khi người ta chê thì mình sẽ chua sót, sẽ đau buồn, và sẽ gánh chịu nỗi dày vò của đời sống nội tâm chừng như vậy.
Dĩ nhiên đối với bậc thánh, một vị đã không xem trần gian này có điều gì để mà dính mắc, thì xá gì đối với lời khen tiếng chê, đối với cái vui, cái khổ, thì không có cái gì ở trong lòng Ngài gọi là thương hay ghét. Tại vì các Ngài có thể nhìn thấy một cách rõ ràng, cái tính độc nhất của tất cả các hành là vô thường, là khổ, vô ngã.
Nhưng không có nghĩa là vì vậy chúng ta là phàm mà không học được bài học đó. Thỉnh thoảng chúng ta có thể quét tầm mắt của mình qua cả thế gian này , dù là người thương, dù là người ghét, dù là chuyện hay, hay là chuyện dở, dù là được mất, dù là thành, dù là bại, tất cả những thứ đó nó chỉ là một cái vở kịch ở trên sân khấu mà thôi. Ở trên sân khấu mà quí vị làm vua cũng vậy, mà quí vị làm quan cũng vậy, làm chủ cũng vậy, và làm tớ cũng vậy, nó cũng chỉ là một vai tuồng, và khi bức màn đã hạ xuống rồi thi` tất cả đều giống nhau hết.
Chúng ta đến với cuộc đời này có thể là có rất nhiều thứ, nhưng rồi khi chúng ta nhắm mắt , xuôi tay, thì thưa quí vị tất cả chúng ta đều giống nhau. Đối diện với tử thần, chúng ta đều giống nhau, và cả sự chịu chi phối bởi nghiệp lực của mỗi chúng ta, nhất nhất đều giống nhau hết, phải nhìn thấy cái tương đồng đó nên bậc thánh rất là bình tâm đối với vạn vật. Cái sự bình tâm đó, nó không phải là thái độ của một người đã chai lỳ, đã mất hết cảm giác đối với đời sống, mà cái nhìn đó là cái nhìn của bậc thấu triệt, liễu tri được đời sống, và cái nhìn đó quả thật có nhiều khi gợi ý hết sức quí báu cho đời sống hàng ngày của chúng ta. Chúng tôi xin được chấm dứt câu trả lời ở đây .
. (Thảo luận trong rơom Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Ðẳng giảng Nói đến đời sống cảm xúc thì phải nói rằng chúng ta ít khi nào có được một thứ gì mà nó chỉ có một mặt hay chỉ một chiều thôi. Giống như hai mặt của một đồng tiền, khi nói đến đồng tiền thì nó có mặt này và mặt kia. Và nói đến thương ghét, đẹp xấu, hay dở, thì hầu như những thứ này nó thường hay đi song song với nhau.
Trong cách nói khác thì chúng ta có thể khẳng định được rằng, hể chúng ta càng ưa thích với cái đẹp thì chúng ta cũng dễ dàng cảm thấy bất mãn với cái không đẹp, cảm thấy không hài lòng, và cảm thấy có thể trở nên phẫn nộ với cái gì mà nó ngược lại.
Bài kệ này nói đến các vị thánh nhân, các Ngài như cánh chim trời, vụt bay trên không, không để lại dấu vết. Và bản tâm của các Ngài là bản tâm tĩnh lặng, tĩnh lặng đến nỗi không còn điều thương và điều ghét nữa, nó là một gợi ý rất quan trọng cho mỗi chúng ta.
Giống như quả lắc đồng hồ, hễ nó đi về bên trái được thì nó sẽ đi về bên phải, đi về bên phải được thì nó đi về bên trái được. Chúng ta lấy một cây tre mà có độ giãn, rồi chúng ta kéo xuống về bên phải được thì khi buông tay ra nó sẽ đi về bên trái, chứ nó không thể nào đứng yên ngay ở giữa, hễ chúng ta kéo về bên phải nhiều bao nhiêu thì nó quật ngược về bên trái càng mạnh bấy nhiêu.
Ðây là bài học lớn , ở trong Ðạo Phật khi nói về đức quân bình, những người càng hớn hở, càng hoan hỷ, càng cảm thấy hào hứng nhiều với cái đẹp thì khi gặp cái xấu người đó lại càng tiêu nghiủ, càng cảm thấy buồn bã, càng cảm thấy xuống tinh thần bấy nhiêu. Một con người tâm hồn trưởng thành thì ở trong lúc vui nhất người đó cũng hiểu rằng cái buồn sẽ là một cái giá mà mình phải chịu sau đó.
Lấy ví dụ những lúc người khen mình, mình cảm thấy sung sướng, cực kỳ sung sướng, thì mình cũng nên ghi nhận rằng; lúc người ta khen mình, mình sung sướng đến mức độ nào, thì điều đó cũng chứa đựng ý nghĩa, nếu mình bị chê thì cũng sẽ khổ sở tới mức chừng đó.
Như vậy nếu chúng ta không muốn bị dày xéo, không muốn bị khổ đau vì tiếng chê thì trong lúc người khác khen mình, mình phải thấy được ở trong cái khen, nó có mặt bên kia là cái chê, ở trong cái vui thì có mặt bên kia là cái khổ.
Ngài Buddhaghosa hay là Ngài Phật Xứ, là một vị cao Tăng đương đại, Ngài có một ví dụ mới nghe rất buồn cười, Ngài nói rằng chó mà nuôi trong nhà, không phải tất cả loại chó đều giống nhau, có những loại chó mình nuôi, nó có thể quay lại cắn chủ, có những con chó không được khôn nên nó cắn chủ, và Ngài nói rằng, tuy vậy nó không nguy hiểm bằng những hạnh phúc của trần gian này. Và Ngài nói một cách nửa đùa nửa thật, Ngài nói rằng hầu hết hạnh phúc của trần gian này nó sẽ quay lại cắn chúng ta. Hễ con người mà gặp cảnh vui, gặp cái danh, gặp cái lợi, được cái thắng thế mà càng hỷ hả, càng hân hoan thế nào thì khi gặp cái buồn, cái sự mất mát, gặp lời chê, gặp những điều không hài lòng, thì người đó lại buồn thấm thía, buồn da diết chừng đó.
Và có thể nói rằng đây là cái gía tự nhiên của cảm xúc ở trong cuộc đời này, do vậy bảo rằng ở trong thế gian này, có khi nào mình làm được sự lựa chọn, ở trong sự lựa chọn đó mình chỉ có một thái độ hoan hỷ ưa thích với cái đẹp, với cái hay, với cái gì khả ái, khả ý, khả hỷ với cái gì thật sự làm cho vừa lòng mãn nguyện, rồi đến khi những cái khổ đau, những cái đối nghịch lại những thứ đó mà xảy ra, thì chúng ta nói rằng mình không dự phần, thật ra chúng ta không làm được như vậy.
Hễ con người muốn đạt đến cao điểm của niềm hoan lạc thì họ sẽ bị dìm xuống tận đáy của khổ đau, đó là một định luận tất yếu, mà chúng ta khi chú ý đến đời sống nội tại, đến tâm thức thì chúng ta không thể tránh được chuyện đó.
Người ta có dạy một câu nói rằng; “Khi mình thương một người nào đó thì mình cũng nên biết cái nhược điểm của người đó, và khi mình ghét một người nào thì mình cũng nên biết cái ưu điểm của người đó.”
Một hành giả tu tập ở trong lời dậy của Đức Phật cũng có thể nói một câu tương tự như vậy, với mượn cách nói như vậy mà nói rằng, những lúc nào mà chúng ta cực kỳ sung sướng vui vẻ hoan lạc, thì lúc đó chúng ta cũng nên biết rằng cái khổ khi nó đến với chúng ta, nó cũng đến nhiều như vậy. Hiểu như vậy đó, dầu chỉ là cái hiểu thảng thốt nhất thời, dầu cái hiểu đó nó chợt thoáng qua tâm tư, nhưng nó sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều ở trong sự chuẩn bị, và khi cái khổ nó đến mình hiểu rằng đó là một phản ứng tự nhiên của cảm xúc, và ít có ai có cảm xúc quân bình được.
Chúng tôi nhớ hồi còn bé, có đọc một quyển sách, ở trong đó người ta dậy về sự huấn luyện tình cảm. Tình cảm đó, ở đây chúng ta hiểu giống như là cảm xúc làm sao để vui, để buồn, lúc bấy giờ đọc quyển sách huấn luyện tình cảm này, chúng tôi có cảm tưởng như đó là những lời dạy rất cụ thể, rất thiết thực. Nhưng khi lớn lên về sau này, khi có dịp nghiền ngẫm về giáo lý của Đức Phật, đặc biệt là thiền học thì mình mới thấy một điểm là con người của chúng ta chỉ muốn có một thứ, một chiều, một mặt của đời sống thôi, đó là làm sao đi truy tìm cái vừa lòng mãn nguyện. Hình như từ sáng tới chiều chúng ta luôn nghĩ đến là làm sao để tìm cái gì đó mà hài lòng đẹp ý, là làm cho chúng ta cảm thấy có hạnh phúc, mình có đạt được một cái gì.
Rồi sau đó chúng ta khám phá ra rằng, mình càng đi truy tìm cái mình thích, cái mình muốn, thì khi mà cái mình không thích, cái mình không muốn nó xảy ra, và chắc chắn nó xảy ra thì những lúc đó chúng ta lại khổ rất nhiều, nên mới có một bài học từ ngàn xưa ở trong kinh Phật. Kkhi chúng ta nói thì như sáo ngữ, chúng ta nói đã nhàm tai, nhưng mà thưa quí vị, nó rất thấm thía nếu chúng ta sống ở trong trường hợp như vậy.
Khi nào vui thì nên biết tới lúc khổ, khi hợp thì nhớ lúc tan, khi sum vầy thì phải nhớ buổi chia ly.
Tại sao chúng ta phải nhớ như vậy, ít nhất là trong cái nhớ, cái biết đó, chúng ta có khả năng để chuẩn bị về tinh thần, và có một điều rất chắc chắn, một con người mà thỉnh thoảng nhìn một đám tang đi qua trước mặt mình, nhìn thấy một cụ già chống gậy lụm cụm, nhìn thấy người bịnh. Và lúc đó chúng ta nhìn với thái độ hững hờ, nghĩ rằng chuyện đó là chuyện của thiên hạ, chuyện đó là chuyện của trần gian, nó không ăn thua gì tới mình hết. Thì thưa quí vị chúng ta sẽ cực ky` khổ đau, khi mà chính bản thân của mình phải đi qua nhịp cầu khó khăn đó của cuộc đời, và chắc chắn chúng ta phải đi qua, không ai có thể tránh khỏi điều đó.
Một vị trưởng thành ở trong giáo pháp của Đức Phật, khi nhìn một di thể, một xác chết, nằm ở trong áo quan, có thể nhìn thấy một cụ già lụm cụm, thì vị đó sẽ hiểu rằng đó là những tín hiệu, đó là lời nhắn, và đó là hình ảnh mà mình không thể làm ngơ được, ít nhất mình cũng nhận biết rằng, rồi mình cũng sẽ như vậy. Nói như thế thì có vẻ mất cảm hứng nhiều lắm, lúc chúng ta đang sum vầy vui vẻ, buổi tiệc đang huyên náo, và cuộc đời đang lên, cuộc sống được nhìn bằng cặp mắt kính màu hồng, khi mà chúng ta nghĩ đến những lúc chúng ta đi xuống, chúng ta nghĩ đến những lúc mà cuộc đời sẽ về chiều. Thì thật sự, nghĩ như vậy, nói như vậy, thì hầu như nó là một gáo nước lạnh tạt vào trong người mình, chúng ta không còn cảm hứng, sinh thú đối với cuộc sống này.
Nhưng ở trên thực tế không phải như vậy thưa quí vị, chúng ta rất sợ phải nghĩ đến cái gì không đẹp ý. Nhưng hãy lấy một ví dụ rất rõ ràng, là khi nào mình được người khác khen tặng, tán thưởng, ca ngợi, những lúc đó trong lòng mình rất sung sướng, thì phải nhớ rằng mình càng hoan hỷ điều đó chừng nào, thì khi người ta chê thì mình sẽ chua sót, sẽ đau buồn, và sẽ gánh chịu nỗi dày vò của đời sống nội tâm chừng như vậy.
Dĩ nhiên đối với bậc thánh, một vị đã không xem trần gian này có điều gì để mà dính mắc, thì xá gì đối với lời khen tiếng chê, đối với cái vui, cái khổ, thì không có cái gì ở trong lòng Ngài gọi là thương hay ghét. Tại vì các Ngài có thể nhìn thấy một cách rõ ràng, cái tính độc nhất của tất cả các hành là vô thường, là khổ, vô ngã.
Nhưng không có nghĩa là vì vậy chúng ta là phàm mà không học được bài học đó. Thỉnh thoảng chúng ta có thể quét tầm mắt của mình qua cả thế gian này , dù là người thương, dù là người ghét, dù là chuyện hay, hay là chuyện dở, dù là được mất, dù là thành, dù là bại, tất cả những thứ đó nó chỉ là một cái vở kịch ở trên sân khấu mà thôi. Ở trên sân khấu mà quí vị làm vua cũng vậy, mà quí vị làm quan cũng vậy, làm chủ cũng vậy, và làm tớ cũng vậy, nó cũng chỉ là một vai tuồng, và khi bức màn đã hạ xuống rồi thi` tất cả đều giống nhau hết.
Chúng ta đến với cuộc đời này có thể là có rất nhiều thứ, nhưng rồi khi chúng ta nhắm mắt , xuôi tay, thì thưa quí vị tất cả chúng ta đều giống nhau. Đối diện với tử thần, chúng ta đều giống nhau, và cả sự chịu chi phối bởi nghiệp lực của mỗi chúng ta, nhất nhất đều giống nhau hết, phải nhìn thấy cái tương đồng đó nên bậc thánh rất là bình tâm đối với vạn vật. Cái sự bình tâm đó, nó không phải là thái độ của một người đã chai lỳ, đã mất hết cảm giác đối với đời sống, mà cái nhìn đó là cái nhìn của bậc thấu triệt, liễu tri được đời sống, và cái nhìn đó quả thật có nhiều khi gợi ý hết sức quí báu cho đời sống hàng ngày của chúng ta. Chúng tôi xin được chấm dứt câu trả lời ở đây .
No comments:
Post a Comment