Lục súc tranh công
Tác-giả không biết là ai
"Lục súc tranh công" nghĩa là sáu con vật nuôi trong nhà tranh nhau công trạng của mình. Sáu con ấy là: trâu, ngựa, chó, dê, gà, và lợn. Trâu thì rằng làm ăn vất vả, có công sinh ra thóc, gạo, ngô, đỗ; chó thì rằng có công coi nhà giữ trộm; ngựa thì rằng có công đem chủ đi quán về quê, đánh đông dẹp bắc; dê thì rằng có công trong việc tế lễ; gà thì rằng có công gáy sáng, xem giờ; lợn thì rằng có công trong việc quan, hôn, tang, tế.
3- Khuyển
Muông nghe nói, giận đau phế-phổ,
Liền chạy ra sủa mắng vang tai :
"Trời đã sinh các hữu kỳ tài,
Lớn việc nặng, bé thì việc nhẹ.
Bởi vì đó lớn vai, lớn vế,
Thì chuyên lo nông bổn cày-bừa,
Vốn như đây ốm-yếu chân tay,
Cũng hết sức gia-trung xem-xét.
Trách sao khéo thổi lông tìm vết ?
Giận thày-lay vạch lá tìm sâu.
Ai ai đều phận thủ như nhau ;
Khắn-khắn cũng một lòng phò chủ.
Kẻ đầu kia, người việc nọ,
Đứa coi ngoài có đứa giữ trong.
Đêm năm canh con mắt như chong :
Đứa đạo tặc nép oai khủng-động.
Ngày sáu khắc, lỗ tai bằng trống,
Đứa gian tham thấy bóng cũng kinh.
Lại đến ngày kỵ-lạp tiên-sinh,
Cũng ra sức săn chồn, đuổi sóc.
Bao-quản chui gai, lước góc,
Chi này múa mỏ, lòn hang.
Anh trâu sao chẳng biết thương,
Nỡ lại tra lời sanh-nạnh.
Ăn thì cơm thừa, canh cặn,
Ăn thì môn sượng, khoai sùng
Tới bữa ăn chẳng luận ít nhiều,
Có cũng rằng, không cũng chớ.
Trâu rằng : trâu ăn rơm với cỏ
Mà còn có một thằng chăn,
Tốn áo-quần cùng tốn cơm ăn,
Nỗi lại tới gạo tiền đằng khác;
Tính chắt-lót một năm hai đạc,
Về thằng chăn đã hết một trâu.
Cũng mạnh cày, mạnh kéo nên giàu,
Hãy cho nhẹm mình trâu là quí.
Vốn như đây gia-tài ủy-ký,
Mà chủ không tốn kém đồng nào.
Nếu không muông coi trước giữ sau,
Thì của ấy về tay kẻ trộm.
Trâu biết nói, trâu không biết xét,
Suy mình muông công-nghiệp đã dày,
Khi sống thì giữ-gìn của đời,
Khi thác xuống giữ cầu âm-giái,
Người có phước, muông đưa ra khỏi,
Ai vô nhân, qua chẳng đặng đâu !
Chủ có lòng suy trước,xét sau,
Khi lâm-tử gạo tiền tống táng.
Chủ đã có công dày ngãi rộng,
Muông dễ không tiếp rước đãi-đưa,
Thấy anh trâu chưa biết căn-do,
Nó (Nói ?) vài chuyện, kẻo chê muông dại".
o
o o
Trâu với muông hai đàng đối-nại,
Chủ nghe qua khó nỗi xủ-phân :
"Thôi đừng nhĩ ngã thiệt hơn.
Phú lưỡng bạn dĩ hoà vi quí".
Lục súc tranh công
4-
Hai vật đã tương đồng hoan-hỉ,
Lại cùng nhau từ-tạ một lời :
"Như luận trong công-nghiệp hai tôi:
Ăn có bữa, lo không có bữa.
Dám thưa người, báu gì giống ngựa,
Mà trau-tria lều-trại nhọc-nhằn ?
Ăn cho ăn những cháo đậu xanh,
Ở thì ở những tàu lợp ngói.
Bữa bữa dạo chơi, tắm gội,
Ngày ngày chắn vó, hớt mao.
Sắm-sửa cho, chẳng biết chừng nào,
Suy-tính lại, dư trăm, dư chục.
Sắm lá vả, sắm yên, sắm lạc,
Sắm chân-đưng hàm thiếc, dây cương.
Dời tiền, dời hậu bao vàng,
Thắng đái, dây cương thếp bạc.
Gẫm giống ấy :
Nết-na giớn-giác,
Tính-khí chàng-ràng,
Tuy đang khi mọi vẻ nghiêm-trang,
Trong gia-sự nhiều điều ngơ-ngáo.
Nghề cày-bừa, nghe coi lếu-láo,
Việc bắn săn coi cũng ươn tài,
Chủ nuôi không biết chủ là ai,
Nhà ở, chẳng biết nhà mà lại.
Dại không ra dại,
Khôn chẳng nên khôn ;
Ngất-ngơ như ốc mượn hồn.
Nuôi giống ấy làm chi cho rối".
No comments:
Post a Comment