Nguồn tiếng Anh: Asia Society
Nguyễn văn Hòa dich thuật
Phật Giáo
Phật giáo là một tôn giáo vẫn còn phát triển rộng rãi khắp châu Á. Phật Giáo cung cấp một hướng đi tinh thần để vượt qua sự đau khổ của cuộc sống hiện hữu. Chu kỳ bất tận của sinh, tử, và tái sinh (luân hồi sinh tử), mà tất cả chúng sinh đều phải chấp nhận, phải sống lại sự đau khổ gây ra do nghiệp chướng của mình, đó là tổng hợp của những hành động tốt và xấu tích lũy qua nhiều lần tái sinh. Thoát ra khỏi chu kỳ bất tận này chỉ có thể đạt được bởi giác ngộ, mà giác ngộ chính là mục tiêu phấn đấu của mọi Phật tử. Phật ("người thức tỉnh ") (Hình 1) là một chúng sinh biết tất cả, là người đạt đến một cảnh giới kiến thức hoàn hảo, trong đó những ngọn lửa của tham, sân, si đều đã lắng xuống; đi vào cỏi Niết bàn ("thổi ra ngoài, để trở thành dập tắt "), một vị Phật không bao giờ bị tái sinh trở lại..
Fig. 1 Trong hình Đức Phật có những lọn tóc xoắn hình vỏ ốc, trên đỉnh đầu là nhục kế, và ngón tay có màng của Ngài nằm trong số ba mươi hai dấu hiệu tốt lành (hảo tướng) được mô tả trong văn học Phật giáo điều này biểu hiện Ngài đã giác ngộ. Thùy tai thuôn dài của Ngài, mặc dù không phải trong số các điểm theo quy định, thường được thấy trên hình ảnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và tham khảo các hoa tai nặng mà Ngài mang khi còn là hoàng tử trẻ tuổi trước khi Ngài bỏ tất cả tài sản vật chất để theo đuổi một con đường tâm linh siêu việt. Các lỗ trên vành tai là sự nhắc nhở các tín hữu rằng họ cũng nên từ chối của cải thế gian và những thú vui.
Tôn Tượng Phật. Ấn Độ, có thể là tỉnh bang Bihar. Cuối thế kỷ thứ 6th century: copper alloy, 27" (68.6 cm), 1979.8
Những diễn biến trong cuộc đời của Đức Phật, Thích Ca Mâu Ni, là một chủ đề phổ biến trong nghệ thuật Phật giáo. Theo truyền thuyết, Siddhartha ("người đạt được mục tiêu của mình"), người sáng lập Phật giáo, được sinh ra là một hoàng tử của hoàng tộc Shakya vào năm 563 Trước Công Nguyên tại vùng mà ngày nay là miền nam nước Nepal (Hình 2).
Fig. 2 Hoàng Hậu Maya tay vịn một nhánh cây và chân của Hoàng Hậu tựa vào gốc cây. Theo trong kinh điển, đây là tư thế mà Hoàng Hậu Maya đã sinh ra Đức Phật, Ngài đã được sanh một cách kỳ diệu từ bên hông của Bà. Bên cạnh Hoàng Hậu Maya là các Chư Thiên đang đón nhận Đức Phật khi Ngài rời khỏi Hoàng Hậu Maya.
Cảnh cuộc đời của Đức Phật từ những chiếc lá của Ashtasahasrika Prajnaparamita Manuscript. Ấn Độ , Tỉnh Bihar, Tu Viện Nalanda. Thời kỳ Pala, vào 1073: mực và màu nước bị đục trên lá palm, vào khoảng 2 7/8 x 22 3/8" (7.3 x 56.8 cm), 1987.1
Ngài được nuôi dưỡng kín cổng cao tường trong cung điện để không bị tiêm nhiễm bất cứ điều gì có thể ngăn chặn Ngài trở thành vị vua kế tiếp. Lần đầu tiên Thái Tử Siddhartha viếng thăm thế giới bên ngoài là lúc Ngài được 29 tuổi. Cảm động trước đau khổ Ngài nhìn thấy, Ngài vất bỏ cuộc sống sang trọng của mình và thay vào đó bằng một cuộc sống khổ hạnh và truy tìm lý do tại sao con người lại sinh ra trong một cuộc sống phải chịu già nua, bệnh tật, và chết chóc. Ngài đã trải qua sáu năm tu khổ hạnh, cố gắng chinh phục các đòi hỏi bẩm sinh như ăn no, mặc ấm, và sắc dục. Khi gần chết vì nhịn ăn, Ngài đã được một cô gái trẻ cúng dường một bát cơm. Sau khi nhận bát cơm, Ngài đã có một sự nhận thức rằng những khắc khổ vật chất không phải là phương tiện để giải thoát tâm linh. Sau đó Ngài ngồi thiền dưới một cây bồ đề (Ficus religiosa) và đạt được giác ngộ trong một đêm (Hình 3).
Fig. 3 Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giác ngộ ở tuổi ba mươi lăm sau khi thiền định dài, trong đó Ngài chiến đấu với thần chết và ma vương, Mara. Cử chỉ chạm vào trái đất ( Ấn xúc địa) trong hình ảnh này nhớ lại thời điểm thử thách với ma vương Mara về quyền của mình để đạt được giác ngộ, Đức Phật đã đặt tay phải của mình chỉ xuống. Đó là ấn quyết mà Đức Phật Thích Ca gọi thổ địa chứng minh mình đạt Phật quả và cũng là dấu hiệu của sự không lay chuyển,
Cảnh của cuộc đời Đức Phật từ những lá Ashtasahasrika Prajnaparamita Manuscript. Ấn Độ, tỉnh Bihar, tu viện Nalanda. Thời kỳ Pala, vào khoảng 1073: mực và màu nước trên lá palm bị phai màu, approx. 2 7/8 x 22 3/8" (7.3 x 56.8 cm), 1987.1
Cây đó được gọi là cây “giác ngộ" hay cây Bồ đề. Ngài thiết lập để giảng dạy cho người khác những gì Ngài đã học được, Ngài khuyến khích mọi người đi theo một con đường mà Ngài gọi là "Trung Đạo", một con đường cân bằng chứ không phải cực đoan. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ("hiền triết của gia tộc Shakya") tự coi mình chỉ như là một người thầy chớ không phải là một vị thần hay đối tượng phải suy tôn. Truyền thuyết nói rằng Ngài dịch tiệt vào lúc tám mươi tuổi, trong năm 483 TCN (Hình 4)
Fig. 4 Đức Phật viên tịch tại thị trấn Kushinagara sau khi Ngài thọ thực do ông thợ rèn Cunda cúng dường. Trong bức tranh được miêu tả với Đức Phật nằm nghiêng bên phải của mình với cánh tay phải dưới đầu.
Cảnh trong cuộc đời của Đức Phật từ những lá Ashtasahasrika Prajnaparamita Manuscript. Ấn Độ , tỉnh Bihar, tu viện Nalanda. Thời kỳ Pala, vào khoảng 1151: Mực và màu nước trên lá palm bị phai màu, approx. 2 7/8 x 22 3/8" (7.3 x 56.8 cm), 1987.1
Ba tông phái chính của Phật giáo đã phát triển qua một lịch sử lâu dài, mỗi tông phái đều có đặc điểm và lý tưởng tinh thần riêng của mình. "Phật giáo Nguyên Thủy", thường được biết đến qua danh xưng Tiểu thừa ("Lesser xe"), là tông phái xuất hiện sớm nhất trong ba tông phái và đặt trọng tâm vào việc cứu rỗi cho chính mình và vào sự cần thiết của cuộc sống tu viện, để đạt được thanh thản của tâm linh. Tông pháI Đại Thừa ("Greater xe"), mà các thành viên đặt ra chữ "Tiểu thừa" và tin rằng tín đồ của phái này theo đuổi một con đường mà đa số người dân bình thường không thể theo, dạy về sự cứu rỗi cho mọi người. Những người theo tông phái Kim Cương thừa ("Diamond Vehicle"), hoặc Phật giáo Mật Tông, tin rằng người ta có thể đạt được giác ngộ trong một đời duy nhất, trái ngược với hai tông phái kia có chủ trương rằng cần phải mất nhiều kiếp mới có thể tích luỹ được các nghiệp tốt cần thiết. Ba tông phái này không chống chọi, loại trừ nhau, nhưng trọng tâm của họ về thực hành khác nhau đã ảnh hưởng tới nghệ thuật trong Phật giáo. Ví dụ, trong khi Phật giáo Nguyên Thủy dạy rằng chỉ có một ít người sùng đạo có thể đạt được giác ngộ và họ làm điều đó thông qua những nỗ lực riêng của họ, trong khi Phật Giáo Đại thừa và tông phái Kim Cương thừa, dạy rằng tất cả mọi người đều có thể đạt được Phật giới với sự giúp đỡ của các chúng sinh gọi là Bồ tát. Kết quả là, hình ảnh của Bồ tát được sùng bái trong nghệ thuật của Đại thừa và Kim Cương thừa và thường được miêu tả qua hình ảnh chầu bên chư Phật
Hình ảnh của Ðức Phật và các vị Bồ Tát
Hình ảnh Phật Giáo phản ảnh ở nhiều cấp độ vì mỗi một yếu tố mỗi một động tác đều tượng trưng cho một ý nghĩa. Sự hiện diện của một hình ảnh phản chiếu những mẫu mực có nền tảng lâu dài và phản chiếu những đường nét diễn tả đã được phát triển ở Ấn Độ và được lưu truyền qua nhiều thế kỹ cũng như qua nhiều địa danh xa xôi rộng lớn.
Những hình ảnh diễn tả chư Phật, ví dụ, có thể dễ dàng được xác nhận (Hình 1). Chẳng hạn như hình ảnh của những người đã từ bỏ thế giới vật chất, họ ăn mặc như nhà sư với loại hàng may mặc đơn giản và thường không đeo đồ trang sức.. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã cắt bỏ mái tóc dài của mình và cởi bỏ bông tai vàng ngọc nặng nề của mình khi Ngài rời cung điện để xuất gia. Kết quả là, chư Phật được biểu hiện bằng một người với mái tóc thật ngắn thông thường có hình cong của vỏ ốc. Mang tai của các Ngài với những lổ đã được kéo dài ra chứng tỏ đã từng một lần đeo bông tai nặng nề. Thêm vào đó Đức Phật cũng có ba mươi hai hảo tướng để chỉ ra tính chất siêu việt của mình. Những hảo tướng này bao gồm một thể chất lý tưởng, một vết gồ lên trên đỉnh đầu (nhục kế), một dấu chấm tròn ở trung tâm của vầng trán (bạch mao), và bàn tay cùng với bàn chân đều có màng. Tuy nhiên, những dấu hiệu đặc biệt này không được hệ thống hóa trong các văn bản cho đến khoảng thế kỷ thứ tư, và thậm chí sau đó cũng không xuất hiện trên tất cả các hình ảnh Phật. Ngoài ra, không phải tất cả các hình ảnh của chư Phật đều mô tả Đức Phật lịch sử, Thích Ca Mâu Ni. Khi Phật giáo phát triển, nhiều chư Phật được ghi nhận đã xuất hiện trong quá khứ, hiện tại, và tương lai, và thật là rất khó để xác định một hình ảnh chư Phật là vị Phật nào vì các đặc tính được liệt kê chỉ tiêu biểu nhiều nhất cho tính chất nghệ thuật mà thôi.
Bồ Tát là những chúng sinh có trình độ nhận thức cao cả đủ để giúp họ thoát khỏi chu kỳ tái sanh, nhưng các vị này chọn lựa sự hy sinh để ở lại thế gian với mục đích giúp cho những chúng sinh khác đi trên con đường tiến đến giác ngộ. Không giống như Chư Phật chỉ khoác lên người chiếc tăng bào, Bồ tát thường được bao trùm bởi hào quang sáng chói tựa như vua chúa (Hình 5).
Fig. 5Không giống như Chư Phật mặc áo cà sa đơn giản của các nhà sư, chư vị Bồ tát thường có một thân trên trần và mang trang sức bằng châu báu như các vị vua. Cơ thể của các vị Bồ Tát được vẽ với vai rộng và hông hẹp, và họ thường đứng hoặc ngồi trong tư thế nghiêng mình.
Bồ Tát. Tây Tây Tạng, cuối thế kỷ 10th – đầu thế kỷ 11th : Bằng đồng với trạm đồng và bạc, 27 1/4" (69.2 cm), 1979.45
Các vị Bồ tát mang vương miện, kim khôi, hoặc các loại mũ miện trang sức khác đồng thời còn mang các vòng đeo tay, vòng đeo cổ, và tóc của các vị Bồ tát thường được trang điểm với búi tóc cao lớn, kiểu cách. Bồ tát thường có thể được xác định danh xưng bằng những vật dụng cầm trên tay hoặc bằng một biểu tượng nhỏ đính trên mái tóc, chẳng hạn như vị Phật ngồi A Di Đà, được xác nhận là Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara), là Từ Bi Bồ tát
Fig. 6 Bồ tát thường được xác định bởi các đối tượng mà các Ngài nắm giữ trong tay, hoặc bằng vương miện của các Ngài. Hình ảnh này có thể được xác định là Quán Thế Âm Bồ Tát, Bồ Tát của Từ Bi
Bồ Tát Quán ThếÂm. Ấn Độ, Bihar, cuối thế kỷ thứ 7th – đầu thế kỷ thứ 8th: schist, 77 " (195.6 cm), 1979.10
(Ngày mai tiếp- Ấn Độ:Nguồn gốc của nghệ thuật Phật Giáo)
No comments:
Post a Comment