Nghệ Thuật Phật Giáo và Con Đường Mậu Dịch
Nguồn tiếng Anh: Asia Society
Nguyễn văn Hòa dich thuật
Lời Giới Thiệu.
Các tuyến đường trao đổi mậu dịch, cả đường biển lẩn đường bộ, là phương tiện chính mà tư tưởng và hình ảnh Phật giáo đã được chuyển từ Ấn Độ, nơi phát xuất của Phật giáo, đến các nước châu Á khác. Những tuyến đường kết nối cổ xưa này là một con đường đưa những ảnh hưởng tôn giáo, văn hóa và nghệ thuật của Phật giáo đến tận các vùng xa xôi của lục địa và xa hơn đó nữa. Bài tiểu luận này ghi lại các hình ảnh từ bộ sưu tập thường trực của viện bảo tàng Hội Châu Á, bộ sưu tập thứ ba của ông bà John D. Rockefeller; Bài tiểu luận này cung cấp một cơ sở để khám phá sự phát triển của Phật giáo Ấn Độ cũng như sự giảng giải và ứng dụng của Phật giáo trong các nền văn hóa khác dọc theo tuyến đường thương mại. Một sự kiểm tra của công trình được minh xác ở đây sẽ cho thấy một số liên hệ cùng một số khác biệt giữa những tác phẩm điêu khắc Phật giáo Ấn Độ và các đối tác của họ trên khắp châu Á.
Hình tượng của Đức Phật được công nhận khắp mọi nơi, bất kể ở quốc gia nào hoặc thời đại nào. Những hình tượng này thường được làm dựa theo sự mô tả tìm thấy trong các văn bản Ấn Độ nhằm giúp các học viên khơi dậy hình thức của một Đấng Chí Tôn. Những văn bản này cung cấp cho các nghệ sĩ các đường nét cơ bản của hình tượng, thêm vào chi tiết để coi hình tượng đó phải giống như thế nào, từ các tư thế, cử chỉ, và màu sắc của Đức Thế Tôn, cho đến các vật tùy thân (các vật mà Đức Phật cầm giữ tượng trưng cho quyền lực hoặc sự linh thiêng đặc biệt). Những sự giống nhau nhiều hơn nữa có thể được nhìn thấy trong số các đồ vật của Phật giáo trong bộ sưu tập của Hội châu Á xuất phát từ xu hướng của các nghệ sĩ ở nơi khác thi đua làm những mô hình kiểu Ấn Độ. Đến từ quê hương của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và qua lời dạy của Ngài, những hình tượng này ắt hẳn phải mang một quyền lực tôn giáo. Sự khác biệt nổi bật nhất về thời đại hoặc về nền văn hoá thường thấy qua các chi tiết của hình tượng như trang phục, kiểu tóc, trang sức, cơ thể, và đặc điểm trên khuôn mặt. Tuy nhiên, như được chứng minh bằng một số các kiểu cách tượng trưng bởi các đồ vật trong bộ sưu tập, nghệ sĩ bên ngoài Ấn Độ không phải chỉ đơn giản bắt chước mô hình kiểu Ấn Độ, mà họ đã tạo ra tác phẩm riêng biệt của họ. Kết quả nghệ thuật của một tôn giáo trải dài ra hàng ngàn dặm xuyên qua một vùng đất rộng có nhiều chủng tộc là một tập hình ảnh dựa trên một niềm tin tương tự, nhưng được đánh dấu bởi các cá tính đặc biệt của từng khu vực.
Các Tuyến Ðường
Đường Bộ
Các vùng xa xôi của châu Á đã được thông thương bởi các tuyến đường thương mại từ hàng nghìn năm. Phật giáo trải dài từ Ấn Độ và Trung Quốc một lãnh vực văn hóa của châu Á bằng cách di chuyển dọc theo các tuyến đường thương mại qua sa mạc, núi, và đại dương. Góp phần lan rộng này là sự có mặt của Phật giáo, không giống như đạo Balamon (Ấn Độ giáo), đã không xem sự hoạt động thương mại là tiêu cực, do vậy nhiều thương nhân Ấn Độ trở thành Phật tử. Vào thế kỷ thứ nhất Tây Llịch, những chiếc thường thuyền và đoàn thương buôn đến từ Ấn Độ đã mang theo những nhà truyền giáo Phật giáo cùng với hàng hoá chính của họ như hàng dệt may, ngà voi, gỗ đàn hương, và gia vị. Các vị Tu sĩ du hành và các Pháp Sư đến từ Ấn Độ để hoằng pháp, hoặc có những người vào Ấn Độ để học hỏi thêm từ các bậc cao tăng. Sau đó, nhiều khách hành hương thực hiện các chuyến hành hương rất nhiều. Các kinh điển Phật giáo ở dạng văn bản, hình ảnh, và những tôn tượng khác có thể mang đi, cũng được di chuyển dọc theo tuyến đường thương mại, được một số người Phật tử mang ra nước ngoài trong niềm tin là được bảo vệ bởi một đấng tối cao, hoặc để được tôn kính, hoặc cho các mục đích hoằng Pháp.
Du khách thường buộc phải dành khoảng thời gian dài tại một hải cảng hoặc một ốc đảo, chờ đợi cho đến khi thời tiết cho phép một cuộc hành trình về tới điểm tiếp theo hoặc trở về nhà. Trong trường hợp thương gia hàng hải trên những tuyến đường dài, các điểm dừng có thể phải từ 3 cho tới 5 tháng. Ảnh hưởng văn hóa, ý niệm tôn giáo và nghệ thuật đã sẵn sàng trao đổi tại các thị trường địa phương, và những ý tưởng mới sau đó được phổ biến đến các khu vực khác của Châu Á.
Mặc dù mạng lưới thông thương đã thiết lập nối liền Á châu từ thời tiền sử, những chứng từ về khảo cổ và văn bản chỉ có thể chứng minh cho tới những thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên hiện tại. Gần đây người ta tìm thấy những mảnh đồ gốm thuộc về truyền thống của người Việt Nam có niên đại từ khoảng 750-200 trước Tây Lịch ở Thái Lan, Philippines, Malaysia, và Indonesia; những mảnh đồ gốm của Ấn-LaMã từ thế kỷ thứ nhất Tây L ịch trên bờ biển phía bắc của Java; một lược ngà voi của người Ấn Độ có niên đại từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ ba ở miền trung Thái Lan; và những chuổi hạt của người Ấn Độ và những đồng tiền "Ấn Độ hóa" từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ năm dương lịch ở miền trung Miến Điện.
Nó cũng chỉ ra rằng mặc dù thương mại là một trong những hoạt động quan trọng nhất thực hiện dọc theo các tuyến đường, sự truyền bá của các tôn giáo đồng thời chứng minh rằng các sự giao dịch cũng quan trọng. Các nghiên cứu của nhà nhân chủng học đã chỉ ra rằng nghi thức, tôn giáo, và cân nhắc xã hội thường bị lu mờ bởi các động cơ vật chất trong sự trao đổi hàng hóa.
Đường Biển
Không thể xác định chính xác khi nào, nhưng vào khoảng thế kỷ đầu tiên trước Công Nguyên Mã Lai có những thủy thủ gan dạ và đã hải hành viễn dương đến tận các hải cảng xa xăm ở tận bờ biển phía đông của châu Phi và đảo Madagascar. Họ đã mang theo các cây cảnh chẳng hạn như chuối và dừa và cả loại quế quý giá xuất nguồn từ miền nam Trung Quốc. Các thủy thủ Mã Lai cũng đã khám phá ra làm thế nào để dẫn tàu đi theo chiều gió mùa, một kỹ thuật mà sau này được tất cả các thuỷ thủ hàng hải thương thuyền ứng dụng. Sức gió trên các tuyến đường biển thường là trung bình và có thể dự đoán khá đúng. Từ tháng Năm tới tháng Tám, gió mùa thổi từ phía tây hoặc phía nam; từ tháng Mười Hai đến tháng Ba, gió thổi đến từ phía tây bắc hoặc phía đông bắc. Lợi dụng theo chiều gió mùa có thể tiên đóan được, người Malay đã học được cách lái thuyền buồm xa đến hàng ngàn dặm với hướng gió thổi đến từ phía sau (Châu Phi cách Mã lai đến hơn 3.000 dặm về phía tây), họ chờ cho đến khi gió đổi hướng, và lại thuận buồm trở về với hướng gió một lần nữa thổi đến từ phía sau.
Vào thế kỷ thứ nhất, giao thông trên biển thường xuyên kết nối Ấn Độ với bán đảo Mã Lai và các vùng phía đông và đã được ghi nhận bởi những người phương Tây đến Ấn Độ. Vào lúc đó, hàng hóa được vận chuyển từ Ấn Độ bằng tàu xuyên qua Vịnh Bengal và được khuân vác qua eo đất rộng 35 dặm của Kra đến tận Vịnh Thái Lan. Tất cả hàng hóa sau đó lại được chất lên tàu thuyền và chuyên chở dọc theo bờ biển đến các hải cảng ở đồng bằng Sông Cửu Long như Óc-eo, gần biên giới Việt Miên ngày nay __ nơi mà các đồng tiền La Mã của năm 152 Tây Lịch đã được tìm thấy__ và chuyên chở xa hơn nữa lên đến tận bờ biển Trung Hoa. Đoạn đường Đông Nam Á đã trở thành đặc biệt quan trọng cho các thương gia quốc tế trong thế kỷ thứ hai và thứ ba Tây Lịch, khi các tuyến đường bộ, trước đây các chuyến buôn bán các hàng hóa ưa chuộng, bị gián đoạn bởi bất ổn chính trị ở Trung Quốc và những đảng cướp săn mồi ở trung tâm châu Á. Vào cuối thứ tư và đầu thế kỷ thứ năm, các sự chuyên chở gặp khó khăn khi qua eo đất Kra nên không còn cần thiết như các tuyến đường hàng hải giữa Ấn Độ và các điểm đông được sử dụng thường xuyên của các eo biển Malacca và Biển Đông. Từ giữa thế kỷ thứ năm, tuyến đường biển này đã được xác định rõ ràng, và sự giao thương buôn bán giữa Đông và Tây đã tập trung vào nó. Giao thông hàng hải cũng được liên kết Nhật Bản với bán đảo Triều Tiên và với lục địa Trung Hoa.
(Ngày mai tiếp - Phật Giáo và Những Hình Ảnh)
No comments:
Post a Comment