Wednesday, January 31, 2018
Chuyện ngắn - CÁCH NGƯỜI THÀNH CÔNG NẮM BẮT CƠ HỘI
CÁCH NGƯỜI THÀNH CÔNG NẮM BẮT CƠ HỘI
Câu chuyện về ông lão bán hoa quả cùng 3 cậu nhân viên trong bài viết sẽ cho bạn thấy rằng: người tuyển dụng chỉ mang lại cho bạn cơ hội, còn thành công thăng tiến là thứ bạn phải tự mình có được.
Thế gian này không có một ông chủ nào tặng cho bạn sự vinh hoa phú quý, thứ mà họ cho bạn chỉ có thể là "cơ hội".
Bạn chỉ cần nắm bắt lấy các "cơ hội" giúp ông chủ gia tăng doanh thu, giúp công ty gia tăng lợi nhuận, lúc đó bạn mới có thể dựa vào nguồn lực của công ty và ông chủ nâng cao vị thế của mình, nước có lên thì thuyền mới lên theo.
Ông chủ của một quầy bán hoa quả, do tuổi cao không thể đứng lâu bán hàng được, nên đã dán một tờ thông báo tuyển người bán hàng. Vài hôm sau, có một người thanh niên đến xin việc, anh ta hỏi ông chủ trả lương cho anh ta bao nhiêu một tháng?
Ông chủ quầy hoa quả cười nói: "Quầy hoa quả của tôi chỉ là một quầy nhỏ, không có khả năng trả theo tháng, tất nhiên còn phải xem cậu một ngày bán được bao nhiêu nữa, tôi sẽ trả cho cậu 1/10 số tiền cậu bán được, bán ngày nào trả luôn ngày đấy".
Anh này nghe xong, ngắm nghía một lúc quầy hoa quả cũ kỹ rồi cau mày nói: "Tôi từ chối, vì như vậy chả có sự bảo đảm gì cả". Nói xong, anh ta liền bỏ đi.
Sau đó lại có một người thanh niên khác đến xin việc, cũng hỏi lương tháng ông chủ sẽ trả bao nhiêu? Và ông chủ quầy hoa quả cũng nói với anh ta y hệt những gì đã nói với anh thanh niên trước. Anh này nghe xong ngẫm nghĩ một lúc nói: "Lĩnh theo ngày hay tháng không quan trọng, quan trọng là trung bình mỗi tháng quầy của ông bán được bao nhiêu tiền hoa quả?".
bài-học-thành-công
Ông chủ quầy hoa quả trả lời: "Hoa quả phân theo mùa, kinh doanh cũng có lúc nhanh chậm, lúc đắt hàng có thể bán được đến trên trăm triệu, lúc bán chậm thì tháng có khi chỉ được 20 triệu". Nghe vậy, anh này quát lên "bán thế này cả đời cũng không giàu được, chỉ có thằng ngu mới đến đây bán hàng", nói xong anh ta bỏ đi luôn.
Lại qua vài ngày, có một cậu bé đến xin việc, hỏi ông chủ trả lương thế nào? ông chủ lại nói hệt những gì nói với những người trước. Cậu bé nghe xong cười nói: "những ngày lễ và cuối tuần, ông có thể trả thêm cho cháu lên 2/10 được không? Còn nếu như ngày nào mà bán được 30 triệu tiền hoa quả trở lên, thì trả cho cháu 3/10 số tiền bán được?".
Ông chủ quầy hoa quả nghe xong vừa cười vừa xoa đầu cậu bé: "cháu thật thông minh, cũng biết ngày lễ và cuối tuần thường đắt hàng hơn ngày thường, vậy cứ tạm quyết định như vậy đi, nhưng ông nói trước mỗi ngày mà bán được 30 triệu không dễ đâu cháu nhé".
Và cứ như vậy, cậu bé ngày nào cũng mang hoa quả ra rửa sạch và thay đổi vị trí bày của các loại quả cho nhau, ngày lễ hay cuối tuần còn làm mấy tờ rơi khuyến mãi cho ai mua 3 triệu tiền hoa quả tặng thêm 300 ngàn tiền hoa quả tùy chọn.
Cứ như vậy, chưa đầy một tháng, cậu bé đã nhận được 30 triệu tiền lương tương đương mỗi ngày nhận được trên 3 triệu đồng. Rồi vài năm sau, cậu đã kiếm được khá nhiều tiền, liền mua lại quầy bán hoa quả của ông chủ cũ, rồi nhờ vào sự nhanh nhẹn hoạt bát của mình cậu mở thêm nhiều cửa tiệm bán hoa quả khác nữa, nhờ vậy sau này cậu đã trở nên giàu có.
BÀI HỌC:
Theo khảo sát, trên thế giới có đến 70% số người lao động không hài lòng với mức lương của mình, kể cả họ biết được tình hình kinh doanh của công ty đang đi xuống, lợi nhuận sụt giảm, nhưng có những người vẫn đòi hỏi ông chủ của mình tăng lương.
Rõ ràng, 70% số người này cũng giống như người thanh niên đầu tiên đến xin việc ở quầy bán hoa quả, họ chỉ cần có chế độ cố định, bất kể họ làm tốt hay không tốt thì mức lương của họ đều không thay đổi.
Ngoài ra, trong số 70% này, cũng có không ít người giống như người thanh niên thứ 2 đến xin việc ở quầy hoa quả, những người này họ đều nghĩ rằng ai là ông chủ đều có nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp, vinh hoa phú quý trong tầm tay, và nếu như ông chủ không cho họ ít bổng lộc, họ sẽ nghĩ ông chủ keo kiệt bủn xỉn và họ sẽ không ngừng thay đổi công việc. Những người như vậy, đến già họ vẫn đang đi tìm sự viinh hoa phú quý từ người khác.
Thế gian này không có một ông chủ nào tặng cho bạn sự vinh hoa phú quý, thứ mà họ cho bạn chỉ có thể là "cơ hội". Bất kể bạn bán hoa quả hay bạn bán máy vi tính, chỉ cần bạn hiểu được đạo lý này bạn sẽ giống như cậu bé bán hoa quả ở trên, nhận được càng nhiều vinh hoa phú quý từ tay ông chủ.
Nguồn: Tri thức trẻ
Chuyện ngụ ngôn ý nghĩa
Chim ưng và Cáo
Chim ưng và Cáo quyết định sống với nhau như bạn bè và thoả thuận ở gần nhau cho tình bạn thêm bền chặt nhờ tình láng giềng. Chim ưng xây tổ trên ngọn cây cao còn Cáo đào hang đẻ con ngay trong những bụi cây dưới đất. Nhưng có một lần, cáo đi kiếm mồi, chim ưng đang đói bay sà xuống bụi cây vồ lấy các con cáo con và cùng với các con chim ưng con của mình ăn thịt chúng.
Cáo về nhà, biết được điều gì đã xảy ra và rất đau đớn: đau vì các con của mình đã chết không bằng đau vì không trả được thù, vì các con thú rừng không tài nào bắt được chim ưng. Nó chỉ còn biết đứng từ xa mà cất tiếng nguyền rủa kẻ vong tình bội nghĩa kia. Kẻ sức yếu, thế cô thì có thể làm được gì hơn?
Nhưng rồi cũng đến lúc chim ưng phải trả giá cho tình bạn bị nó chà đạp. Một người nào đó đem dê ra đồng để hiến tế. Chim ưng bay đến con vật bị hiến và tha đi bộ lòng bốc khói của nó. Và khi nó chỉ vừa mới tha về đến tổ, một cơn gió mạnh ập đến, những dây bện tổ cũ kỹ mỏng mảnh bốc lửa cháy sáng rực. Những con chim ưng con bị cháy xém rơi xuống đất. Chúng chưa thể bay lên được. Thế là Cáo chạy ra ăn thịt chúng ngay trước mắt chim ưng.
Truyện ngụ ngôn này cho thấy kẻ phản bạn dù có thoát được sự trả thù của người bị xúc phạm nhưng cũng không tránh khỏi được sự trừng phạt của Thượng đế.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
CÂY BÁCH
Một ông tăng hỏi Thiền sư Triệu Châu, “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Triệu Châu đáp, “Cây bách trước sân.”
Thoạt nghe như Triệu Châu đang chỉ cây bách trước sân như một ngoại vật, nhưng sự thật chẳng có gì qui định là “trong” hay “ngoài”. Triệu Châu trở thành cây bách và cây bách trở thành Triệu Châu .
Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen,1200-1253) nói:
Học Phật pháp là học chính mình.
Học chính mình là quên chính mình.
Quên chính mình là trở thành một với
Đại Tâm vô biên.
Khi tự quên mình, Triệu Châu trở thành một với cây bách vô biên, vô lượng. Không cần nói ai cũng biết rằng tinh thần này không những chỉ áp dụng cho cây bách mà còn áp dụng cho cả mọi sự vật.
(Thiền Ngữ Thiền Tự)
Thoạt nghe như Triệu Châu đang chỉ cây bách trước sân như một ngoại vật, nhưng sự thật chẳng có gì qui định là “trong” hay “ngoài”. Triệu Châu trở thành cây bách và cây bách trở thành Triệu Châu .
Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen,1200-1253) nói:
Học Phật pháp là học chính mình.
Học chính mình là quên chính mình.
Quên chính mình là trở thành một với
Đại Tâm vô biên.
Khi tự quên mình, Triệu Châu trở thành một với cây bách vô biên, vô lượng. Không cần nói ai cũng biết rằng tinh thần này không những chỉ áp dụng cho cây bách mà còn áp dụng cho cả mọi sự vật.
(Thiền Ngữ Thiền Tự)
Phật Pháp là phương lương dược
Phật Pháp là phương lương dược giúp người nghiện cai được ma túy
by Elizabeth Critton, The Easier, Softer Way, Aug 18, 2013
Nguyễn Văn Hoà - Việt dịch
Venice, California (Mỹ) - Cai thuốc phiện thường là một quá trình khó khăn và đau đớn. Chúng tôi đã mất đi nhiều năm để thoát khỏi mọi ý nghĩ và cảm xúc dằn vặt. Các chất ma túy tạo nên những ảo ảnh của giải pháp hoàn hảo. Chúng tôi tin rằng chúng tôi đã tìm được một tâm thái bình yên và thanh thản mà chúng tôi đang tìm kiếm.
Sau khi tỉnh táo, chúng tôi đột nhiên thoát khỏi sự mê man của các chất ma túy. Bởi vì những suy nghĩ và cảm xúc bắt đầu xuất hiện trong tâm thức của chúng tôi, chúng tôi thấy mình bị tổn hại rất nhiều. Những năm tháng nghiện ngập đã che mờ tâm trí của chúng tôi, nẩy sinh ra những suy nghĩ và cảm xúc khó chịu. Khi tâm bắt đầu tỉnh thức, những suy nghĩ và cảm xúc phát sinh và chúng tôi không có bất kỳ một trang cụ gì để hội nhập với chúng.
Phật giáo cung cấp một trang cụ hoàn hảo cho người đã cai ma túy. Tìm hiểu về giáo lý căn bản của Phật giáo, những suy luận cho hành vi của chúng ta bắt đầu có ý nghĩa hơn. Giáo lý về nhân quả khai sáng cho khả năng này. Đầu tiên, chúng ta chịu trách nhiệm về hành động của chúng ta. Nghiện ngập và hành vi mà đi cùng với nó có một nguyên nhân gốc rễ trong tâm trí của chúng ta.
Ba căn nguyên không lành mạnh, hoặc ba chất độc đặc biệt áp dụng đối với sự cai nghiện. Chất độc đầu tiên, sự ngu dốt (ngã mạn), là điều tiên quyết của hai điều kia. Với sự ngu dốt, quan điểm của chúng ta về thế giới bị bóp méo rất nhiều. Chúng ta tách biệt với thế giới bên ngoài, lúc nào cũng chỉ biết tới cái "tôi." Coi cái tôi là trên hết thì luôn luon chia rẽ. Nếu chúng ta có "cái tôi", thi tất cả mọi thứ khác trên thế giới đều là "tụi nó" hoặc " chúng nó." Sự phân chia này sẽ mở đường cho những mối tương quan khó khăn đối với những gì không phải là tôi.
Chất độc thứ hai (sân) là xu hướng chối bỏ, trốn chạy, thù hận, hoặc có những hành động hung bạo đối với những thứ khác. Nếu không có chánh niệm và sự hiểu biết, sự ác cảm thường được cho là những người khác gây ra, tình huống khác tạo ra, hoặc từ hành động, ngôn ngữ khắc nghiệt mà ra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự ác cảm là do từ nội tâm; đó là những cảm xúc, suy nghĩ, hay giận hờn mà chúng ta sinh ra ác cảm, thù ghét, hoặc có thành kiến. Cảm giác thương tâm gây nên nghĩ tưởng u uất nặng nề , và phản ứng tự nhiên và vụng về của chúng ta là phản kháng lại. Đạo Phật dạy người nghiện mới tỉnh táo mà sự ác cảm không phải là bất cứ điều gì ngoại trừ những cảm giác này, và chúng ta từ bi và chánh niệm phải chấp nhận những cảm xúc như họ bình thản. Như AjahnSumedho đã nói: "Ngay bây giờ, nó là như thế này."
Bị vướng vào loại độc thứ ba không những chỉ gói ghém trong việc xử dụng các chất ma túy. Nó còn lien quan đến cả đời sống không nghiện ngập của chúng ta. Nghiện ngập và tham lam khiến chúng ta muốn mọi thứ đều phải theo một cách nhất định. Nếu chúng ta cứng nhắc đeo đuổi một ý tuởng rằng những việc này phải như thế này, chúng ta sẽ chịu nhiều đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta sẽ đau khổ nếu chúng ta them muốn những thứ khác với những gì chúng ta đang có. Để phục hồi trong việc nghiện ngập, them khát được thống trị và được say mê sẽ tước bỏ đi những giây phút hiện tại.
Mặc dù giáo lý Phật giáo là một giáo lý siêu tuyệt để học và tìm hiểu, nhưng không phải là con đường đúng duy nhất. Để xem những gì mà giáo pháp thực sự nói đến, chúng ta phải tự ngồi yên và tham thiền. lắng nghe một giảng sư nói về giáo Pháp là một cách tuyệt vời để tìm hiểu, nhưng phải trải qua qua kinh nghiệm bản thân thì chúng ta mới bắt đầu phát hiện ra tấm lòng của chúng ta, bỏ lại thói quen háo động ở phía sau, và phát triển để trở thành những chúng sinh có tâm thiện, có lòng từ. .
Chuyện cười trong ngày
Lý Do Bị Vợ Đuổi Khỏi Nhà
Sáng sớm, ông An thấy ông Bi bạn hàng xóm ngồi thẫn thờ trước cửa nhà. Nghi có chuyện chẳng lành, anh chạy sang hỏi han.
- Sao ông lại ngồi ở đây thế?
Ông Bi nhìn ông bạn, vẻ mặt rầu rĩ kể lại câu chuyện:
- Hôm qua tôi và vợ cãi nhau. Sau một buổi chiều bỏ ra quán cà phê ngồi suy nghĩ, tôi rất hối hận.
Ông An nóng ruột hỏi tiếp:
- Rồi sao nữa?
Ông Bi thở dài, mắt ngấn lệ nói:
- Tôi quyết định mua cho vợ một sợi dây chuyền để xin lỗi cô ấy.
- "Vậy sao anh còn phải ngồi ở cửa?" Ông An thắc mắc.
Ông Bi ấm ức kể lại trong nước mắt:
- Tôi không biết nên mua sợi dây dài cỡ nào cho vừa, nên nhân lúc vợ ngủ liền lấy sợi dây thừng vòng qua cổ cô ấy để đo thử. Thế là vợ tôi bật dậy nổi điên lên tống cổ tôi ra khỏi nhà. Phụ nữ thật khó hiểu. Tôi chỉ muốn xin lỗi thôi mà!
Sáng sớm, ông An thấy ông Bi bạn hàng xóm ngồi thẫn thờ trước cửa nhà. Nghi có chuyện chẳng lành, anh chạy sang hỏi han.
- Sao ông lại ngồi ở đây thế?
Ông Bi nhìn ông bạn, vẻ mặt rầu rĩ kể lại câu chuyện:
- Hôm qua tôi và vợ cãi nhau. Sau một buổi chiều bỏ ra quán cà phê ngồi suy nghĩ, tôi rất hối hận.
Ông An nóng ruột hỏi tiếp:
- Rồi sao nữa?
Ông Bi thở dài, mắt ngấn lệ nói:
- Tôi quyết định mua cho vợ một sợi dây chuyền để xin lỗi cô ấy.
- "Vậy sao anh còn phải ngồi ở cửa?" Ông An thắc mắc.
Ông Bi ấm ức kể lại trong nước mắt:
- Tôi không biết nên mua sợi dây dài cỡ nào cho vừa, nên nhân lúc vợ ngủ liền lấy sợi dây thừng vòng qua cổ cô ấy để đo thử. Thế là vợ tôi bật dậy nổi điên lên tống cổ tôi ra khỏi nhà. Phụ nữ thật khó hiểu. Tôi chỉ muốn xin lỗi thôi mà!
Tuesday, January 30, 2018
Chuyện ngắn - Cầu An
CẦU AN
Đôi chút tâm sự để mọi người nhất là các bạn trẻ tham khảo..
Nói theo ngôn ngữ tâm linh thời thượng, vừa rồi, tôi có "hạn". Chuyện là thế này:
Sau chuyến đi Hà Giang cuối tháng 9, tôi bị đau mắt. Chỉ qua một buổi tối, hai mắt sưng húp, nhức nhối, nhìn rất khó khăn. Hôm sau đi khám, bên cạnh việc kết luận bị đau mắt đỏ, cho đơn mua thuốc, bác sĩ còn cảnh báo:
- Hai mắt bác thủy tinh thể đều đục, nên xử lý sớm.
Tháng sau, gặp một nguời bạn Trưởng khoa mắt của một bệnh viện, anh khẳng định họ khuyên thế là đúng, nên thay thủy tinh thể nhân tạo sớm vì kỹ thuật đơn giản, tránh để lâu ngày, sau đó xử lý sẽ phức tạp.
Thế là tôi quyết định đi mổ mắt.
Sau vài lần tới bệnh viện làm các loại xét nghiệm, chiếu chụp, siêu âm, ... bác sĩ bảo sang ngồi chờ ở phòng mổ. Phấn khởi vì bao "cửa ải" đã qua, vừa đi được mấy bước thì... ngã. Và cái tay bị gãy. Thế là việc mổ mắt phải tạm hoãn nhường chỗ cho việc bó bột cánh tay.
Nhiều nguời, khi gặp những sự không may thường tìm nguyên nhân từ những lực lượng siêu nhiên qua mấy ông thầy tướng. Con ốm, thầy phán do bà cô Tổ phạt vì cha mẹ trễ nải việc hương khói. Gặp tai nạn giao thông, thầy phán do gặp phải ngày xấu, lại ra khỏi nhà vào giờ xấu, ... nghĩa là những nguyên nhân không thể ai biết được, trừ thầy.
Xem ra trong lịch sử nước Nam ta, khó có ai giỏi hơn được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cả về nho, y, lý, số. Trong đời, cư sĩ am Bạch Vân chắc đã "phán" cả trăm nghìn câu, nhưng cho tới nay, hình như nguời ta chỉ thấy đúng đâu có chưa được dăm câu. Thế mà các thầy tướng số tân thời, phán câu nào được nguời ta tin sái cổ câu ấy (kể cả các vị mang học hàm học vị giáo sư tiến sĩ) thì quả là các bậc cao minh hiếm gặp.
Tôi vốn "văn dốt vũ dát", không đủ trình độ hiểu được cái "huyền bí" của Tạo Hóa nên khi gặp phải sự gì không may, thường trước hết tìm nguyên nhân từ chính bản thân mình. Ngay khi ngồi chờ kết quả chụp phim chuyện gãy tay, tôi đã "tự kiểm điểm" một cách nghiêm khắc bản thân: tôi bị ngã gãy tay vì hôm ấy chân trái đau, lại bước đi hơi vội. Hơn nữa, đôi giày đi hôm ấy chỉ phù hợp với đất vườn (đế giày có đinh cứng, có thể cắm sâu vào đất tránh bị trượt ngã), lại đi trên sàn gạch men láng bóng nên việc bị trượt là điều dễ hiểu. Và (không biết có phải tinh thần AQ hay không), trong cái rủi lại thấy có cái may: ngã ngay trong bệnh viện nên việc cứu chữa rất "tiện lợi", ngã trong bệnh viện chứ không phải trên đường đi chơi bằng xe máy nên không thể bị trách cứ rồi dẫn tới bị "cấm vận"; và sau đó, suốt hàng tháng mang cái tay bó bột lại thấy thêm may vì có cơ hội để phần nào thấm thía với câu tục ngữ (dù đã thuộc từ lâu) "Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay".
Vì "thực sự cầu thị", không trông chờ vào những lực lượng siêu nhiên, những việc tôi tính, tôi làm thường "thông đồng bén giọt".
Không có điều kiện tìm hiểu nhưng qua những điều được chứng kiến cùng kinh nghiệm bản thân, tôi tin vào những hiểu biết mang tính chất "duy vật thô sơ" của mình. Cuộc sống của mỗi nguời do chính bản thân con nguời đó quyết định có được sự hỗ trợ thêm của gia đình, quê hương và nơi, hoàn cảnh sinh sống,... Chẳng nên tin vào một lực lượng thần bí nào.
Tôi biết trong cuộc sống, vẫn có nhiều điều bí ẩn, chưa thể giải thích được đó là do khoa học chưa phát triển chứ không còn tin có những lực lượng thần bí chi phối cuộc sống con người. Chẳng lẽ nguời phương Tây họ ở một thế giới khác ta? Vì sao không cầu cúng, lễ bái như ta, họ vẫn có cuộc sống văn minh, có nhiều thành tựu,... hơn ta. Cho nên, tín ngưỡng là một nét đẹp văn hóa thì nên gìn giữ, đây chính là "bản sắc dân tộc" khiến con người trên Trái đất này có sự đa dạng, phong phú về văn hóa. Thế thôi!
Ngay triết lý "ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác" tôi cũng chỉ nghĩ đó là mơ ước nghìn đời của con người. Mơ ước đó khiến cuộc sống của chúng ta nhân ái, thiện lương hơn nên cần khuyến khích. Thực tế cuộc sống, vô khối nguời hiền lành, nhân đức đã chịu những "tai bay vạ gió", còn những kẻ gian ác, xảo quyệt, thậm chí phạm vào vô khối điều cấm kỵ vẫn sống, thậm chí còn giàu sang phú quý, công danh đàng hoàng.
Với các bậc tiền nhân, tôi cúng giỗ chu đáo là do lòng thành của con cháu với cha ông, một cách tỏ tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" chứ không phải sợ các vị "tác phúc giáng họa". Tôi tử tế với mọi người, không ganh ghét, giành giật, sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai trong phạm vi khả năng của mình chỉ vì từ nhỏ, Ông Bà, Cha Mẹ đã dạy, và một khi nhân hòa với đồng loại, tôi thấy cuộc sống của mình thanh thản hơn chứ không phải để hy vọng gặp may mắn hơn. Tôi không làm điều ác không phải vì sợ "ác giả ác báo" mà vì được dạy nhân hậu, khoan hòa từ bé, không thể làm những điều trái với lương tâm. Thỉnh thoảng, có tham gia những hoạt động từ thiện cũng chỉ vì lòng "thương nguời như thể thương thân" chứ hoàn toàn không nghĩ tới làm thế là để "tích phúc" cho con cháu vì tôi vốn nghĩ chuyện "tích phúc", chẳng qua đó là cách để nguời xưa khuyến khích những hành vi này mà thôi.
Cứ xem hàng năm, nguời ta đi lễ cầu an, chen vai thích cánh nơi chùa chiền, hàng nghìn nguời ngồi lấn ra cả hè, cả đường mà thấy vừa buồn cho ý thức chấp hành luật pháp, vừa buồn vì cái sự thảm hại khi toàn các trai thanh gái lịch, nguời khỏe mạnh sức dài vai rộng, các ông các bà bằng cấp học vị đầy thân, .. không tự mình quyết định cuộc đời mình lại đi trông ngóng, cầu xin ở những đẩu những đâu!
Hãy cầu an bằng cách sinh hoạt điều độ theo đúng cách mà khoa học đã khuyên bảo; cầu an bằng cách đừng rượu bia, cà phê thuốc lá quá mức cho phép; cầu an bằng cách giữ đúng luật giao thông mỗi khi ra đường; cầu an bằng cách cẩn trọng mỗi khi nói năng, hành động; cầu an bằng cách đừng ham hố danh lợi, vừa lòng với cuộc sống đạm bạc về vật chất nhưng phong phú về tinh thần; cầu an bằng cách luôn luôn để trong lòng thanh thản, không phải ăn năn về những lầm lỗi, cũng không phải bị kích động vì những ước muốn viển vông, ...
Còn một khi đã cẩn thận giữ gìn nhưng có gặp "tai bay vạ gió" thì âu cũng coi đó là một trong những sự ngẫu nhiên (có may và có rủi) mà ta có muốn tránh cũng không tránh được.
Nguời xưa đã dạy: "Linh tại ngã, bất linh tại ngã". Đôi chút tâm sự để mọi người nhất là các bạn trẻ tham khảo.
Theo Blog Ông Giáo Làng
Chuyện ngụ ngôn ý nghĩa
Thỏ và ếch
Một lần họ nhà thỏ gặp nhau và khóc than: "Chúng ta chết vì con người, vì lũ chó, vi đại bàng, vì các con thú khác nữa. Thà chết quách một lần cho rồi, hơn là sống mà sợ hải và khổ sở. Ta đâm đầu xuống nước tự tử đi!".
Và chúng chạy ra hồ để tự tử. Thấy động, lũ ếch nhảy tõm xuống nước. Một chú thỏ liền nói: "Các bạn ơi! Ta hãy khoan tự tử, cuộc sớng ếch nhái hẳn còn tồi tệ hơn của chúng ta: chúng sợ hãi cả chúng ta".
Và chúng chạy ra hồ để tự tử. Thấy động, lũ ếch nhảy tõm xuống nước. Một chú thỏ liền nói: "Các bạn ơi! Ta hãy khoan tự tử, cuộc sớng ếch nhái hẳn còn tồi tệ hơn của chúng ta: chúng sợ hãi cả chúng ta".
Phật Giáo Trên Thế Giới
Lâu đài huyền bí của Tây Tạng tại Doon
by Anupma Khanna, The Pioneer
Minh Trí Trần Kim Long chuyển ngữ
Minh Trí Trần Kim Long chuyển ngữ
Dehradun, India -- Mong muốn khám phá lâu đài huyền bí của Tây Tạng, thiết lập hinh ảnh chống đối lại các dãy sắc màu rực rỡ của Himalaya ư? Vâng, đối với tất cả các 'mong muốn nhưng không thể làm' sapiens thấy nó rất khó khăn để thăm viếng vùng Hi Mã Lạp Sơn , Thư viện Songtsen - một bản sao tuyệt vời của các Lakhar Yumbhu, lâu đài đầu tiên của Tây Tạng được xây dựng ở thế kỷ thứ 2 truớc Tây Lịch- hứa hẹn sẽ được một nơi ẩn dật thú vị .
Nhắm vào sự phân biệt nghiêm khắc của nền văn hóa quốc tế Doon, Trung tâm Nghiên cứu Tây Tạng và Hy Mã Lạp Sơn là một loại cơ quan và đã nắm giữ một cái gì đó rất đư ợc tất cả mọi người quan tâm đến: kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật, xe Mercedes cổ điển của Đức Đạt Lai Lạt Ma hoặc bản thảo quý hiếm. Lấy ví dụ, bộ sưu tập tài liệu Huang Dun, các văn bản xưa nhứt về xã hội và lịch sử Tây Tạng. Các bản thảo ban đầu c ó ngày từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 12 và đã được phát hiện tại các hang động khác nhau tr ên con đường tơ lụa nổi tiếng của Trung Á và các vùng lân cân
Sau đó, có Kagyur Phật giáo (tiếng nói của Đức Phật) và Tengyur, bình luận và bộ sưu tập cá nhân và các cuộc hành trình của Ngài Lama Anagarika Govinda, một tu sĩ Phật giáo nổi bật đã đưa Phật giáo tới phương Tây. Sinh ra trong một gia đình Đức,ông định cư trên các ngọn đồi của Kumaon trong Almora vào giữa những năm 80. Ngoài ra cũng được lưu giữ là văn học Nhật Bản, Trung Quốc và văn học Pali. Đối với những người quen với từ trừu tượng, môt thư viện cung cấp hơn 6.000 văn bản của Phật giáo được mua lại từ trung tâm Phật giáo Tây Tạng (Resource Centre), New York ..
Trong sự kiện quan trọng khác, tất cả các trung tâm văn học được thiết lập đễ công thêm một khu vực mới dành riêng cho tác giả từ Dehradun và Mussoorie, bao gồm như của Ruskin Bond, Nayantara Sehgal và RS Tolia. Sự khảo sát mặt đất của nhóm Pioneer cho thấy rằng động thái này đang được hoan nghênh của cộng đồng.
"Tôi dạy ngôn ngữ Tây Tạng trong một trường học Tây Tạng không có hướng dẫn bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa mà chúng ta đang sống, trẻ em cần phải được tiếp xúc với các tài liệu và văn hóa bằng tiếng Anh. Người Tây Tạng không thể ở trong sự tách rời nữa. Nó là tâm của Thư viện Songtsen khi giới thiệu một phần về các tác giả tiếng Anh từ miền thung lũng. Thanh niên của chúng tôi sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ những cuốn sách mới, " Phurbu, cư dân Tây Tạng ở trên đường Sahastradhara đ ã nhận định.
Được đặt theo tên Songtsen Gampo,Pháp Vương của Tây Tạng thứ 33, người đã giới thiệu tôn giáo cho đất nước, sự thành lập thuộc về thời đại Drikung Kagyu của Phật giáo Tây Tạng và đã được khánh thành bởi Đức Dalai Lama XIV vào năm 2003.
Các tác phẩm nghệ thuật đáng chú ý chiếm vị trí bên trong của thư viện - tượng của Quán Thế Âm, Đức Phật của lòng từ bi, tại cửa chính, Thangkas an vị trên trần – đưa ra một kết hợp hấp dẫn của nền văn hóa cũ hàng thế kỷ, đặc biệt là Ba Tư, Tây Tạng và Trung Quốc. Nhưng ngay cả trước khi được nhập vào bầu không khí yên tĩnh, người ta bị sợ hãi bởi quan cảnh đẹp, bao quanh dinh thự giống như một cái nôi. Và trong khi đó, không quên liếc nhìn bàn Benz màu xám được sử dụng bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma 1964-1982. Nó đứng tự hào trong một nhà kính.
Hiệp hội Ấn Độ-Tây Tạng, trong thực tế, trở lại ngày đầu những năm 1900 khi một vài người Tây Tạng đặc biệt tầng lớp thượng lưu di cư đến nước Ấn mở ra cơ hội kinh doanh và cơ quan đại diện thương mại Chính phủ thường xuyên.
Dần dần, khi sự hiện diện của quân đội Trung Quốc ở Tây Tạng tăng lên, khoảng 5.000 người Tây Tạng dời vào Ấn Độ trong những năm tiếp theo. Các cuộc di cư tăng lên giữa năm 1959 và 62 với chuyến bay của nhà lãnh đạo lâm thời và tâm linh của họ, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một tỷ lệ đáng kể các di dân đã định cư ở Himalaya của Ấn Độ Uttarakhand và Himachal Pradesh. Đức Đạt Lai Lạt Ma tạm thời ở trong Mussoorie trước khi chuyển sang Dharmsala.
Trong những thập kỷ sau đó, các nhóm dân tộc sống chủ yếu tách biệt, cô lập trong các khu định cư Tây Tạng để bảo tồn bản sắc và văn hóa độc đáo của họ. Các cộng đồng hầu như không hòa lẫn với thế giới bên ngoài, ngoại trừ về vấn đề tự do cho Tây Tạng. Tuy nhiên, trong một sự khởi đầu rõ ràng trong quá khứ, những năm gần đây đã thấy một mong muốn ngày càng tăng trong số họ và có thích ứng với nền văn hóa khác.
Sự thích nghi đi từ ăn mừng Diwali, Dussehra và Holi đến chia sẻ không gian nhà bếp Punjabi với thupka và momos tại bàn ăn. Nó không còn là lạ khi đi qua một người Tây Tạng trẻ chơi antaakshari trong giờ nhàn rỗi của mình.
Cùng một chứng thật, Gyaltsen, Phúc Lợi Cán bộ Tây Tạng, Dehradun, nói với tờ Tiền Phong, nhiều thập kỷ mà tôi đã bỏ ra với người Tây Tạng trên khắp đất nước, tôi đã nhận thức một mong muốn ngày càng tăng trong cộng đồng là để tương tác với các dân tộc khác. Có nhiều người Tây Tạng cha mẹ muốn gửi con cái của họ cho các trường học Ấn Độ. Ngay cả lễ cưới của người Tây Tạng mặc dù vẫn còn truyền thống đã rõ ràng phản ánh những thay đổi đồng bộ với các nền văn hóa Ấn Độ và phương Tây.
Lễ cưới được tổ chức tại khách sạn, với khách mang theo những món quà gói và thưởng thức bữa ăn tối. Khiêu vũ theo Bollywood là đồng thời với một buổi tối của âm nhạc dân gian Tây Tạng tại các lễ hội. Cũng trở nên nổi bật là đám cưới của người Tây Tạng hiện đại, nơi mà các cặp vợ chồng trao đổi lời thề trong sự hiện diện của một linh mục chính thức người Tây Tạng. Hơn 70% người Tây Tạng ở Ấn Độ hiện đang sống trong các gia đình cá nhân, không giống như văn hóa Tây Tạng truyền thống thích gia đình chung. "
Nhắm vào sự phân biệt nghiêm khắc của nền văn hóa quốc tế Doon, Trung tâm Nghiên cứu Tây Tạng và Hy Mã Lạp Sơn là một loại cơ quan và đã nắm giữ một cái gì đó rất đư ợc tất cả mọi người quan tâm đến: kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật, xe Mercedes cổ điển của Đức Đạt Lai Lạt Ma hoặc bản thảo quý hiếm. Lấy ví dụ, bộ sưu tập tài liệu Huang Dun, các văn bản xưa nhứt về xã hội và lịch sử Tây Tạng. Các bản thảo ban đầu c ó ngày từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 12 và đã được phát hiện tại các hang động khác nhau tr ên con đường tơ lụa nổi tiếng của Trung Á và các vùng lân cân
Sau đó, có Kagyur Phật giáo (tiếng nói của Đức Phật) và Tengyur, bình luận và bộ sưu tập cá nhân và các cuộc hành trình của Ngài Lama Anagarika Govinda, một tu sĩ Phật giáo nổi bật đã đưa Phật giáo tới phương Tây. Sinh ra trong một gia đình Đức,ông định cư trên các ngọn đồi của Kumaon trong Almora vào giữa những năm 80. Ngoài ra cũng được lưu giữ là văn học Nhật Bản, Trung Quốc và văn học Pali. Đối với những người quen với từ trừu tượng, môt thư viện cung cấp hơn 6.000 văn bản của Phật giáo được mua lại từ trung tâm Phật giáo Tây Tạng (Resource Centre), New York ..
Trong sự kiện quan trọng khác, tất cả các trung tâm văn học được thiết lập đễ công thêm một khu vực mới dành riêng cho tác giả từ Dehradun và Mussoorie, bao gồm như của Ruskin Bond, Nayantara Sehgal và RS Tolia. Sự khảo sát mặt đất của nhóm Pioneer cho thấy rằng động thái này đang được hoan nghênh của cộng đồng.
"Tôi dạy ngôn ngữ Tây Tạng trong một trường học Tây Tạng không có hướng dẫn bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa mà chúng ta đang sống, trẻ em cần phải được tiếp xúc với các tài liệu và văn hóa bằng tiếng Anh. Người Tây Tạng không thể ở trong sự tách rời nữa. Nó là tâm của Thư viện Songtsen khi giới thiệu một phần về các tác giả tiếng Anh từ miền thung lũng. Thanh niên của chúng tôi sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ những cuốn sách mới, " Phurbu, cư dân Tây Tạng ở trên đường Sahastradhara đ ã nhận định.
Được đặt theo tên Songtsen Gampo,Pháp Vương của Tây Tạng thứ 33, người đã giới thiệu tôn giáo cho đất nước, sự thành lập thuộc về thời đại Drikung Kagyu của Phật giáo Tây Tạng và đã được khánh thành bởi Đức Dalai Lama XIV vào năm 2003.
Các tác phẩm nghệ thuật đáng chú ý chiếm vị trí bên trong của thư viện - tượng của Quán Thế Âm, Đức Phật của lòng từ bi, tại cửa chính, Thangkas an vị trên trần – đưa ra một kết hợp hấp dẫn của nền văn hóa cũ hàng thế kỷ, đặc biệt là Ba Tư, Tây Tạng và Trung Quốc. Nhưng ngay cả trước khi được nhập vào bầu không khí yên tĩnh, người ta bị sợ hãi bởi quan cảnh đẹp, bao quanh dinh thự giống như một cái nôi. Và trong khi đó, không quên liếc nhìn bàn Benz màu xám được sử dụng bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma 1964-1982. Nó đứng tự hào trong một nhà kính.
Hiệp hội Ấn Độ-Tây Tạng, trong thực tế, trở lại ngày đầu những năm 1900 khi một vài người Tây Tạng đặc biệt tầng lớp thượng lưu di cư đến nước Ấn mở ra cơ hội kinh doanh và cơ quan đại diện thương mại Chính phủ thường xuyên.
Dần dần, khi sự hiện diện của quân đội Trung Quốc ở Tây Tạng tăng lên, khoảng 5.000 người Tây Tạng dời vào Ấn Độ trong những năm tiếp theo. Các cuộc di cư tăng lên giữa năm 1959 và 62 với chuyến bay của nhà lãnh đạo lâm thời và tâm linh của họ, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một tỷ lệ đáng kể các di dân đã định cư ở Himalaya của Ấn Độ Uttarakhand và Himachal Pradesh. Đức Đạt Lai Lạt Ma tạm thời ở trong Mussoorie trước khi chuyển sang Dharmsala.
Trong những thập kỷ sau đó, các nhóm dân tộc sống chủ yếu tách biệt, cô lập trong các khu định cư Tây Tạng để bảo tồn bản sắc và văn hóa độc đáo của họ. Các cộng đồng hầu như không hòa lẫn với thế giới bên ngoài, ngoại trừ về vấn đề tự do cho Tây Tạng. Tuy nhiên, trong một sự khởi đầu rõ ràng trong quá khứ, những năm gần đây đã thấy một mong muốn ngày càng tăng trong số họ và có thích ứng với nền văn hóa khác.
Sự thích nghi đi từ ăn mừng Diwali, Dussehra và Holi đến chia sẻ không gian nhà bếp Punjabi với thupka và momos tại bàn ăn. Nó không còn là lạ khi đi qua một người Tây Tạng trẻ chơi antaakshari trong giờ nhàn rỗi của mình.
Cùng một chứng thật, Gyaltsen, Phúc Lợi Cán bộ Tây Tạng, Dehradun, nói với tờ Tiền Phong, nhiều thập kỷ mà tôi đã bỏ ra với người Tây Tạng trên khắp đất nước, tôi đã nhận thức một mong muốn ngày càng tăng trong cộng đồng là để tương tác với các dân tộc khác. Có nhiều người Tây Tạng cha mẹ muốn gửi con cái của họ cho các trường học Ấn Độ. Ngay cả lễ cưới của người Tây Tạng mặc dù vẫn còn truyền thống đã rõ ràng phản ánh những thay đổi đồng bộ với các nền văn hóa Ấn Độ và phương Tây.
Lễ cưới được tổ chức tại khách sạn, với khách mang theo những món quà gói và thưởng thức bữa ăn tối. Khiêu vũ theo Bollywood là đồng thời với một buổi tối của âm nhạc dân gian Tây Tạng tại các lễ hội. Cũng trở nên nổi bật là đám cưới của người Tây Tạng hiện đại, nơi mà các cặp vợ chồng trao đổi lời thề trong sự hiện diện của một linh mục chính thức người Tây Tạng. Hơn 70% người Tây Tạng ở Ấn Độ hiện đang sống trong các gia đình cá nhân, không giống như văn hóa Tây Tạng truyền thống thích gia đình chung. "
Chuyện cười trong ngày
Nếu Nó Nổ Thì Sao?
Hai cảnh sát đi tuần tra tìm thấy ba trái lựu đạn trên đường phố. Họ quyết định bỏ lên xe đem về đồn. Anh cảnh sát trẻ lo lắng hỏi:
- Lỡ dọc đường nó nổ một trái thì sao đại ca?
Anh cảnh sát già trả lời có vẻ sành đời hơn:
- Chú mày lo gì, nếu nó nổ một trái thì mình về báo cáo là chỉ nhặt được có hai trái thôi, có vậy mà cũng hỏi !
Hai cảnh sát đi tuần tra tìm thấy ba trái lựu đạn trên đường phố. Họ quyết định bỏ lên xe đem về đồn. Anh cảnh sát trẻ lo lắng hỏi:
- Lỡ dọc đường nó nổ một trái thì sao đại ca?
Anh cảnh sát già trả lời có vẻ sành đời hơn:
- Chú mày lo gì, nếu nó nổ một trái thì mình về báo cáo là chỉ nhặt được có hai trái thôi, có vậy mà cũng hỏi !
Monday, January 29, 2018
Chuyện ngắn - Hạnh phúc vô hình
HẠNH PHÚC VÔ HÌNH
Có một phú ông vô cùng giàu có. Hễ thứ gì có thể dùng tiền mua được là ông mua về để hưởng thụ. Tuy nhiên, bản thân ông lại cảm thấy không vui, không hề hạnh phúc.
Một hôm, ông ta nảy ra một ý tưởng kỳ quặc, đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc, châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du. Ông ta quyết định chỉ cần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc thì ông sẽ tặng cả bao của cải cho người đó.
Ông ta đi đến đâu cũng tìm và hỏi, rồi đến một ngôi làng có một người nông dân nói với ông rằng nên đi gặp một vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đi khắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.
Cuối cùng cũng tìm gặp được vị Đại sư đang ngồi thiền, ông ta vui mừng khôn xiết nói với Đại sư: “Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cần ngài nói cho tôi cách nào để được hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài”.
Lúc ấy trời đã tối, màn đêm sắp buông xuống, vị Đại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ qua, vừa khóc vừa gọi đuổi theo: “Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi”.
Sau đó vị Đại sư đã quay lại, trả cái bao lại cho phú ông. Phú ông vừa nhìn thấy cái bao tưởng đã mất quay về thì lập tức ôm nó vào lòng mà nói:
“Tốt quá rồi!”.
Vị Đại sư điềm tĩnh đứng trước mặt ông ta hỏi:
“Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?”
- “Hạnh phúc! Tôi cảm thấy mình quá hạnh phúc rồi!”.
Lúc này, vị Đại sư cười và nói:
“Đây cũng không phải là phương pháp gì đặc biệt, chỉ là con người đối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nó là đương nhiên cho nên không cảm thấy hạnh phúc, cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có quan trọng thế nào chưa? Kỳ thực cái bao ông đang ôm trong lòng với cái bao trước đó là một, bây giờ ông có còn muốn đem tặng nó cho tôi nữa không?”.
Câu chuyện thú vị này đã khiến tôi chợt nhận ra bản thân mình trong đó. Bạn liệu có phát hiện ra rằng, khi mất đi hoặc thiếu thứ gì đó bạn sẽ luôn nhớ về nó, nhưng khi có được rồi thì lại dễ dàng coi nhẹ, thậm chí nhìn mà không thấy nó?
Nếu từng yêu, bạn sẽ hiểu được điều đó. Mối tình đầu…
Đối phương gọi điện hỏi thăm bạn, tặng quà cho bạn đều khiến bạn vui rất lâu. Tuy nhiên, một khi bạn đã xác lập mối quan hệ hoặc kết hôn thì tất cả sẽ biến mất hoặc tất cả đều biến thành điều hiển nhiên. Và khi đó là chuyện đương nhiên, liệu bạn còn trân trọng nó nữa?
Con người luôn quan tâm, hoài niệm thứ đã mất song lại không biết trân trọng những thứ mình đang có, đang sống trong hạnh phúc mà không biết mình hạnh phúc. Có lẽ, đó chính là bất hạnh lớn nhất của con người và cũng là nguyên do khiến hạnh phúc cứ mãi vô hình.
Ông trời cho ta khả năng nhìn thấy thì sẽ sắp xếp cho ta những bài học về sự mất đi, mất đi để có thể nhìn thấy. Nhìn thấy hạnh phúc mình đang nắm giữ.
Một hôm, ông ta nảy ra một ý tưởng kỳ quặc, đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc, châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du. Ông ta quyết định chỉ cần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc thì ông sẽ tặng cả bao của cải cho người đó.
Ông ta đi đến đâu cũng tìm và hỏi, rồi đến một ngôi làng có một người nông dân nói với ông rằng nên đi gặp một vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đi khắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.
Cuối cùng cũng tìm gặp được vị Đại sư đang ngồi thiền, ông ta vui mừng khôn xiết nói với Đại sư: “Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cần ngài nói cho tôi cách nào để được hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài”.
Lúc ấy trời đã tối, màn đêm sắp buông xuống, vị Đại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ qua, vừa khóc vừa gọi đuổi theo: “Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi”.
Sau đó vị Đại sư đã quay lại, trả cái bao lại cho phú ông. Phú ông vừa nhìn thấy cái bao tưởng đã mất quay về thì lập tức ôm nó vào lòng mà nói:
“Tốt quá rồi!”.
Vị Đại sư điềm tĩnh đứng trước mặt ông ta hỏi:
“Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?”
- “Hạnh phúc! Tôi cảm thấy mình quá hạnh phúc rồi!”.
Lúc này, vị Đại sư cười và nói:
“Đây cũng không phải là phương pháp gì đặc biệt, chỉ là con người đối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nó là đương nhiên cho nên không cảm thấy hạnh phúc, cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có quan trọng thế nào chưa? Kỳ thực cái bao ông đang ôm trong lòng với cái bao trước đó là một, bây giờ ông có còn muốn đem tặng nó cho tôi nữa không?”.
Câu chuyện thú vị này đã khiến tôi chợt nhận ra bản thân mình trong đó. Bạn liệu có phát hiện ra rằng, khi mất đi hoặc thiếu thứ gì đó bạn sẽ luôn nhớ về nó, nhưng khi có được rồi thì lại dễ dàng coi nhẹ, thậm chí nhìn mà không thấy nó?
Nếu từng yêu, bạn sẽ hiểu được điều đó. Mối tình đầu…
Đối phương gọi điện hỏi thăm bạn, tặng quà cho bạn đều khiến bạn vui rất lâu. Tuy nhiên, một khi bạn đã xác lập mối quan hệ hoặc kết hôn thì tất cả sẽ biến mất hoặc tất cả đều biến thành điều hiển nhiên. Và khi đó là chuyện đương nhiên, liệu bạn còn trân trọng nó nữa?
Con người luôn quan tâm, hoài niệm thứ đã mất song lại không biết trân trọng những thứ mình đang có, đang sống trong hạnh phúc mà không biết mình hạnh phúc. Có lẽ, đó chính là bất hạnh lớn nhất của con người và cũng là nguyên do khiến hạnh phúc cứ mãi vô hình.
Ông trời cho ta khả năng nhìn thấy thì sẽ sắp xếp cho ta những bài học về sự mất đi, mất đi để có thể nhìn thấy. Nhìn thấy hạnh phúc mình đang nắm giữ.
Chuyện ngụ ngôn ý nghĩa
Người làm vườn và các con trai
Nhười làm vườn muốn dạy nghề mình cho các con trai. Khi ông sắp qua đời, ông gọi họ tới và bảo:
- Thế nầy các con nhé, khi nào bố chết, các con hãy tìm kỷ cái vật giấu trong vườn trồng nho.
Các con tưởng rằng ở đó có kho báu nên khi ông bố chết, họ đi đào bới xới lộn tất cả đất cả đất cát ở đấy lên. Họ không tìm thấy gì cả nhưng đất ở khu vườn nho được xới trộn rất kỹ nho ra quá nhiều gấp bội. Thế là họ trở nên giàu có.
- Thế nầy các con nhé, khi nào bố chết, các con hãy tìm kỷ cái vật giấu trong vườn trồng nho.
Các con tưởng rằng ở đó có kho báu nên khi ông bố chết, họ đi đào bới xới lộn tất cả đất cả đất cát ở đấy lên. Họ không tìm thấy gì cả nhưng đất ở khu vườn nho được xới trộn rất kỹ nho ra quá nhiều gấp bội. Thế là họ trở nên giàu có.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Tri Âm
Xưa ở Trung Hoa có hai người bạn. Một người chơi đàn tì bà rất điêu luyện và một người nghe đàn rất sành điệu.
Khi người chơi đàn hay có ý diễn tả về núi cao, người kia bảo : “ Tôi thấy núi trước mặt chúng ta.”
Khi người kia đàn có ý diễ tả về nước, người kia kêu lên : “Ðây là dòng nước đang chảy !”
Nhưng chẳng bao lâu ngã bệnh rồi chết. Người chơi đàn cắt đưt dây đàn và không bao giờ chơi đàn nữa. Vì thế từ đó, sự cắt đứt dây đàn tỳ bà là dấu hiệu của tình bạn tri âm.
Tích Bá Nha , Tử Kỳ
Khi người chơi đàn hay có ý diễn tả về núi cao, người kia bảo : “ Tôi thấy núi trước mặt chúng ta.”
Khi người kia đàn có ý diễ tả về nước, người kia kêu lên : “Ðây là dòng nước đang chảy !”
Nhưng chẳng bao lâu ngã bệnh rồi chết. Người chơi đàn cắt đưt dây đàn và không bao giờ chơi đàn nữa. Vì thế từ đó, sự cắt đứt dây đàn tỳ bà là dấu hiệu của tình bạn tri âm.
Tích Bá Nha , Tử Kỳ
Điển Hay Tích Lạ
Hậu sinh khả úy
Từ "Hậu sinh" ở đây là chỉ lớp người trẻ , hay thanh thiếu niên. Còn chữ "Úy" có nghĩa là kính phục. "Hậu sinh khả úy" có nghĩa là lớp trẻ có thể vượt xa cha ông của họ, đáng được tôn trọng. Khen ngợi lớp người trẻ thông minh, siêng năng, tương lai sáng sủa .
Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Luận ngữ - Tử hãn".
Khổng Tử đang trên đường đi du lịch thì gặp ba đứa trẻ, trong đó hai đứa đùa nghịch với nhau rất thỏa thích, còn đứa kia chỉ lặng im đứng xem. Khổng Tử thấy lạ mới hỏi tại sao lại không cùng chơi với các bạn.
Đứa trẻ điềm nhiên nói: " Đánh vật nhau quyết liệt rất dễ phương hại đến sinh mạng con người, còn cứ lôi kéo xô đẩy nhau thì rất dễ bị thương, dù chỉ kéo rách áo quần thôi, thì cũng chẳng có lợi gì cho cả hai bên, nên cháu không muốn chơi với chúng nó".
Một lúc sau, đứa trẻ này dùng đất đắp thành một ngôi thành lũy ngay giữa đường, rồi vào ngồi trong đó. Xe Khổng Tử không thể đi được mới hỏi tại sao lại không nhường lối cho xe đi. Đứa trẻ đáp: "Cháu nghe người ta nói xe phải vòng qua thành mà đi, chứ làm gì có thành lũy lại nhường lối cho xe đi bao giờ".
Khổng Tử nghe vậy rất kinh ngạc, cảm thấy đứa trẻ này người tuy còn nhỏ nhưng rất ranh mãnh, mới nói rằng: "Cháu tuy nhỏ mà hiểu biết thật không ít ".
Đứa trẻ đáp rằng: "Cháu nghe nói, cá con sinh ra được ba ngày đã biết bơi, thỏ con sinh ra được ba ngày đã biết chạy, ngựa con sinh ra được ba ngày đã biết đi theo mẹ, đây là việc rất bình thường chứ có gì lạ đâu ".
Khổng Tử nghe xong bèn than rằng: "Hậu sinh khả úy, lớp trẻ thời nay thật là ghê gớm".
Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ " Hậu sinh khả úy" để khen ngợi lớp trẻ vượt xa cha ông của mình, là điều đáng quý; Khen ngợi thanh thiếu niên thông minh, chăm chỉ, tương lai sáng sủa.
Chuyện cười trong ngày
Lý Do
Cô giáo thu bài tập làm văn đề tài: "Tả con heo nhà em." Tèo đứng lên xin cô cho khất đến cuối tuần, cô hỏi:
- Sao em chưa làm bài văn xong?
- Dạ... vì bố em đi công tác chưa về.
- À! Chắc là muốn nhờ bố làm hộ bài chứ gì?
- Không đâu cô, chẳng qua em muốn tả con heo nhà em cho thật chính xác. Em đã nhảy vào chuồng heo và đã đo được chiều dài của nó. Còn cân nặng bao nhiêu thì phải chờ bố em về rồi bắt trói khiêng lên cân thì mới biết được ạ.
Cô giáo: !!!!
Cô giáo thu bài tập làm văn đề tài: "Tả con heo nhà em." Tèo đứng lên xin cô cho khất đến cuối tuần, cô hỏi:
- Sao em chưa làm bài văn xong?
- Dạ... vì bố em đi công tác chưa về.
- À! Chắc là muốn nhờ bố làm hộ bài chứ gì?
- Không đâu cô, chẳng qua em muốn tả con heo nhà em cho thật chính xác. Em đã nhảy vào chuồng heo và đã đo được chiều dài của nó. Còn cân nặng bao nhiêu thì phải chờ bố em về rồi bắt trói khiêng lên cân thì mới biết được ạ.
Cô giáo: !!!!
Saturday, January 27, 2018
Chuyện ngắn - Người mẹ điên
Người mẹ điên
Tác giả: Vô Danh
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng. Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền.
Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.
Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói:
- "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!".
Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con. Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên:
- "Ðưa, đưa tôi..."
Bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi:
- "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao biêt được mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!".
Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm. Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Ðặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.
Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo:
- "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?".
Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán:
- "Ðừng... đừng...".
Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét:
- "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?".
Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài.
Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói:
- "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!".
Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi:
- "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!".
Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa. Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới biết được, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi:
- Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi".
Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống.
Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo:
- "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!"
Tôi mừng quá, đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Ðây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.
Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám chúng tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo:
- "Thụ... bóng... bóng...".
Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to:
- "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!".
Tôi tức tối đáp lại nó:
- "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!"
Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.
Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.
Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa:
- "Con mẹ điên, lúa và cỏ mà không phân biệt được..."
Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi:
- "Ðánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..."
Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Ðừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo:
- "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...".
Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo:
- "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!"
Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật. Là bà… Bà trừng mắt bảo tôi:
- "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Ðấy là mẹ mày đấy!"
Tôi vùng vằng bĩu môi:
-"Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!".
- "A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!".
Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt:
- "Ðánh tôi, đánh tôi!".
Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm:
- "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!"…
Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa. Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi:
"Thụ... ô...".
Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.
Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.
Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.
Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn.
Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về.
Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Ðây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói:
- "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra".
Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu.
Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Ðám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết.
- "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!".
Cha lại nhìn tôi nói:
- "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!".
Tôi gật đầu, tôi hiểu…
Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.
Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.
27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: - "Ngọt quá, ở đâu ra?"
Mẹ nói: - "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ:
- "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.
Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói:
- "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!"
Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi:
- "Mẹ mày có nói gì không?"
Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:
- "Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!"
Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Ðường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói:
- "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!"
Tôi nói:
- "Thím, thím đừng doạ cháu...".
Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...
Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi:
- "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..."
Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.
Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Ðại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi.
Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ:
- "MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!".
Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.
Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói:
- "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!".
Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con. Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên:
- "Ðưa, đưa tôi..."
Bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi:
- "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao biêt được mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!".
Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm. Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Ðặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.
Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo:
- "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?".
Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán:
- "Ðừng... đừng...".
Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét:
- "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?".
Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài.
Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói:
- "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!".
Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi:
- "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!".
Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa. Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới biết được, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi:
- Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi".
Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống.
Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo:
- "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!"
Tôi mừng quá, đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Ðây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.
Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám chúng tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo:
- "Thụ... bóng... bóng...".
Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to:
- "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!".
Tôi tức tối đáp lại nó:
- "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!"
Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.
Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.
Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa:
- "Con mẹ điên, lúa và cỏ mà không phân biệt được..."
Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi:
- "Ðánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..."
Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Ðừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo:
- "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...".
Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo:
- "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!"
Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật. Là bà… Bà trừng mắt bảo tôi:
- "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Ðấy là mẹ mày đấy!"
Tôi vùng vằng bĩu môi:
-"Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!".
- "A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!".
Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt:
- "Ðánh tôi, đánh tôi!".
Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm:
- "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!"…
Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa. Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi:
"Thụ... ô...".
Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.
Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.
Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.
Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn.
Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về.
Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Ðây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói:
- "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra".
Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu.
Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Ðám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết.
- "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!".
Cha lại nhìn tôi nói:
- "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!".
Tôi gật đầu, tôi hiểu…
Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.
Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.
27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: - "Ngọt quá, ở đâu ra?"
Mẹ nói: - "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ:
- "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.
Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói:
- "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!"
Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi:
- "Mẹ mày có nói gì không?"
Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:
- "Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!"
Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Ðường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói:
- "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!"
Tôi nói:
- "Thím, thím đừng doạ cháu...".
Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...
Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi:
- "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..."
Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.
Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Ðại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi.
Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ:
- "MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!".
Chuyện ngụ ngôn ý nghĩa
Chuột đồng và chuột nhà
Một mụ chuột nhà bệ vệ từ thành phố ra thăm chuột đồng. Chuột đồng sống ở ngoài ruộng, nên có gì đem hết ra thết đãi bà khách: đỗ và lúc mì. Mụ chuột bệ vệ chuyện trò:
- Cô gầy còm vì nghèo khổ, cô đến chơi tôi mà xem chúng tôi sống ra sao.
Và chuột đồng đi chơi. Khi người nhà ăn xong đã bỏ đi, mụ chuột nhà bệ vệ liền dẫn khách từ khe hở vào phòng, và cả hai leo lên bàn. Chuột đồng chưa bao giờ thấy đầy đủ thức ăn như vậy. Nó mới bảo:
- Chị nói đúng thật, cuộc sống của chúng tôi quả là tồi. Rồi tôi cũng phải chuyển ra sống ở thành phố thôi.
Thình lình, một người bước vào cửa và bắt đầu săn bắt chuột. Chủ khách nhà chuột phải vất vả mới chuồn được vào khe hở.
- Không, chuột đồng lại nói, - cuộc sống của tôi ngoài đồng ruộng sướng hơn nhiều. Dù rằng món ăn ngon ngọt tôi không có, nhưng tôi lại không phải sợ hãi đến nhường này.
- Cô gầy còm vì nghèo khổ, cô đến chơi tôi mà xem chúng tôi sống ra sao.
Và chuột đồng đi chơi. Khi người nhà ăn xong đã bỏ đi, mụ chuột nhà bệ vệ liền dẫn khách từ khe hở vào phòng, và cả hai leo lên bàn. Chuột đồng chưa bao giờ thấy đầy đủ thức ăn như vậy. Nó mới bảo:
- Chị nói đúng thật, cuộc sống của chúng tôi quả là tồi. Rồi tôi cũng phải chuyển ra sống ở thành phố thôi.
Thình lình, một người bước vào cửa và bắt đầu săn bắt chuột. Chủ khách nhà chuột phải vất vả mới chuồn được vào khe hở.
- Không, chuột đồng lại nói, - cuộc sống của tôi ngoài đồng ruộng sướng hơn nhiều. Dù rằng món ăn ngon ngọt tôi không có, nhưng tôi lại không phải sợ hãi đến nhường này.
Tri Kiến, Giác Ngộ, Minh Triết cho đời sống
MƯA QUA RÊU XANH MƯỚT
Nhà thơ Hài Cú danh tiếng Ba Tiêu (Bash) đã bao lần đến tham thiền với Hòa Thượng Phật Đảnh (Buccho) ở Căn Bổn Tự thuộc vùng Lộc Đảo (Kashima). Nhân một ngày trời tạnh mưa xuân, Hòa Thượng tự mình đích thân đến thăm am Ba Tiêu ở vùng Thâm Xuyên (Fukaqawa), Giang Hộ (Edo). Ba Tiêu mừng quýnh chạy ra nghênh đón. Khi vừa mới giáp mặt nhau, Hòa Thượng muốn biết xem Ba Tiêu có chuyện gì bèn hỏi ngay:
- Gần đây có gì không?
- Mưa qua rêu xanh mướt. Ba Tiêu đáp liền.
Nếu như con mắt tâm mà khai mở thì chân như thật tướng (as-it-is-ness) hiển hiện ngay. Chính cảm giác mới mẻ như "mưa qua rêu xanh mướt" không có gì hơn con mắt giác ngộ. Tuy nhiên, Hòa Thượng không dễ gì mà tha cho ngay, bèn tấn công tiếp rằng
- Như thế nào là Phật pháp trước khi rêu xanh chưa sanh ra ?
Có phải chăng đây cũng là diệu nghĩa của "ngọc Côn Lôn đen thui chạy trong đêm" chăng?
Song, quả không hổ danh là Ba Tiêu, người không bị rơi vào động ma tối om như vậy. Ông trả lời.
- Ếch nhảy, tiếng nước vang.
Thật quả là khoảnh khắc khai nhân tài tình
- Gần đây có gì không?
- Mưa qua rêu xanh mướt. Ba Tiêu đáp liền.
Nếu như con mắt tâm mà khai mở thì chân như thật tướng (as-it-is-ness) hiển hiện ngay. Chính cảm giác mới mẻ như "mưa qua rêu xanh mướt" không có gì hơn con mắt giác ngộ. Tuy nhiên, Hòa Thượng không dễ gì mà tha cho ngay, bèn tấn công tiếp rằng
- Như thế nào là Phật pháp trước khi rêu xanh chưa sanh ra ?
Có phải chăng đây cũng là diệu nghĩa của "ngọc Côn Lôn đen thui chạy trong đêm" chăng?
Song, quả không hổ danh là Ba Tiêu, người không bị rơi vào động ma tối om như vậy. Ông trả lời.
- Ếch nhảy, tiếng nước vang.
Thật quả là khoảnh khắc khai nhân tài tình
Cổ Học Tinh Hoa
Đánh dấu thuyền tìm gươm
Có người nước Sở đi đò qua sông. Khi ngồi đò, vô ý, đánh rơi thanh gươm xuống sông. Anh ta vội vàng đánh dấu vào mạn thuyền, nói rằng: "Gươm ta rơi ở chỗ nầy đây".
Lúc thuyền đỗ vào bến, anh ta cứ theo chỗ đánh dấu, lặn xuống nước tìm gươm. Thuyền đã đi đến bến, chớ gươm rơi đâu thì vẫn ở đấy, có theo thuyền mà đi đâu? Tìm gươm như thế, chẳng khờ dại lắm ư!
Lời Bàn:
Thanh gươm rơi xuống sông, thì ở ngay chỗ rơi. Nếu muốn tìm thấy gươm, tất phải lặn ngay xuống chỗ rơi mà tìm. Chớ sao lại đánh dấu vào thuyền, đợi đến lúc thuyền đỗ vào bến, mới lặn xuống bến tìm? Người tìm gươm nầy có khác nào như người đánh đàn sắt đem gắn cả ngựa lại, tưởng ngựa không di dịch được là các âm vận tự nhiên điều hòa được đúng! Than ôi! người cố chấp bất thông, chỉ câu nệ biết giữ chặt một cái đã nắm chặt trong tay, chớ không hiểu nghĩa chờ "thời" là gì?
Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn vàng".
Sở: một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
Thanh gươm: tục xưa người ta đi đâu cũng hay đeo gươm để thủ thân mà lại giữ lễ nữa.
Chuyện cười trong ngày
Lịch Sự
Một nhà chuyên nghiên cứu về cách ứng xử giao tiếp, ông tới nói chuyện với đám học sinh nam:
- Các bạn hãy nhớ rằng, khi đến phòng bạn gái chơi mà thấy cửa đóng, thì bao giờ cũng phải gõ cửa. Đó là biểu hiện của phép lịch sự.
Một sinh viên bỗng hỏi:
- Thế còn khi cửa mở thì sao?
- Thì đóng cửa lại mà gõ!
Một nhà chuyên nghiên cứu về cách ứng xử giao tiếp, ông tới nói chuyện với đám học sinh nam:
- Các bạn hãy nhớ rằng, khi đến phòng bạn gái chơi mà thấy cửa đóng, thì bao giờ cũng phải gõ cửa. Đó là biểu hiện của phép lịch sự.
Một sinh viên bỗng hỏi:
- Thế còn khi cửa mở thì sao?
- Thì đóng cửa lại mà gõ!
Friday, January 26, 2018
Chuyện ngắn - Bệnh sởi
Bệnh sởi
Lớp học của Sam càng ngày càng có thêm nhiều chổ trống vì dịch sởi đang lan tràn ở Hannibal. Các phụ huynh thậm chí đã bàn đến chuyện cho con cái mình nghỉ học vì sợ lây bệnh. Không khí lớp ngày một u ám.
Sáng hôm ấy đến lớp, Sam càng rầu rĩ hơn khi phát hiện ra cậu bạn thân Will Bowen đã phải nghỉ vì lên sởi. Sau một hồi suy nghĩ rất lung, Sam nảy ra một sáng kiến…Cả buổi học Sam cứ bồn chồn không yên, cậu chỉ mong chuông reo mau lên để cậu thực hiện ý định của mình. Mãi rồi cũng đến lúc tan học, Sam lao đến nhà Will, cố chuồn vào phòng bạn một cách êm thấm nhất. Nhưng mẹ Will vẫn kịp nhận ra sự có mặt của chú chuột nhóc này:
- Sam, cháu về nhà ngay không bị lây bệnh sởi bây giờ!
Sam lí nhí “ Vâng ạ! ” nhưng sau đó lại tuồn ra cửa sau và rón rén vào phòng Will. Chẳng để cho cậu bạn có cơ hội phản ứng, cậu chui tọt vào chăn với Will, thì thào:
- Will, lây cho tớ nhé! Nhất định là phải lây cho tớ đấy!
“ Đề nghị” của Sam đã được đáp ứng. Hai tuần sau, Will khỏi bệnh, lại lén lút đến thăm Sam. Thấy bạn nằm li bì trên giường, Will quạy quọ:
- Sao cậu ngốc thế. Lúc đó mà tớ đủ sức, tớ sẽ nện cho cậu một trận và tống ra khỏi nhà ngay.
Sam cười, rồi khuôn mặt lấm tấm những nốt đỏ của cậu đột nhiên nghiêm nghị như ông cụ non:
- Thế cậu nghĩ là tớ chịu để cậu ốm một mình à... Lây cho tớ rồi thì rõ ràng là cậu sẽ khỏi nhanh hơn. Bạn bè là phải chia sẻ chứ!
- Nhưng… - Will bất lực với sự bướng bỉnh của cậu bạn.
Sam nháy mắt, toét miệng cười, thì thào:
- Yên tâm đi! Tớ sẽ lây bệnh cho một người bạn khác nhưng cậu ta sẽ khỏi ngay thôi mà!
- Ai vậy? – Will hồi hộp.
Sam lật chăn lên. Một chú gấu bông đang say ngủ.
Nhóc Sam ngày ấy, sau này đã trở thành một con người nổi tiếng thế giới với những trang viết thắm đượm tình yêu thương con người. Đó chính là đại văn hào Mỹ Sam Clemes – Mark Twain.
Ngọc Anh dịch.
Chuyện ngụ ngôn ý nghĩa
Người bán tượng
Một người nọ làm tượng thần Hermes bằng gỗ và đem ra chợ bán. Không một ai đến hỏi mua cả. Lúc đấy, để thu hút sự chú ý của bất cứ ai, anh ta bèn rao bán tượng thần, đấng ban phước và bảo vệ phước lộc cho người.
Một người qua đường hỏi anh ta:
- Anh bạn thân mến ạ, việc gì anh lại bán đi một bức tượng như thế, cứ việc giữ nó để dùng có phải hơn không?
Người bán tượng đáp:
- Tôi rất cần phước lộc của thần nhưng thần thường đem lợi lộc đến quá chậm!
Tri Kiến, Giác Ngộ, Minh Triết cho đời sống
ÂM THANH CỦA HẠNH PHÚC
Sau khi Bankei viên tịch, một người mù sống bên cạnh ngôi chùa của thiền sư kể với người bạn: "Từ khi tôi mù, tôi không thể nào nhìn thấy được mặt người, cho nên tôi phải đoán tâm tánh của người qua thanh âm tiếng nói của người đó. Thông thường khi tôi nghe thấy ai chúc mừng người khác được hạnh phúc hay thành công, tôi cũng nghe được một giọng ganh tị thầm kín. Khi nghe lời chia buồn với điều bất hạnh của người khác, tôi nghe có sự hài lòng và thỏa mãn, như là người đang chia buồn nhưng thật ra là sung sướng vì có gì đó còn lại để kiếm được trong thế giới của ông ta.
"Với tất cả kinh nghiệm của tôi, tuy nhiên, giọng nói của Bankei luôn luôn chân thành. hễ khi nào ông bầy tỏ sự vui sướng, tôi chỉ nghe thấy giọng vui thôi, và mỗi khi ông phiền muộn, tôi chỉ nghe thấy một giọng phiền muộn."
"Với tất cả kinh nghiệm của tôi, tuy nhiên, giọng nói của Bankei luôn luôn chân thành. hễ khi nào ông bầy tỏ sự vui sướng, tôi chỉ nghe thấy giọng vui thôi, và mỗi khi ông phiền muộn, tôi chỉ nghe thấy một giọng phiền muộn."
Điển Hay Tích Lạ
Hậu sinh khả úy
Từ "Hậu sinh" ở đây là chỉ lớp người trẻ , hay thanh thiếu niên. Còn chữ "Úy" có nghĩa là kính phục. "Hậu sinh khả úy" có nghĩa là lớp trẻ có thể vượt xa cha ông của họ, đáng được tôn trọng. Khen ngợi lớp người trẻ thông minh, siêng năng, tương lai sáng sủa .
Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Luận ngữ - Tử hãn".
Khổng Tử đang trên đường đi du lịch thì gặp ba đứa trẻ, trong đó hai đứa đùa nghịch với nhau rất thỏa thích, còn đứa kia chỉ lặng im đứng xem. Khổng Tử thấy lạ mới hỏi tại sao lại không cùng chơi với các bạn.
Đứa trẻ điềm nhiên nói: " Đánh vật nhau quyết liệt rất dễ phương hại đến sinh mạng con người, còn cứ lôi kéo xô đẩy nhau thì rất dễ bị thương, dù chỉ kéo rách áo quần thôi, thì cũng chẳng có lợi gì cho cả hai bên, nên cháu không muốn chơi với chúng nó".
Một lúc sau, đứa trẻ này dùng đất đắp thành một ngôi thành lũy ngay giữa đường, rồi vào ngồi trong đó. Xe Khổng Tử không thể đi được mới hỏi tại sao lại không nhường lối cho xe đi. Đứa trẻ đáp: "Cháu nghe người ta nói xe phải vòng qua thành mà đi, chứ làm gì có thành lũy lại nhường lối cho xe đi bao giờ".
Khổng Tử nghe vậy rất kinh ngạc, cảm thấy đứa trẻ này người tuy còn nhỏ nhưng rất ranh mãnh, mới nói rằng: "Cháu tuy nhỏ mà hiểu biết thật không ít ".
Đứa trẻ đáp rằng: "Cháu nghe nói, cá con sinh ra được ba ngày đã biết bơi, thỏ con sinh ra được ba ngày đã biết chạy, ngựa con sinh ra được ba ngày đã biết đi theo mẹ, đây là việc rất bình thường chứ có gì lạ đâu ".
Khổng Tử nghe xong bèn than rằng: "Hậu sinh khả úy, lớp trẻ thời nay thật là ghê gớm".
Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ " Hậu sinh khả úy" để khen ngợi lớp trẻ vượt xa cha ông của mình, là điều đáng quý; Khen ngợi thanh thiếu niên thông minh, chăm chỉ, tương lai sáng sủa.
Chuyện cười trong ngày
Làm Thầy, Làm Trò
Trong lớp học Việt Ngữ, thầy giáo giảng bài về công ơn thầy cô. Thầy hỏi cả lớp: "Các em cho thầy biết một câu ca dao về người Thầy."
Lớp im lặng.
Thầy gợi ý: Câu này có hai chữ "Mày" và "Nên." Các em cố lên nào.
Lớp im lặng.
Thầy lại gợi ý: Câu này có cả hai chữ "Không" và "Ðố." Ráng lên mấy em.
Lớp vẫn tiếp tục im lặng.
Thầy giáo bực mình: Câu này có sáu chữ, có cả hai chữ "Thầy" và "Làm." Ðó là câu gì?
Cuối lớp, một cánh tay rụt rè đưa lên: Thưa thầy em biết.
Thầy giáo: Giỏi lắm, thế em biết câu đó là câu gì?
- Thưa thầy, câu đó là "Làm Thầy Mày Không Nên Ðố."
Thầy giáo: ?!..?!
Trong lớp học Việt Ngữ, thầy giáo giảng bài về công ơn thầy cô. Thầy hỏi cả lớp: "Các em cho thầy biết một câu ca dao về người Thầy."
Lớp im lặng.
Thầy gợi ý: Câu này có hai chữ "Mày" và "Nên." Các em cố lên nào.
Lớp im lặng.
Thầy lại gợi ý: Câu này có cả hai chữ "Không" và "Ðố." Ráng lên mấy em.
Lớp vẫn tiếp tục im lặng.
Thầy giáo bực mình: Câu này có sáu chữ, có cả hai chữ "Thầy" và "Làm." Ðó là câu gì?
Cuối lớp, một cánh tay rụt rè đưa lên: Thưa thầy em biết.
Thầy giáo: Giỏi lắm, thế em biết câu đó là câu gì?
- Thưa thầy, câu đó là "Làm Thầy Mày Không Nên Ðố."
Thầy giáo: ?!..?!
Thursday, January 25, 2018
Chuyện ngắn - Bầu trời nức nở
Bầu trời nức nở
- Cái gì ở ngoài đường thế kia? - Chị vợ Manhia hỏi chồng.
Nhà văn Ackhiđây Môtưga nhìn qua cửa sổ một lúc, suy nghĩ một lúc rồi quay vào nói với vợ:
- Bầu trời đang nức nở khóc than. Qua màn lệ trong suốt như một làn khói nhẹ, tôi trông thấy toàn cảnh thành phố chúng ta đang đắm chìm trong mưa.
- Anh lẩm bẩm cái gì mà dài dòng vậy! Chị Manhia sốt ruột ngắt lời chồng – Thà rằng anh cứ nói đơn giản là trời đang mưa có hơn không.
- Em chẳng hiểu gì cả - Môtưga phản đối – Anh là nhà văn, anh phải suy nghĩ bằng hình ảnh, và anh không thể nói khác được.
- Còn em thì yêu cầu anh hãy nói như một con người. Anh hãy ra ngoài bao lơn và gọi thằng Aliôsa về nhà đi.
Môtưga im lặng bước ra ngoài bao lơn và kêu to khắp cả sân với một vẻ thống thiết:
- Hỡi tuổi thơ yêu dấu của ta! Con trai Aliôsa của ta. Ta kêu gọi con hãy làm trọn nghĩa vụ của mình. Con yêu quý, hãy hưởng ứng lời kêu gọi. Hãy tạm rời bỏ những thú vui với bạn bè của mình.
Tối hôm đó, chị Manhia bắt chồng ngồi vào bàn và đọc cho anh ghi những công việc làm gấp ở nhà trong ngày mai. Bản kê công việc được ghi khá dài và công việc thì không lấy gì làm hứng thú, cho nên Môtưga có vẻ buồn rầu.
Nhưng buổi sáng hôm sau, số phận cứu anh: Anh được mời đi họp gấp ở ban biên tập tạp chí Bơrưs, cơ quan ngôn luận của những người chơi mèo Xiêm.
Môtưga thuyết phục vợ một cách hùng hồn và tha thiết:
- Manhia, em yêu quý! Anh là uỷ viên ban biên tập Bơrưs bị đe dọa không ra khơi được vào lúc này, lúc này 67 người đặt mua dài hạn đang đỏ mắt trông chờ báo ra, đó là chưa kể hơn bốn mươi số sẽ đưa bán lẻ...
Nói thêm ít lời nữa về trách nhiệm của những người sống đối với các sinh vật sống, Môtưga vội vã ra đi. Còn vợ và mẹ anh bắt đầu nghiên cứu xem những công việc nội trợ cần làm đã được ghi trong bản kê của anh.
Thế này nhé - mẹ anh đọc - điểm thứ nhất : "Hãy dùng hành động nhẹ nhàng để xua tan bóng tối, xua tan màn đêm bằng ánh nắng chói chang...". Cái gì thế này? Xua bóng tối? Có thể là con nhờ nó lau cửa sổ à?
- Đừng hòng mà nhờ nhà con việc ấy. Không mẹ ạ, chuyện này đơn giản nhiều: có nghĩa là anh ấy phải thay hộ con cái bóng đèn bị cháy trong bếp.
- Tinh thật! Bây giờ đến điểm thứ hai: "Ôi, những âm thanh lạc lõng chán chường đã phá tan điệu nhạc tuyệt vời của những giấc mơ kỳ diệu. Ta phải bay lên mà chấm dứt cung đàn ngang trái!"
Chị Manhia khoát tay giải thích:
- Trời đất, viết lách cái gì đến kỳ! Đã mấy lần con nhờ anh ấy lên tầng trên đề nghị ông láng giềng đừng có mà phập phình cái đàn Balalaica sau mười một giờ đêm để cho hàng xóm ngủ chứ. Thôi để lát nữa con phải lên gặp ông "Môda" ấy mới được. Thế còn việc gì nữa?
- Càng ngày càng khó hiểu... – Bà mẹ nhăn nhó bóp trán suy nghĩ "... Ta phải đem về nhà màu trắng trinh bạch của tuyết, vị thơm trong sạch của bông và màu thiên thanh của trời hè!". Nghe đây, Manhia! Mẹ lo cho sức khỏe chồng con đấy. Sao nó lại lẩn thẩn giữa tháng sáu mà đòi mang tuyết về nhà là thế nào?
- Ôi mẹ ơi, điều này rõ rồi – Manhia mỉm cười vẻ tự hào vì đã có kinh nghiệm - Tức là anh ấy muốn nói đến quần áo và đệm trắng mà con nhờ anh ấy đi lấy ở xưởng giặt về. Thật là con có tỏ ý lo ngại chỉ sợ họ quá ta hồ lơ, lại thành màu thiên thanh thì khổ.
Hai ngày sau, khi đang lúi húi trong bếp, tình cờ chị Manhia nghe lỏm được câu chuyện điện thoại sau đây của chồng mình với nhà xuất bản:
- "... Quỷ tha ma bắt các anh! – Môtưga nói to tiếng – Các anh định trả tôi có một trăm rúp cho một trang tác giả, trong khi nhà xuất bản keo kiệt nhất cũng đã trả tôi nhiều hơn một trăm rúp rồi. Nếu thế thì xin đủ, tôi không bằng lòng đâu. Các anh hãy tìm những thằng ngốc khác trên cánh đồng kỳ diệu!".
Manhia lấy chiếc khăn mặt che mồm, và những giọt lệ sung sướng lăn trên gò má ửng hồng của chị. Chị âu yếm nghĩ: "Anh Môtưga yêu quý, thế là anh cũng biết nói như người thường chứ không phải chỉ bằng hình ảnh".
Và lần đầu tiên từ nửa năm nay, chị đã cho mặn muối làm hỏng mất soong súp bắp cải.
Truyện hài hước Nga
Subscribe to:
Posts (Atom)