Cửu Hoa Sơn - Trung Hoa
Lịch sử Phật giáo tại Cửu Hoa Sơn
Cửu Hoa Sơn (Jiuhua Shan là một trong bốn cảnh núi lới tại Trung Quốc tại đó có rất nhiều cảnh chùa đẹp mà người ta gọi là Tứ Đại Phật Sơn.
Phật giáo bắt đầu có tại Cửu Hoa Sơn vào thời Nam Bắc Triều (420-589 TL) - Theo sử ghi lại thì vào đời Lương Vũ Ðế năm Thiên Giám thứ 2, đã có vị sư tên là Phục Hổ (Fuhu) đã tới núi này lập Chùa Phục Hổ. Vào cuối đời Ðông Hán, Cửu Hoa Sơn bắt đầu xây dựng chùa chiền và truyền bá Phật Giáo. Vào năm Vĩnh Huy thứ 4 nhà Ðuờng (tức năm 653 tây lịch) Ngài Kim Kiều Giác (Jin Qiao Jue), thuộc vương tộc Triều Tiên, vượt biển tới Cửu Hoa Sơn, thấy phong cảnh nơi đây mỹ lệ, bèn ẩn cư tu hành suốt 76 năm. Vào đời Ðường, năm Khai Nguyên 16 (tức năm 728 Tây Lịch) Ngài viên tịch. Theo sử liệu, khi Ngài Kim Kiều Giác qua đời, dung mạo vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống. Núi vang những tiếng âm u, khỉ và chim đều ai oán khóc thương. Dưới đất phát ra ánh sáng rực rỡ. Nhục thân Ngài được giữ nguyên trong ba năm rồi chúng tăng thiếp vàng nhục thân của Ngài. Chúng tăng cho rằng Ngài là hóa thân của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, bèn chuyển Ngài vào Nhục Thân Bảo Ðiện. Từ đó, Cửu Hoa Sơn được coi như là nơi cho Phật Tử tới chiêm bái đức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. Vía Ngài vào ngày 30 tháng 7. âm lịch.
Từ cuối đời Ðường sang thời Ngũ Ðại, rồi qua đời Tống, đời Nguyên thì tại đây, Phật Giáo phát triển rất chậm tại Cửu Hoa Sơn. Nhưng sang đời nhà Minh và Thanh thì Phật Giáo phồn thịnh trở lại rất mạnh. Dưới thời nhà Minh, ba lần triều đình đã cho tiền để trùng tu lại Chùa Hóa Thành. Hai vị vua nhà Minh đã đến đây chiêm bái.
Sang đến năm Vạn Lịch thứ 1 (năm 1573 TL) dưới thời vua Minh Thần Tông, có Vô Hà Ðại Sư (Wu Xia) tới lập một cái am tại đỉnh Ðông Nhai để tu hành. Trong 28 năm, Ngài đã viết 81 phẩm Kinh Hoa Nghiêm bằng máu ở lưỡi và bột vàng. Ngài thọ126 tuổi. Trong ba năm nhục thân của Ngài còn nguyên vẹn. Các đệ tử cho Ngài là hóa thân Bồ Tát nên thiếp vàng nhục thân của Ngài, và truy thụy Ngài là "Bách Tuế Công." Sang niên hiệu Sùng Trinh ( 1630 TL), vua Minh Tư Tông sắc phong Ngài là "Ẩn Thân Bồ Tát". Ngày nay, nhục thân của Ngài vẫn còn được thờ tại Bách Tuế Cung.
Tiếp đó, cũng còn có các vị cao tăng khác như : Hải Ngọc Ðại Sư thọ 110 tuổi, tu tại Bách Tuế Cung nhục thân cũng được thiếp vàng và giữ cho tới ngày nay. Khoan Thành Ðại Sư tu tại Hoa Thiên Tự, cũng thọ tới 95 tuổi.
Sang đời nhà Thanh, hai vị vua là Khang Hy (Kangxi) và Càn Long (Qian Long) đã tới Cửu Hoa Sơn chiêm bái và ban cho 4 chữ cùng với bút tự "Cửu Hoa Thánh Cảnh" .
Vào thời nhà Thanh, Cửu Hoa Sơn có trên 150 ngôi chùa và từ 3 đến 4 ngàn tăng ni tu tập tại đây. Ða số các chùa tại đây đã bị phá hủy toàn diện hay một phần trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa, nhất là các tượng Phật cổ đã bị phá. Gần đây, từ năm 1987, người ta mới trùng tu lại các chùa. Ngày nay vùng Cửu Hoa Sơn có cả thẩy 79 ngôi chùa lớn nhỏ. Những ngôi chùa lớn ở đây ta phải kể: Hóa Thành Tự, Kỳ Viên Tự, Bách Tuế Cung, Ðông Nhai Tựï, Nhục Thân Bảo Ðiện, Cam Lộ Tự, Thiên Ðài Tự, Thiên Thai tự, Thiên Kiều Tự, Cổ Bái Kinh Ðài Tự.
Ngày nay các Chùa vẫn còn giữ được nhiều di vật Phật Giáo quý giá như chiếu dụ viết tay của các vua nhà Thanh như Khang Hy, Càn Long, cũng như bản "Aán Ðộ bối diện chân kinh" viết bằng tiếng Phạn. Các ấn ngọc do các Vua thời nhà Minh và Thanh ban cho.
Gần nơi bến cable car có một cây tùng rất cổ (1400 năm), có hình thù giống con phụng hoàng vẫy cánh , nên nó được mang tên là Phụng Hoàng Cổ Tùng.
Chùa Thiên Ðài còn được gọi là Ðịa Tạng Thiền Lâm Tự được xây từ đời nhà Minh (thế kỷ thứ 14) và trùng tu lại vào thời Quang Tự nhà Thanh. Chánh Ðiện bề ngang chừng 30m sâu cỡ 8m xây trên sườn núi, trước mặt có sân rộng với 3 cái đỉnh lớn để thắp hương. Từ sân này, ta có thể nhìn ra cảnh bao quát chung quanh, núi non rất hùng vĩ. Những từng dưới, người ta còn đang xây cất lại. Sau đó , chúng tôi sang gian bên để chiêm ngưỡng vết chân của vị Bồ Tát, đây chỉ là vết chân còn trên khung bằng xi măng mà thôi.
Lên thăm Bách Tuế Cung, phải đi bộ và leo hơn 2000 bậc đá (hết 1 tiếng đồng hồ), có hơn một chục người phu tự động mang theo cáng, họ chỉ chờ chúng tôi ai mệt quá thì dùng cáng và trả chừng 30 đô một chuyến (cả lên lẫn xuống). các vị cao niên khác đều phải dùng cáng mà đi lên. Các bậc đá cũng khá rộng rãi cỡ trên 1m , cứ vài chục bậc thì lại có một chỗ phẳng để ngồi nghỉ chân, hai bên bậc đá họ trồng rất nhiều trúc hoặc tùng, gây cho khách bộ hành những cảm giác tĩnh mịch và đầy thi vị.
. Gần tới chùa bậc đá nhỏ lại và hai bên có hàng tay vịn. Cuốn theo tay vịn là một giây xích sắt lớn, trên đó có móc nhiều ổ khóa. Theo người hướng dẫn viên cho biết mới rõ, tại địa phuơng này các thanh niên nam nữ sắp lấy nhau, họ tới đây cầu nguyện cho lứa đôi được bền vững, và họ mang theo một ổ khóa rồi móc khóa vào xích sắt như một hành động khóa chặt mối luơng duyên với nhau lại. Ðây là một phong tục phổ thông ở Trung Hoa.
Lên hết bậc đá tới đỉnh núi có một cái sân rộng, rẽ sang bên trái ta sẽ thấy Bách Tuế Cung. Ngay ở cửa treo một cái bức hoành nền xanh chữ thiếp vàng ghi hai hàng chữ :
Ân tứ Bách Tuế Cung
Hộ Quốc Vạn Niên Tự,
Phần lạc khoản ghi là của Lê Nguyên Hồng, Tổng Thống Trung Hoa một thời gian ngắn , vào lúc sau cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, kế vị Viên Thế Khải.
Chánh điện ở đây rất cổ kính và đơn sơ, chứng tỏ nơi đây là ngôi chùa nguyên thủy không bị hủy hoại nhiều trong cuộc Cách Mạng Văn Hóá. Chính giữa có bàn thờ đức Phật, bên trái người ta thờ nhục thân sơn son thiếp vàng của vị tổ sư là Vô Hà Ðại Sư, đặt trong một cái tủ kính.
Phía bên kia sân rộng, sau khi lên mấy bậc đá là một kiến trúc mới, đó là Ngũ Bách La Hán Cung . Trong kinh Phật thường đề cập đến 500 La Hán theo hộ trì Phật. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, cũng có chuyện 500 La Hán kết tập Tam Tạng Kinh. Sau này căn cứ theo chuyện đó mà một số tự viện lập Ngũ Bách La Hán Cung.
Ngôi Ngũ Bách La Hán Cung hai tầng khá lớn này mới xây cách đây hai năm, vừa được khánh thành tháng trước (tháng 9/1998). trên cao hãy còn biểu ngữ nói về lễ khánh thành này. Ngoài sân hãy còn có những bia đá ghi công đức những người cúng tiền xây kiến trúc này (tất cả ghi là năm 1997). Tầng dưới là chánh điện rất rộng, với những tượng Phật lớn; tầng trên là bốn dãy tượng các vị La Hán, tượng nào cũng cao gần 1m dựng trong khung kính. Tượng và kiến trúc hoàn toàn là mới và rất đẹp. Ðặc biệt hành lang sau chánh điện khá rộng với những cột chùa sơn đỏ rất trang nhã và trông bao quát phía đàng sau là một phong cảnh dãy Cửu Hoa Sơn rất hùng vĩ.
Rời Bách Tuế Cung, men theo những bậc đá tới thăm Ðông Nhai Thiền Tự. Ðây cũng là một kiến trúc mới làm gần đây. Phía trước chùa là một bậc thang khá rộng, trông lên một đài lục giác có mái cong, trên cao có treo bức hoành phi với bốn chữ đại tự "Ðông Nhai Thiền Tự", từ căn nhà cao này nhìn ra bao quát cảnh trí chung quanh Cửu Hoa Sơn rất đẹp. Sau căn nhà nghỉ có thêm bậc đá nữa tiến lên chánh điện, bên phải chánh điệïn cũng có hành lang rộng trông ra phía dãy núi Cửu Hoa Sơn (giống như là hành lang của Ngũ Bách La Hán Cung). Phía đàng sau chánh điện có điện thờ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.
Đi xuống núi qua môt cây cầu có ghi ba chữ đại tự " Phi Long Kiều", một lát sau thì đi qua Chùa Hoa Nghiêm. Ngôi chánh điện của Chùa này đang được trùng tu toàn diện, vật liệu xây cất ngổn ngang. Cột gỗ, xà, kèo đã được dựng lên nhưng chưa xây tường. Chúng tôi lại có cơ duyên, sư trụ trì mời toàn thể phái đoàn vào phòng khách dùng trà. Tại đây, vị trụ trì tặng chúng tôi mỗi người một cái đẫy vải mầu vàng trên có thêu hàng chữ "Cửu Hoa Sơn Hoa Nghiêm Tự" để làm kỷ niệm. Phái đoàn chúng tôi đã góp tiền để cúng vào việc tạo tác ngôi chùa. Sau đó, vị trụ trì ra ngoài chụp hình lưu niệm cùng phái đoàn và tiễn đưa.
Tiếp tục đi xuống thì tới Nhục Thân Bảo Ðiện, hay Nhục Thân Tự. Ngôi chùa này được xây từ năm Trinh Nguyên thứ 13 đời nhà Ðuờng (797 TL) và được trùng tu vào thời vua Ðồng Trị nhà Thanh (1862-1874). Chùa được xây cất ở ngay nơi mộ của đức Kim Bồ Tát (Kim Kiều Giác) . Truớc cửa chùa là một cái cổng lớn trên có bức hoành với bốn chữ "Phật Quang Dị Thải" (thải là tia sáng, còn đọc là thể) rồi tới hàng bậc đá rộng (cở 3m bề ngang) gồm 81 bậc, tiến lên một cái sân rộng trước chánh điện, trong sân có rải rác 4 đỉnh đồng lớn để thắp hương và đốt vàng mã. Từ sân này chúng ta có một cái nhìn bao quát xuống chân núi nhấp nhô những mái chùa rất đẹp. Phía trên cao nhất chánh điện có treo bức hoành phi nền đen chữ vàng ghi hàng chữ : "Hộ quốc nhục thân bảo điện", phía dưới là bức hoành phi nền vàng chữ đen ghi hàng chữ " Ðông Nam Ðệ Nhất Sơn" là bốn chữ vua nhà Thanh ban cho Cửu Hoa Sơn. Chúng ta không rõ trong lịch sử Trung Hoa, nhục thân đức Kim Bồ Tát đã giúp nhà vua những gì mà được phong hai chữ hộ quốc.
Trong chánh điện, ngay chính giữa là một cái bệ đá hoa, mà người ta nói là duới đó là nơi có nhục thân Kim Bồ Tát, phía trên bệ đá thờ tượng đức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. phía sau tượng là một bảo tháp bằng gỗ tám cạnh cao lên sát tới trần cao cỡ 5m, mỗi cạnh mỗi từng đều có những tượng đức Ðịa Tạng Vương Bồ Tát (có gần 100 pho như vậy). Giáp tường hai bên là hai hàng tượng của Thập Ðiện Diêm Vương đứng cao cỡ 2m.
Xuống qua 81 bậc đá trước cửa chùa, ra khỏi cổng chính và đi tiếp tới Ðịa Tạng Thiền Tự . Ðây là một ngôi chùa mới xây từ năm 1991, kiến trúc rất mới và giản dị, không nhiều mầu sắc như các chùa khác. Trong chánh điện có trần rất cao cỡ 10m, chính giữa có thờ Ðức Ðịa Tạng, hai bên là tượng hai vị thị giả. Thị giả bên tay trái là tượng vị tỳ kheo còn trẻ tên là Ðạo Minh tay cầm tích trượng, thị giả bên tay phải là tượng vị tôn giả có râu, đầu mang mão viên ngoại là Mẫn Công, cha của tỳ kheo Ðạo Minh. Ngài Mẫn Công nhờ con mà thành đạo và hai cha con trở thành hiệp thị của Bồ Tát Ðịa Tạng. Cả ba pho tương cao ngoài 2m, để trong một khung kính lớn. Hai bên giáp tường lại có thờ hai hàng Thập Ðiện Diêm Vương. Ngoài ra bên trái còn có thờ nhục thân của vị tổ thứ 9, chúng tôi chỉ được giới thiệu là quê quán ngài ở Giang Tô (không rõ có phải đây là nhục thân của Hải Ngọc Ðại Sư như đã nói ở trên không). Nhục thân được sơn đen, và đặt trong khung kính.
Vòng ra phía đàng sau là một bức tường cao trên có gắn những tượng nổi, chính giữa là tượng Ðức Ðịa Tạng, chung quanh là những tượng liên quan đến cảnh cửa tử như cảnh quỷ sứ nơi địa ngục, cảnh thuyền bát nhã, tượng đức Mục Kiền Liên v..v..
Vùng núi Cửu Hoa Sơn còn có hai ngôi Chùa cổ rất lớn nữa đó là Kỳ Viên Tự và Hóa Thành Tự. Hai chùa cổ này có rất nhiều di tích lịch sử.
Minh Hạnh sưu tầm
No comments:
Post a Comment