Tuesday, June 30, 2015
Bài sưu tầm - Điều đáng sợ nhất
Điều đáng sợ nhất
“ Điều đáng sợ nhất trong cuộc sống không phải là cái chết, mà bị lãng quên… bị xem như là hạt bụi sau những hào quang rực rỡ…
… là khi người bạn yêu dấu nhất… từ bỏ tấm chân tình của bạn để chạy theo những điều hư ảo
… … là khi bạn bày tỏ nỗi niềm sâu kín nhất với một người và bị cười vào mặt
… … là khi người thân quá bận rộn với với cuộc sống đã không thể an ủi bạn khi bạn cần được nâng đỡ tinh thần…
… là dường như không còn ai trên cõi đời quan tâm đến bạn…
Cuộc sống vốn đầy ắp những niềm đau, liệu có bao giờ trở nên độ lượng hơn ?
Bao giờ mọi người mới quan tâm đến người khác và nhi.n chút thời giờ cho những người đang cần giúp đỡ…
Mỗi người chúng ta đều có một vai diễn trên trên sàn diễn vĩ đại của cuộc đời .
Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm với mọi người chung quanh, nói với họ rằng chúng ta yêu mến họ…
Nếu bạn không quan tâm đến người khác, bạn sẽ không bị trừng phạt đâu… đơn giản bạn chỉ bị lãng quên, hững hờ… y như bạn đã từng đối với người khác…”
Vậy ngay từ hôm nay, chúng ta hãy tập thói quen bày tỏ sự quan tâm đến người khác... Đâu có mất gì khi chúng ta mỉm một nụ cười, siết chặt một bàn tay, thốt lên một lời khích lệ, hoặc chỉ đơn giản nói rằng chúng ta muốn lắng nghe.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
THIỀN ĐƯỜNG ĐỘC LẬP
Điều gì người khác làm và không làm thì không làm ta quan tâm," Đức Phật dạy. "Điều gì ta làm và không làm - đó là điều ta quan tâm"
Chuyện cười trong ngày
Đúng giờ
Thấy An cứ gãi tay gãi chân
- Tùng: Bị muỗi chích à? Sao ko thoa thuốc chống muỗi vào?
- An: Nhưng chưa tới giờ.
- Tùng: ???
- An: Trên bao bì có ghi: “Có hiệu quả từ 6 đến 8 giờ” Mà bây giờ mới có 5 giờ thôi.
- Tùng: ???
Thấy An cứ gãi tay gãi chân
- Tùng: Bị muỗi chích à? Sao ko thoa thuốc chống muỗi vào?
- An: Nhưng chưa tới giờ.
- Tùng: ???
- An: Trên bao bì có ghi: “Có hiệu quả từ 6 đến 8 giờ” Mà bây giờ mới có 5 giờ thôi.
- Tùng: ???
Monday, June 29, 2015
Chuyện xưa tích cũ - Cá hóa long
CÁ HÓA LONG
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình
Mỗi năm, đến mùa mưa, Ngọc Hoàng sai mấy ông Rồng phun nước xuống trần gian để nhà nông đủ nước mà cấy lúa.
Nhưng số Rồng ít quá, phun nước không đủ. Nhiều năm, dưới trần gian chịu cảnh hạn hán. Ngọc Hoàng thấy vậy bèn mở cuộc thi. Các thú vật ở trần gian, nhất là loài cá tôm đều có quyền tham dự, để được hóa rồng.
Ai muốn thi thì phải vượt qua ba lượn sóng.
Cá rô nhảy qua được một lượn. Gặp lượn thứ hai, cá rô nhảy không khỏi nên phải rớt.
Con tôm có tài hơn. Nhảy qua lượn thứ nhất rồi nhảy qua luôn lượn thứ hai. Nhờ vậy mà thân thể biến hóa, đuôi, mình, dầu lần lần sửa đổi coi trang nghiêm gần giống như con rồng. Nhưng đụng lượn sóng thứ ba, con tôm nhảy qua không khỏi. Vì quá sức nên té cắm đầu xuống, lưng cong lại, gan ruột lộn lên đầu.
Đến lượt con cá chẽm (lý ngư) ra thi. Nhờ thần linh giúp sức nên giông tố nổi lên ù ù, cá chẽm lấy trớn nhảy qua một hơi ba lượn sóng liên tiếp, lọt vào cửa Võ môn, đắc thắng.
Cá chẽm hóa ra Rồng, hình dạng thay đổi. Lời tục thường ví người gặp vận may với con cá hóa long.
Gái ngoan nên lấy chồng khôn,
Cũng như cá vượt vũ môn hóa rồng.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
KHỈ TRONG CHUỒNG
Một hôm Ngưỡng Sơn hỏi Thiền sư Hồng Ân:
- Thấy tánh là thế nào?
Hồng Ân cho một tỉ dụ:
- Giống như một cái chuồng có sáu cửa, bên trong có nhốt một con khỉ. Nếu phía đông có người kêu “khẹt khẹt”, bên trong khỉ cũng đáp lại “khẹt khẹt.” Tiếng kêu sẽ do sáu cửa ra vào ứng nhau.
Ngưỡng Sơn hỏi lại:
- Nếu như bên trong khỉ ngủ thì sao?
Hông Ân liền bước xuống giường thiền, một tay nắm gậy một tay nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói lớn:
- Khỉ ơi, khỉ ơi, ta cùng ngươi đang đối diện nhau đây.
(Thung Dung Lục)
Chuyện cười trong ngày
Bơi nhiều vẫn mập
Một phụ nữ đòi chồng lắp cho hệ thống nước nóng ở hồ bơi ngoài trời của gia đình để bà ta có thể bơi lội chống béo phì.
- Ông chồng vặn lại: "Con cá voi ngày nào cũng bơi mà có gày đi tí nào đâu"
Một phụ nữ đòi chồng lắp cho hệ thống nước nóng ở hồ bơi ngoài trời của gia đình để bà ta có thể bơi lội chống béo phì.
- Ông chồng vặn lại: "Con cá voi ngày nào cũng bơi mà có gày đi tí nào đâu"
Sunday, June 28, 2015
Chuyện ngắn - Bình yên nơi đâu?
Bình yên nơi đâu ?
Bài sưu tầm
Đối với bạn, bình yên là nơi đâu?
Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công thể hiện tài năng của mình.
Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình… Bình yên thật sự.
“Ta chấm bức tranh này! – Nhà vua công bố – Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên”.
Thế còn đối với bạn, bình yên là nơi đâu ?
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Sự tỉnh thức hoàn toàn
Sau 10 năm tu tập, Tenno đạt đến trình độ của một người Thiền Sư. Một ngày trời mưa, ông đến viếng thăm một vị Thiền Sư nổi tiếng Nan-in. Khi ông bước vào, vị thiền sư chào đón ônng với một câu hỏi, "Ông bạn có để đôi guốc gỗ và cái dù ở trên hành lang không?"
"Dạ có," Tenno trả lời
"Nói cho tôi," vị thiền sư tiếp tục hỏi, "ông bạn đã để cái dù bên trái đôi guốc gỗ của ông, hay là để bên phải?"
Tenno đã không biết câu trả lời, và ông nhận ra rằng ông chưa đạt tới sự hoàn toàn tỉnh thức. Do vậy ông trở thành thiền sinh tu tập thiền Nan-in và tu học dưới sự chỉ dẫn của vị Thiền Sư thêm 10 năm nữa
Sau 10 năm tu tập, Tenno đạt đến trình độ của một người Thiền Sư. Một ngày trời mưa, ông đến viếng thăm một vị Thiền Sư nổi tiếng Nan-in. Khi ông bước vào, vị thiền sư chào đón ônng với một câu hỏi, "Ông bạn có để đôi guốc gỗ và cái dù ở trên hành lang không?"
"Dạ có," Tenno trả lời
"Nói cho tôi," vị thiền sư tiếp tục hỏi, "ông bạn đã để cái dù bên trái đôi guốc gỗ của ông, hay là để bên phải?"
Tenno đã không biết câu trả lời, và ông nhận ra rằng ông chưa đạt tới sự hoàn toàn tỉnh thức. Do vậy ông trở thành thiền sinh tu tập thiền Nan-in và tu học dưới sự chỉ dẫn của vị Thiền Sư thêm 10 năm nữa
Chuyện cười trong ngày
Tai nạn máy bay
Cô gái tóc vàng nọ ngồi cạnh một người đàn ông xa lạ trong một chuyến bay đêm. Khoảng một giờ sau khi cất cánh, cơ trưởng cất tiếng ngỏ lời xin lỗi hành khách vì một trong 4 động cơ bị hỏng và họ sẽ tới điểm đến trễ mất 15 phút.
Khoảng 30 phút sau, cơ trưởng lại thông báo:
Động cơ thứ hai tiếp tục bị hỏng và chúng ta sẽ tới phi trường kế tiếp trễ 30 phút so với lịch trình. Thay mặt phi hành đoàn, tôi thành thật xin lỗi quý khách về sự bất tiện này.
15 phút sau, viên phi công lại cất tiếng, vẻ hơi thiếu bình tĩnh:
- Tôi rất lấy làm tiếc phải thông báo rằng động cơ thứ ba của máy bay lại hỏng và chúng ta sẽ tới điểm đến muộn l giờ.
Cô gái tóc vàng quay sang than phiền với người bạn đồng hành:
Anh bạn này, nếu động cơ thứ tư của máy bay mà hỏng nốt thì chúng ta phải ở lại trên này suốt đêm mất.
Cô gái tóc vàng nọ ngồi cạnh một người đàn ông xa lạ trong một chuyến bay đêm. Khoảng một giờ sau khi cất cánh, cơ trưởng cất tiếng ngỏ lời xin lỗi hành khách vì một trong 4 động cơ bị hỏng và họ sẽ tới điểm đến trễ mất 15 phút.
Khoảng 30 phút sau, cơ trưởng lại thông báo:
Động cơ thứ hai tiếp tục bị hỏng và chúng ta sẽ tới phi trường kế tiếp trễ 30 phút so với lịch trình. Thay mặt phi hành đoàn, tôi thành thật xin lỗi quý khách về sự bất tiện này.
15 phút sau, viên phi công lại cất tiếng, vẻ hơi thiếu bình tĩnh:
- Tôi rất lấy làm tiếc phải thông báo rằng động cơ thứ ba của máy bay lại hỏng và chúng ta sẽ tới điểm đến muộn l giờ.
Cô gái tóc vàng quay sang than phiền với người bạn đồng hành:
Anh bạn này, nếu động cơ thứ tư của máy bay mà hỏng nốt thì chúng ta phải ở lại trên này suốt đêm mất.
Saturday, June 27, 2015
Truyện xưa tích cũ - Con thằng mõ làm quan trạng
Truyện Xưa Tích Cũ
CON THẰNG MÕ LÀM QUAN TRẠNG
Tác giả: Sơn Nam & Tô Nguyệt Đình
Thuở xưa, tại tỉnh Thái Bình có một “thằng Mõ.”tên là lão Đốp. Đã nghèo lại hiếm hoi, vợ chồng lào Đốp chỉ sanh được một trai đặt tên là Bé Con.
Vì nhà nghèo nên Bé Con không được học hành chi cả. Năm hai mươi tuổi, Bé Con giúp cha làm nghề “thằng Mõ đi rao.”
Bấy giờ, ở Thái Bình có quan Thượng họ Lê vừa về hưu, được dân làng mến đức cử làm tiên chỉ. Quan Thượng có người con gái đến tuổi cập kê, tên là Hồng Ngọc. Đã nhiều nơi môn đăng hộ đối đi nói, nhưng Hồng Ngọc không chịu ưng ai. Ngày kia thấy Bé Con mang phần quà biếu cửa chức sắc làng đến dâng quan Thượng, tiểu thư Hồng Ngọc sanh bụng yêu thương, rồi tương tư đến mang bệnh.
Thấy con tiều tụy ưu sầu, quan Thượng gạn hỏi mãi, ban đầu Hồng Ngọc còn giấu giếm, cuối cùng cũng phải thú thật vì yêu thương Bé Con mà sinh bệnh tương tư. Nghe qua, quan Thượng nổi trận lôi đình, mắng nhiếc con gái thậm tệ. Đời nào quan Thượng lại chịu gả con cho con của “thằng Mõ.”
Nhưng thấy con gái ngày càng héo hon, quan Thượng không biết phải làm sao, đành kêu Bé Con đến gả Hồng Ngọc và buộc một điều là quan Thượng không nhìn con gái nữa. Bé Con và Hồng Ngọc muốn dắt đi đâu thì đi không được phép ở trong làng.
Hồng Ngọc thâu vén hết tư trang quần áo, rồi đưa người yêu vào Thanh Hóa, quyết tâm cho chồng đi học. Hồng Ngọc đưa Bé Con đến trường của cụ Thượng Phùng, nói dối là em trai của mình đến nhờ cụ chỉ dạy.
Cụ Thượng Phùng vốn có quen với cụ Thượng Lê, lại biết tiểu thư Hồng Ngọc từ thuở nhỏ, nên bằng lòng thâu nhận Bé Con làm học trò. Và cho dọn một cái buồng riêng tại nhà cho Hồng Ngọc ở đặng buôn bán nuôi em ăn học, đợi chừng nào thành tài sẽ dắt về trình diện với cha. Riêng Bé Con thì ở nhà ngoài với các cậu học trò cho tiện việc sách đèn.
Lần lửa ngày tháng trôi qua, sau thời kỳ khai tâm, Bé Con học đâu nhớ đó, tỏ ra người thông minh chăm học. Chẳng bao lâu, Bé Con trở thành nho sinh văn chương thơ phú hay nhất trường. Hàng trăm thư sinh ít có ai theo kịp.
Bấy giờ cụ Thượng Phùng mới gọi tiểu thơ Hồng Ngọc mà nói rằng: -Cậu bé của tiểu thư học hành đã giỏi rồi đấy, khoa nầy chắc chắn thế nào cũng thi đỗ. Vậy tiểu thư hãy về báo cho phụ thân biết để tiện bề loại khai cho câu em đi học để đến kỳ vào thi mới hợp lệ, kẻo trễ thì tiếc lắm.
Tiểu thơ Hồng Ngọc chẳng biết liệu sao, đành phải khai thật chuyện của mình, và cho biết Bé Con là chồng chứ không phải em ruột. Hồng Ngọc lại thưa: -Nay chồng của con chưa làm nên danh phận gì, làm sao con dám trở về nhà thưa chuyện với mẹ cha. Vậy xin cụ cho chồng con nhập tịch dân làng và nhờ thầy nói hộ với làng …
Cụ Thượng Phùng thấy tình cảnh của đôi trẻ như vậy thì cũng động lòng thương, nên sau lúc suy nghĩ chín chắn, cụ bèn viết thơ cho quan Thượng Lê thuật rõ tự sự và mời sang Thanh Hóa để liệu định cho chàng rể học giỏi đi thi. Quan Thượng Lê, đọc thơ động lòng xót thương con gái, bàn tính với quan Thượng bà, rồi đi sang Thanh Hóa cho rõ thực hư.
Đến nơi, sau cuộc han huyên của đôi bạn già, cụ Thượng Phùng trao tập văn của Bé Con cho quan Thượng Lê xem. Quan Thượng xem xong lấy làm khen ngợi, nhưng nghĩ thầm: “Không chừng cụ Thượng Phùng gạ bài cho nên chuyện.” Vậy muốn rõ trắng đen, chính quan Thượng phải thử tài Bé Con mới được. Đó rồi, quan Thương cho gọi Bé Con đến trước mặt, bảo làm bài thơ vịnh chiếc mõ.
Bé Con lãnh ý, hươi bút làm tám câu thơ như vầy:
Vì thiên hạ điếc đã lâu ngày,
Trời mới sanh ra chiếc mõ thầy.
Phép nước vang lừng ran cửa miệng,
Lệnh làng thét lẹt khét trong tay.
Việc quan thúc bách ba dùi đốp,
Lộc thánh gia ban mấy hộc đầy.
Lốc cốc tre già măng lại mọc,
Đầu đình chót vót bổng tầng mây.
Quan Thượng Lê xem xong bài thơ, lấy làm thích quá, vỗ đùi khen: -Rõ ra khẩu khí con nhà “thằng Mõ.”mà văn chương Trạng nguyên.
Rồi bảo tiếp rằng: -Con ở làng Hữu Thanh, vậy để ta đặt tên con là Hữu Thanh họ Khiếu. Để rồi ta về nhờ lý trưởng loại khai cho mà đi thi.
Đoạn gọi tiểu thơ Hồng Ngọc khen ngợi: -Con quả có mắt tinh đời, cha đành chịu cái lỗi không biết xét người. Bây giờ con hãy an lòng ở đây nuôi chồng con ăn học chờ đến ngày thi. Chừng nào chồng con thi đỗ sẽ vinh quy và vu quy một thể cho rạng rỡ tông đường.
Đến khoa thi Hương năm ấy, quả nhiên Khiếu Hữu Thanh giựt giải nguyên. Khi xướng danh ban yến, quan Thượng Lê nghe tin liền viết thơ giục về vinh quy, song Khiếu Hữu Thanh chưa chịu trở về làng mà lại ở luôn Thanh Hóa tiếp tục dồi mài kinh sử chờ năm sau thi Hội, thi Đình chiếm được bảng vàng rồi sẽ vinh quy bái tổ.
Tới kỳ thi, Khiếu Hữu Thanh đỗ Hội nguyên, vào thi Đình lại đỗ luôn. Vua Lê ban sắc tứ phong “Đệ nhất giáp Tiến sĩ cấp cấp đệ nhất danh.” Được mời vào dự yến, cưỡi ngựa xem hoa, chàng tân Trạng Nguyên dâng biểu xin về vinh quy. Vua Lê ngỏ ý muốn gả công chúa Quỳnh Hoa cho Hữu Thanh, nhưng vì chàng nghĩ đến tiểu thơ Hồng Ngọc bấy lâu khốn khổ vì mình, nên thật tình tâu bày đã có vợ nhà, nên không thể xe duyên với công chúa. Vua Lê khen chàng có nghĩa, ban cho biểu vàng: “Ân tứ vinh quy.”và ban cho “Ngự tứ hôn.”
Hàng tỉnh, hàng quận được sức đi đón Tân Trạng, từ thành Nam trở về cờ xí rợp trời, trống chiêng dậy đất, ngựa chàng đi trước, võng nàng theo sau.
Quan Thượng Lê được tin vui mừng khôn xiết cho kết lầu hoa để đón rể và con gái. Những người trước kia chê tiểu thơ Hồng Ngọc lấy con “thằng Mõ.”đều mắc cỡ hổ thầm không dám ló mặt ra ngoài.
Cu Thượng Hà bạn đồng liêu với quan Thương Lê, đến dự tiệc mừng Trạng Khiếu vinh quy, trong lúc cao hứng ngỏ ý muốn gả con gái làm thứ thiếp cho Hữu Thanh, chàng cười đáp: -Việc đó tùy tiểu thơ Hồng Ngọc có bằng lòng cho tôi lấy thứ thiếp thì tôi mới dám. Chớ công chúa Quỳnh Hoa mà tôi cũng xin từ vì đã có nơi rồi.
Hồng Ngọc nghe thế mới bảo rằng: -Công chúa Quỳnh Hoa vì sang đẹp hơn tôi mà cậu không chịu, chứ tiểu thơ Bích Châu con cụ lớn đây thì tài sắc cũng bằng nhau, lại là chỗ bạn gái trong làng, tôi thiết tưởng cậu nên nhận lời, để về đỡ tôi cùng gánh vác việc nhà càng hay.
Bấy giờ Hữu Thanh mới thuận. Mấy hôm sau, Hồng Ngọc đón Bích Châu về ở chung, cùng lo việc nhà. Cả hai trên thuận dưới hòa, mến thương nhau như chị em ruột.
Hữu Thanh làm quan được vua tin cậy, không đầy mười năm lên đến chức Thượng thơ, về sau lại vinh thăng lên chức Tể tướng, sự nghiệp hiển hách một thời. Đến khi cáo lão về trí sĩ, dân làng cảm đức lập sinh từ, ngày nay là đền quan Trạng Khiếu tại Đồng Thạnh. Con cháu họ Khiếu ngày càng đông đúc, kể có mấy trăm người đều vinh hiển.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Giác Ngộ
Một ngày nọ vị Thiền Sư tuyên bố rằng một vị sư trẻ tuổi đã đạt tới cấp cao của sự giác ngộ. Tin này là lý do kích động một vài người. Một vài vị sư đã đi đến gặp nhà sư trẻ. "Chúng tôi nghe rằng sư đã giác ngộ. Có đúng không?" họ hỏi.
"Đúng vậy," nhà sư trẻ trả lời.
"Vậy cảm giác của sư như thế nào?"
"Nghèo nàn hơn bao giờ," vị sư nói.
Một ngày nọ vị Thiền Sư tuyên bố rằng một vị sư trẻ tuổi đã đạt tới cấp cao của sự giác ngộ. Tin này là lý do kích động một vài người. Một vài vị sư đã đi đến gặp nhà sư trẻ. "Chúng tôi nghe rằng sư đã giác ngộ. Có đúng không?" họ hỏi.
"Đúng vậy," nhà sư trẻ trả lời.
"Vậy cảm giác của sư như thế nào?"
"Nghèo nàn hơn bao giờ," vị sư nói.
Chuyện cười trong ngày
Tại giống bố
Một gia đình nọ có khá đông anh em nhưng không ai giống ai cả, thậm chí cũng chẳng giống bố. Vì mọi người rất hay trêu chọc họ về chuyện này nên một hôm đứa lớn nhất tìm mẹ để hỏi cho ra nhẽ.
- Mẹ ơi, mọi người bảo bọn con không giống bố. Thế mẹ bảo bọn con có giống bố không
Người mẹ đáp ngay:
- Tất nhiên là các con phải giống bố rồi.
Đứa con lại hỏi tiếp:
- Thế thì vì sao bọn con lại trông chẳng giống nhau gì cả?
Bà mẹ lưỡng lự hồi lâu rồi nói:
- Ừ, chắc tại các con giống bố...
Một gia đình nọ có khá đông anh em nhưng không ai giống ai cả, thậm chí cũng chẳng giống bố. Vì mọi người rất hay trêu chọc họ về chuyện này nên một hôm đứa lớn nhất tìm mẹ để hỏi cho ra nhẽ.
- Mẹ ơi, mọi người bảo bọn con không giống bố. Thế mẹ bảo bọn con có giống bố không
Người mẹ đáp ngay:
- Tất nhiên là các con phải giống bố rồi.
Đứa con lại hỏi tiếp:
- Thế thì vì sao bọn con lại trông chẳng giống nhau gì cả?
Bà mẹ lưỡng lự hồi lâu rồi nói:
- Ừ, chắc tại các con giống bố...
Friday, June 26, 2015
Chuyện ngắn - Bài học từ nắm cát
Bài học từ nắm cát
Sưu tầm
Ở một ngôi làng chài ven biển, có cậu bé là con của một thương gia giàu có đã không may mất sớm. Cậu bé luôn mơ ước một ngày nào đó được nối nghiệp bố để bôn ba khắp phương trời. Một hôm đi học về cậu khoe ngay với ông nội “Ông ơi, hôm nay cháu đã học được rất nhiều điều ông ạ!”. Ông nội dẫn cậu ra một cái chòi ở bờ biển, ông đánh dấu X lên mặt đất và nói…
“Này con, mỗi lần con học được điều gì thực sự mới mẻ và quý báu, hãy vốc một nắm cát ngoài kia và đổ lên đây nhé. Nó sẽ là thước đo cho kiến thức của con. Con sẽ ko làm ta thất vọng chứ?” – Ông hỏi và chỉ tay vào cái cột lớn giữa nhà. Đứa bé thấy trên đó có nhiều vết khắc, vết cao nhất có khắc “1.8m, 1993″. “Của bố con đấy, hồi ấy trong vòng một năm đưa ra bài tập này bố con đã phá kỉ lục gấp ba lần của ta!” – Ông cười.
Thằng bé càng tự hào về bố, nó chạy vội đi vốc nắm cát đến đổ vào chỗ ông vừa chỉ, tượng trưng cho những gì nó học hôm nay. Nó lấy thước và đo được 2cm. Nó nói với ông “Việc này quá dễ ông ạ, mỗi ngày cháu được 2cm, thì chỉ cần 3 tháng là ta vượt kỉ lục của bố!”… Ngày tiếp theo, thằng bé học tập rất tích cực trên lớp, lúc chiều về nó vốc tiếp hai nắm cát và đổ xuống chỗ hôm trước. Rồi liên tục một tuần như vậy, cậu bé chăm chỉ nghiên cứu thêm rất nhiều loại sách vở nữa để ngày nào cũng được vốc hai đến ba nắm cát đổ xuống đó…
Hôm nay đã được tròn một tháng, người ông thấy cháu dạo này không thấy đến khoe bài nữa bèn hỏi đến, đứa bé ngượng ngùng. “Thưa ông, cháu đã làm hết sức nhưng không hiểu sao càng ngày nó lại càng khó…” – Người ông khẽ mỉm cười và dẫn cậu bé ra chỗ lần trước. “Nào, bây giờ cháu hãy quan sát nhé”. Người ông lấy một nắm cát và đổ rất từ từ xuống, rồi hai nắm, ba nắm, bốn nắm đổ xuống, năm nắm, sáu nắm….
Cậu bé thấy ông cũng làm giống như nó mà. Ồ không, cậu bắt đầu nhận ra rằng từ nắm cát thứ ba trở đi, phải có đến 90% số cát mới sẽ rớt hết xuống dưới, bán kính của vùng cát ngày một mở rộng. Điều đó giải thích tại sao lên cao lại khó đến vậy! Nó hiểu ra một điều gì đó, nhưng chưa rõ ràng lắm. Nó hỏi thốt lên: “Ông ơi, thế bố cháu đã làm thế nào vậy ông?”. Ông nội mỉm cười và lấy ở gần đó một ống thủy tinh khá dài. Ông dựng lên và bắt đầu đổ cát vào. Chỉ sau một vài nắm, cát đã dâng lên rất nhanh và không có hạt nào rớt ra. Ông nói tiếp:
“Cháu à, hãy tưởng tượng đầu óc cháu là khoảng đất này. Hàng ngày ta thu nhận học hỏi từ thế giới xung quanh là ta đang vốc những nắm cát kiến thức đổ xuống đó. Cháu cũng thấy đấy, cháu khó có thể đạt được một chiều cao nhất định nếu cứ đổ theo lối mòn cháu đã làm là đọc càng nhiều càng tốt, những kiến thức nếu không dùng đến rồi sẽ dần trôi hết. Cháu hãy tạo dựng cho mình những cái khuôn thật chắc, thật cao bằng chính những mong muốn, khát vọng, niềm đam mê của cháu. Hãy biết mình cần cái gì trước khi bắt đầu đổ kiến thức vào nhé!”
Nói đoạn, ông dẫn cậu bé vào một căn phòng nhỏ nơi chứa những kỷ vật linh thiêng của ba nó. Cậu thấy ba nó đã tạo ra rất nhiều những cột cát thủy tinh thật cao. Có những cột kiến thức mà cậu đã biết nhưng chưa bao giờ đạt đến độ cao như ba, cũng có những cột mà cậu mới nghe tên lần đầu. Và cậu đã thấy cái cột cao nhất, đúng 1.8m, có lẽ đó là niềm đam mê giúp ba thành công. Ngay sau đó, cậu bé đi mua cho mình một ống thủy tinh 2m và viết lên đó “Kỹ năng học tập & thay đổi”. Cậu đổ nắm cát đầu tiên cho bài học lớn vừa học được trong niềm vui sướng miên man.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Nó sẽ đi qua
Một thiền sinh đến gặp vị Thiền Sư và nói,
"Sự tu tập thiền của tôi hết sức khó chịu! Tôi cảm thấy quẫn trí, đôi chân của tôi bị đau nhức, đôi khi tôi rơi vào cơn buồn ngủ. Nó thì hết sức khó chịu!"
"Nó sẽ đi qua," vị Thiền Sư thản nhiên nói
Một tuần lễ sau, thiền sinh trở lại gặp vị thầy của mình. "Sự tu tập thiền của tôi thì rất tốt! Tôi cảm thấy vô cùng tỉnh thức, thật là yên tĩnh, vô cùng sinh động! Nó thật là kỳ diệu!"
"Nó sẽ đi qua."
Vị Thiền Sư thản nhiên trả lời
Chuyện cười trong ngày
Quyết đấu.
Một trạm cảnh sát nhận được cú điện thoậi. Người đàn ông đầu giây bên kia nói hối hả:
- "Cảnh sát đấy hả? Tôi muốn báo cho các ông biết trưa này ở ven rừng gần đấy có một cuộc đấu. Mong các ông cho người đến can"
Nhân viên trực trả lới
- "Chúng tôi biết rồi, đối thủ của anh đã báo cho chúng tôi trước nửa giờ rồi"
Một trạm cảnh sát nhận được cú điện thoậi. Người đàn ông đầu giây bên kia nói hối hả:
- "Cảnh sát đấy hả? Tôi muốn báo cho các ông biết trưa này ở ven rừng gần đấy có một cuộc đấu. Mong các ông cho người đến can"
Nhân viên trực trả lới
- "Chúng tôi biết rồi, đối thủ của anh đã báo cho chúng tôi trước nửa giờ rồi"
Thursday, June 25, 2015
Chuyện cổ sưu tầm - Báo, thỏ và khỉ
Báo, Thỏ và Khỉ
Chuyện cổ Sưu Tầm
Ngày xửa ngày xưa, có một con Báo sống trong một khu rừng kề liền với đồng cỏ khô. Rừng rất rậm, nhưng cái ăn trong rừng lại không có. Ở đó khó mà nuôi nổi bản thân chứ đừng nói gì đến cả nhà. Thế cho nên Báo mới quyết định di chuyển đến nơi khác, tìm một chốn nương thân, nơi dễ sống hơn.
Thế rồi, một buổi sáng nọ, con Báo ra khỏi rừng, chạy sang đồng cỏ tìm chỗ ở mới. Nó chạy mãi, cuối cùng thấy đằng xa có cây cối xanh tươi. Cả mừng, nó nghĩ: “Thế là cuối cùng ta đã tìm ra chỗ có đủ nước uống và tưới cây”. Nó nhảy những bước dài đến chỗ đó. Đến gần, nó thấy đúng là khó mà tìm ra chỗ nào tốt hơn. Nước phun từ dưới đất lên, chảy thành dòng, đất màu mỡ, xốp tơi - phải làm vườn thôi? Rồi quả sẽ lủng lăng trên cành cây.
Nghĩ tới đó, nước dãi con Báo chảy thành dòng, và nó cứ thế say sưa mơ tưởng. Nó quyết định: “Ta sẽ dọn nhà đến đây”. Rồi nó trẩy một ít quả và chạy trở về kể cho vợ nghe xứ sở thần tiên ấy.
Con Báo vợ nghe kể rồi nói:
- Vậy thì mình hãy quay lại ngay đấy mà làm nhà đi.
Sáng ngày hôm sau, mặt trời vừa ló ra, Báo ta đã dậy chạy vội đến nơi đó để làm nhà cửa. Nó chạy không nghỉ vì nó không muốn mất thời gian vô ích. Nó chọn được một khoảng đất thuận tiện hơn cả, rồi đo đạc, ước tính, đào bỏ các gốc cây con queo. Nó làm lụng suốt cả ngày, vậy mà công việc cũng chưa được là bao thì mặt trời đã lặn. Nó đành nghỉ ở trong hang, nơi sẽ thành vườn của nó.
Vào cái đêm hôm đó, con Thỏ ranh mãnh chạy ngang qua chỗ con Báo vừa mới bắt tay vào làm nhà. Nom thấy cơ ngơi làm dở, Thỏ ta vắt óc nghĩ rồi bắt tay vào làm tiếp công việc dở dang ấy. Đắp xong nền, đóng cọc làm tường nhà xong, chuẩn bị xong mọi thứ thì trời sáng, nó bèn đi ngủ.
Mặt trời vừa mới mọc, Báo đã đến làm tiếp - lạ thay! Có ai đã làm tiếp việc của nó, nhiều việc đã làm xong. Báo nghĩ bụng: “Thật là trời có mắt giúp cho ai gặp khó khăn. Nền đắp xong rồi, cột cũng chôn rồi! Xin đa tạ người phù hộ cho con!” Cảm tạ trời xong nó bắt tay vào làm việc một mạch đến tận chiều, không nghỉ. Tường đã đan nan rừng xong, rui mè đã đặt. Nó lại quay về khỉ ở cái hốc trong vườn.
Đến đó, Thỏ lại đến làm. Nó cắt lau sậy lợp nhà, trát tường. Nhà đã xong xuôi, giờ chỉ việc dọn đến ở thôi! Vừa mới làm xong mọi việc là Thỏ chạy thật nhanh về gặp vợ.
Sáng hôm sau, con báo tới, thấy ngôi nhà đã xong xuôi? Nó nhảy lên vì sung sướng nó lạ thật, rồi bình tâm trở lại, nó chạy về ngôi nhà cũ để dọn cả gia đình đang sống ở nơi đói khổ đi. Về đến nơi nó kể lại mọi chuyện cho vợ nghe, rồi chúng sửa soạn thật gấp đến nơi ở mới.
Khi Báo đang khăn gói lên đường thì Thỏ đã chuyển xong cả gia đình đến ngôi nhà mới. Nó biết Báo chẳng mấy chốc sẽ quay lại nên quyết định phải doạ nó. Báo vừa mới bước vào sân, Thỏ đã véo nhẹ Thỏ con, con này kêu to, Thỏ quát ngay:
- Cái gì mà gào lên thế?
Thỏ con đáp:
- Con thèm thịt Báo lắm! - Rồi lại rống lên!
- Thôi nín đi con, kẻo nó sợ đấy! Cha đánh hơi thấy nó ở gần quanh đây. Hễ nó đi vào sân là cha chộp nó luôn! Để xem nó có béo hay không. Nhưng con phải nín đi, cố chịu một chút nữa thôi!
Nghe thấy thế, Báo ta tháo chạy thục mạng! Chạy quên cả đồ đạc, khăn gói! Còn Thỏ thì cùng vợ thò đầu ra cửa sổ cười khà khà. Đợi một lát Thỏ với lũ Thỏ con ra vườn báo hái rau. Hái xong, chúng quay về, nấu nướng rồi ăn.
Khi ấy có một con Khỉ đầu chó chạy qua. Nó thấy Thỏ cùng vợ con đang ngồi ăn rau. Nó cũng muốn nếm món rau này mà chẳng có ai mời. Nó quanh quẩn mãi mà chẳng xơi múi được gì bèn bỏ đi. Khỉ ta đi vơ vẩn, bỗng gặp cả nhà Báo. Lũ chúng đang ngồi, nước mắt chan hoà.
Khỉ hỏi:
- Vì sao các bác khóc?
Báo đáp:
Làm sao mà không khóc cơ chứ! Tôi dựng nhà, làm vườn, rồi bọn nó cướp trắng tay, nhưng chúng là đứa nào thì tôi không biết.
Tức thì Khỉ ta phá lên cười:
Hà, hà, hà! Cái anh này, thế mà không biết, con Thỏ chứ ai! Mắt tôi vừa nhìn thấy nó. Nó đang ngồi ăn rau mà không mời mọc gì tôi cả.
Báo rất đỗi ngạc nhiên, nó gầm lên:
- Thằng Thỏ à! Tin thế nào được!
Nhưng con Khỉ khăng khăng như vậy:
Để tôi dẫn anh đi, anh sẽ tận mắt thấy! Báo quyết định:
- Thôi được, nếu anh không nói dối, ta hãy buộc đuôi nhau lại rồi cứ để thế ta đi. Ở đấy mà không có Thỏ thì anh không lẫn đằng nào được
Chúng buộc đuôi nhau lại rồi ra đi. Khi chúng đến gần nhà, Thỏ nom thấy bèn quyết định lừa chúng một lần nữa. Chúng vừa tiến đến gần, nó lại véo Thỏ con, con này lại khóc:
Thỏ quát như bận trước:
- Làm gì mà gào lên thế?
Thỏ con đáp:
- Con thèm ăn thịt Báo quá!
Thỏ bảo:
Thì im đi, kẻo nó sợ đấy! Con có thấy không, bác Khỉ bạn của cha đã trói đuôi nó đẫn về kìa kìa!
Nghe nói vậy, Báo sợ quá vội lao ngay, lôi theo cả Khỉ. Khỉ đập đầu vào đá chết ngay. Báo thấy Khỉ đã chết, bèn cắt đuôi nó rồi chạy tiếp. Trong vùng này từ đó không thấy Báo nửa. Nhà và vườn thuộc về Thỏ.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
CƯỜI VỚI ĐẤT TRỜI
Duy Nghiêm là một trong những Thiền sư vĩ đại thời nhà Đường. Sau khi đắc Pháp nơi Đại sư Thạch Đầu Hy Thiên, sư đến trụ ở Dược Sơn nên người ta gọi sư là Dược Sơn.
Một buổi chiều, khi sư dạo núi, bỗng nhiên mây mù biến tan biến, mặt trăng hiện ra, sáng ngời. Thấy vậy, sư chợt cười lên một tiếng sảng khoái.
Tiếng cười vang xa mấy dặm quanh vùng.
Sáng hôm sau dân làng nói với nhau:
- Đêm hôm qua tôi bỗng nghe một tiếng cười lớn lắm, nhưng không biết từ đâu.
- Ừ, tôi cũng nghe.
Chợt có một ông tăng từ trên chùa xuống, đi ngang qua nghe chuyện, liền nói:
- Đó là tiếng cười của hoà thượng đi dạo trên núi.
(Chơn Không Gầm Thét)
Chuyện cười trong ngày
Hiểu lầm
- Quan tòa: "Tại sao anh phải trộm chiếc xe ấy?"
- Tên trộm: "Bởi vì xe dừng ở cạnh nghĩa địa nên con tưởng chủ nhân nó đã qua đời!"
- Quan tòa: "Tại sao anh phải trộm chiếc xe ấy?"
- Tên trộm: "Bởi vì xe dừng ở cạnh nghĩa địa nên con tưởng chủ nhân nó đã qua đời!"
Wednesday, June 24, 2015
Chuyện xưa tích cũ - Tích cây nhơn sâm
TÍCH CÂY NHƠN SÂM
Theo Đông Y, nhơn sâm là vị thuốc bổ khỏe rất quý. Nhơn sâm là một loại củ nhỏ, có bốn cái rễ giống như hai tay, hai chân của con người. Thuở xưa ai uống nhơn sâm thì được trường sanh bất tử. Nhưng ngày nay nhơn sâm không còn linh nghiệm bằng hồi trước. Đó cũng bởi loài người nóng nảy, tham lam mà ra.
Ở ven rừng, có vợ chồng anh tiều phu nọ quá nghèo nàn. Mỗi buổi sáng khi đi hái củi, hai vợ chồng để đứa con nhỏ tuổi ở nhà với một chén cơm nhỏ xíu. Ngày qua tháng lại, đứa bé trở nên mập mạp, hồng hào. Vợ chồng anh tiều phu lấy làm ngạc nhiên: -Con của mình ăn cực khổ, thiếu thốn mà sao lại mạnh khỏe không kém con nhà khá giả?
Làm sao hỏi được nguồn cơn? Đứa bé quá nhỏ nên chưa biết nói chuyện. Phải chờ vài năm sau mới nghe nó trả lời bập bẹ rằng: -Ba má à, con không ăn cơm.
Vợ chồng lấy làm lạ: -Sao vậy?
Đứa bé nói: -Khỉ ở trong vườn chạy ra ăn cơm hết, con giành không lại …
-Nhưng mà tại sao con không đói bụng, cứ mập mạp hoài?
Đứa bé thuật lại rằng hằng ngày có một đứa bé khác ở trong rừng chạy ra làm quen. Hai đứa giỡn với nhau.
Vợ chồng anh tiều phu suy nghĩ: “Ở trong rừng này không có nhà của một ai, tại sao có con nít tới chơi. Phải rồi, chắc là … con nhơn sâm mà mình thường nghe nói. Nhờ hít hơi con nhơn sâm nên đứa con mình không ăn cơm vẫn khỏe.”
Hôm sau, bán củi được bao nhiêu tiền, vợ chồng anh tiều phu đem mua một cuồn chỉ thật lớn. Về nhà, vợ chồng căn dặn đứa con: -Trong lúc ba đi vắng, hễ thằng nhỏ đó lại đây chơi thì con buộc đầu sợi chỉ này vô chân nó, nghe chưa.
Đến trưa, vợ chồng trở về hết sức vui mừng, thấy đứa con mình làm đúng lời dặn. Vợ chồng bèn phăng theo sợi chỉ, đi len lỏi vào rừng mà tìm dứa nhỏ kia. Đến chỗ nọ, vợ chồng thấy sợi chỉ bị chôn dưới đất. Họ lấy cuốc đào lên, tìm đứa nhỏ tức là con nhơn sâm. Vì họ tham nên trì níu quá mạnh tay khiến nhơn sâm phải chết.
Từ đó về sau, nhơn sâm bớt linh nghiệm. Củ của nó ngày một nhỏ xíu, lụn vụn, uống vô thì bổ khỏe chớ không giúp loại người được bất tử trường sanh.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
RỬA CHÉN ĐI
Một ông tăng mới vừa vào viện Quan Âm, nhân lúc gặp phương trượng của viện là Thiền sư Triệu Châu, liền hỏi:
- Bạch hòa thượng, con mới nhập viện, xin hoà thượng từ bi chỉ dạy cho.
Triệu Châu hỏi:
- Ông ăn sáng chưa?
Ông tăng đáp:
- Dạ rồi.
Triệu Châu bảo:
- Rửa chén đi!
Ngay câu đó, ông tăng liền ngộ.
(Triệu Châu Ngữ Lục)
Chuyện cười trong ngày
Chủ ngữ
Thầy giáo viết lên bảng câu: "Người đàn ông lang thang đã chết đói!". Rồi quay lại hỏi học sinh:
- Này Tí, em cho thầy biết chủ ngữ ở đâu?"
- Ơ.. Có lẽ dưới mồ ạ!!!
Thầy giáo viết lên bảng câu: "Người đàn ông lang thang đã chết đói!". Rồi quay lại hỏi học sinh:
- Này Tí, em cho thầy biết chủ ngữ ở đâu?"
- Ơ.. Có lẽ dưới mồ ạ!!!
Tuesday, June 23, 2015
Truyện Tiền Thân Đức Phật Phần II - Băng Đảng Nghiện Rượu
BĂNG ĐẢNG NGHIỆN RƯỢU
(ĐIỀU ĐỘ KHI UỐNG RƯỢU)
Thủy Tú dịch thuật
Thuở xưa, khi Brahmadatta làm vua, đấng Giác Ngộ được sinh ra trong một gia đình giàu có. Ông trở thành người giàu nhất ở Benares.
Vào lúc đó cũng có một băng đảng của những kẻ nghiện rượu đi lang thang khắp các nẻo đường. Tất cả những gì mà họ có thể nghĩ đến chỉ là làm sao để kiếm ra rượu. Đối với họ nó là một loại thuốc mà họ không thể sống được nếu không có nó.
Một ngày kia, khi họ không còn tiền như thường lệ, họ nghĩ ra một kế hoạch đi cướp tiền của người đàn ông giàu có nhất ở Benares. Nhưng họ không biết rằng ông là vị Bồ Tát tái sanh, cho nên ông không dễ gì bị lừa gạt!
Họ quyết định pha chế một ‘Mickey Finn’, đó là một loại rượu pha với thuốc ngủ không mùi vị. Kế hoạch của họ là làm cho ông trưởng giả uống Mickey Finn. Rồi khi ông ngủ say họ sẽ cướp hết tiền, nữ trang, và ngay cả quần áo sang trọng ông đang mặc. Thế là họ dựng một quán rượu nhỏ tạm thời bên đường. Họ đổ phần rượu cuối cùng của họ vô một cái lọ, và trộn vô vài viên thuốc ngủ loại mạnh.
Một lúc sau ông trưởng giả trên đường đi đến cung điện đi ngang qua đó. Một trong những kẻ nghiện rượu lên tiếng kêu ông, “Xin hân hạnh chào ngài, sao không bắt đầu một ngày tốt đẹp – bằng cách cùng uống rượu với chúng tôi. Ly đầu tiên là do chúng tôi mời!” Rồi hắn rót rượu pha thuốc ngủ vô ly.
Nhưng đấng Giác Ngộ không uống bất cứ thứ rượu nào. Chẳng những thế, ông tự hỏi tại sao những kẻ nghiện rượu này laị quá hào phóng với món thuốc yêu thích của họ. Thật là không giống họ chút nào.
Ông biết ngay là có mưu mô gì đây. Nên ông quyết định dậy cho họ một bài học. Ông nói, “Sẽ là một sự bất kính khi xuất hiện trước mặt vua trong bộ dạng say rượu, hoặc thoảng là chỉ có một chút mùi rượu trong hơi thở của tôi cũng không được. Nhưng xin hảy đợi tôi ở đây. Tôi sẽ gặp lại các ông khi tôi trở về từ cung điện.”
Bọn nghiện rượu thấy thất vọng. Họ sẽ không thể uống thêm rượu sớm hơn như họ tính. Nhưng họ quyết định kiên nhẫn chờ.
Khoảng vài giờ sau ông trưởng giả đi về ngang quán rượu. Bọn nghiện rượu đã rất thèm rượu. Họ gọi ông lại và nói, “Xin hân hạnh chào ngài, sao không ăn mừng việc ngài đi thăm vua? Ngài hảy uống thử ly rượu ngon này. Xin nhớ rằng ly đầu tiên do chúng tôi tặng!”
Nhưng vị trưởng giả chỉ nhìn vào chai và ly rượu. Ông nói, “Tôi không tin các ông. Cái chai và ly rượu đó trông vẫn còn y nguyên như hồi sáng này. Nếu nó ngon như ông nói, các ông có lẽ đã uống chút đỉnh rượu này trong ngày nay rồi. Thật ra thì các ông có thể đã không kiềm nổi mà uống hết nó rồi! Tôi không có ngu đâu. Chắc hẳn các ông đã cho thuốc gì vào trong rượu.”
Người đàn ông giàu nhất ở Benares bỏ đi để trở về nhà ông, và băng đảng nghiện rượu lại bắt đầu trở lại kế họach và mưu mô của chúng.
Ý chính: Đừng uống rượu quá độ – và suy nghĩ cho chín chắn khi làm việc gì.
********
A Gang of Drunkards (Sobriety)
Once upon a time, when Brahmadatta was king, the Enlightenment Being was born in a wealthy family. He became the richest man in Benares.
There also happened to be a gang of drunkards who roamed the streets. All they ever thought about was finding ways to get alcohol, the drug they thought they couldn't live without.
One day, when they had run out of money as usual, they came up with a scheme to rob the richest man in Benares. But they didn't realize that he was the reborn Bodhisattva, so he wouldn't be so easy to fool!
They decided to make a 'Mickey Finn', which is a drink of liquor with a sleeping drug secretly added to it. Their plan was to get the rich man to drink the Mickey Finn. Then when he fell asleep they would rob all his money, jewelry, and even the rich clothes he wore. So they set up a temporary little roadside bar. They put their last remaining liquor into a bottle, and mixed in some strong sleeping pills.
Later the rich man came by on his way to the palace. One of the alcoholics called out to him, "Honorable sir, why not start your day right - by having a drink with us? And the first one is on the house!" Then he poured a glass of the dishonest liquor.
But the Enlightenment Being did not drink any form of alcohol. Nevertheless, he wondered why these drunkards were being so generous with their favorite drug. It just wasn't like them.
He realized it must be some kind of trick. So he decided to teach them a lesson. He said, "It would be an insult to appear before the king in a drunken state, or with even the slightest smell of liquor on my breath. But please be so kind as to wait for me here. I'll see you again when I return from the palace."
The drunkards were disappointed. They would not be able to drink again as soon as they wanted. But they decided to be patient and wait.
Later that day the rich man came back to the little roadside bar. The alcoholics were getting desperate for a drink. They called him over and said, "Honorable sir, why not celebrate your visit to the king? Have a drink of this fine liquor. Remember, the first one is free!"
But the rich man just kept looking at the liquor bottle and glass. He said, "I don't trust you. That bottle and glass of liquor are exactly as they were this morning. If it were as good as you say it is, you would have tasted some yourselves by now. In fact, you couldn't help but drink it all! I'm no fool. You must have added another drug to the alcohol."
The richest man in Benares went on his way, and the gang of drunkards went back to their plotting and scheming.
The moral is: Keep sober - and keep your common sense.
Kurunegoda Piyatissa
(The Jataka stories)
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
TÂM BÌNH THƯỜNG
Nhân có một Luật sư đến hỏi:
- Phải tu đạo như thế nào?
Thiền sư đáp bằng câu nói của Lâm Tế:
- Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ.
Luật sư liền nói:
- Đa số người ta đều làm vậy mà!
Thiền sư giải thích:
- Không, không, không phải vậy. Đa số khi ăn, người ta không chịu ăn mà còn nghĩ đến món này món nọ; khi ngủ, họ không chịu ngủ mà nghĩ đến điều này điều nọ.
(Chơn Không Gầm Thét)
Chuyện cười trong ngày
Hiệu quả bất ngờ
Một họa sĩ ngồi vẽ trong vườn cây ăn quả. Sau khi tác phẩm hoàn thành, ông hỏi bà chủ vườn: "Bà thấy bức tranh đẹp chứ?"
- Ồ, hay lắm!
- Mảng nào của nó làm bà hài lòng nhất?
- Từ khi ông ngồi đây, không có con chim nào dám đến ăn quả chín nữa.
Một họa sĩ ngồi vẽ trong vườn cây ăn quả. Sau khi tác phẩm hoàn thành, ông hỏi bà chủ vườn: "Bà thấy bức tranh đẹp chứ?"
- Ồ, hay lắm!
- Mảng nào của nó làm bà hài lòng nhất?
- Từ khi ông ngồi đây, không có con chim nào dám đến ăn quả chín nữa.
Monday, June 22, 2015
Chuyện ngắn - Hạt muối và hồ nước
Hạt muối và hồ nước
Sưu tầm
Một anh thợ học việc trong lò rèn suốt ngày ca thán về những khó khăn anh ta gặp phải trong cuộc sống. Anh ta cho rằng cuộc sống này quá u ám và ngột ngạt đến mức không thể chịu đựng nổi.
Một hôm, ông chủ lò rèn đã lớn tuổi bảo anh ta ra chợ mua về một ít muối. Khi anh thợ học việc đem muối về, ông chủ lấy ra một ly nước và bảo anh hãy bốc một nắm muối cho vào ly rồi uống.
– Anh thấy thế nào? – Ông chủ hỏi.
– Vị mặn chát! – Anh thợ thốt lên.
Ông chủ gật đầu đồng tình rồi bảo anh ta mang một nắm muối tương tự đi theo ông. Hai người lặng lẽ đến bên một bờ hồ gần đó. Ông chủ bảo anh thợ lấy nắm muối thả xuống hồ nước. Khi người thợ khuấy nắm muối vào nước hồ, ông chủ bảo anh ta:
– Giờ anh uống thử nước trong hồ xem sao.
Anh thợ làm theo lời ông chủ.
– Vị thế nào? – Ông hỏi sau khi chàng trai đã uống xong một ngụm nước hồ.
– Mát lắm ạ! – Chàng thợ học việc nhận xét.
– Thế anh có nếm thấy vị mặn chát của nắm muối không?
– Không ạ!
Ông chủ nhẹ vỗ vai chàng trai, hiền từ nhìn vào mắt anh và nói:
– Những phiền muộn cũng giống như những hạt muối mặn chát vậy. Ai trong chúng ta cũng đều gặp những điều không vừa lòng trong cuộc sống. Tuy nhiên, số lượng những đắng cay mỗi người cảm nhận được tùy thuộc vào nơi mà họ đặt nỗi phiền muộn ấy vào. Thế nên khi nào anh đau khổ, điều duy nhất anh nên làm là mở rộng nhận thức của anh về sự việc. Đừng tự biến mình thành cái cốc nước bé nhỏ để nỗi đau khổ ấy tạo thành vị mặn chát mà hãy trở thành hồ nước để hòa tan nỗi phiền muộn, sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
TỈNH NGỘ
Thiền sư Setsugen nói với đệ tử là Jijo, “Nếu ông chuyên tâm tọa thiền bảy ngày bảy đêm không gián đoạn mà không ngộ, thì cứ cắt đầu tôi lấy sọ làm đồ chứa phân.”
Sau đó không bao lâu, Jijo bị bệnh kiết lỵ, liền lấy một cái thùng nhỏ mang đến một chỗ biệt lập chẳng ai đến. Jijo ngồi trên thùng chú tâm thiền định.
Jijo ngồi trên thùng bảy ngày liền, đến một đêm bỗng nhiên cảm thấy cả trời đất giống như cảnh tuyết dưới ánh trăng sáng ngời và toàn thể vũ trụ trở nên quá nhỏ hẹp, không thể chứa được mình.
Jijo nhập vào trạng thái này trong thời gian khá lâu cho đến khi nghe một âm thanh làm giật mình thức tỉnh. Toàn thân Jijo toát mồ hôi, cơn bệnh cũng biến mất. Jijo làm một bài kệ kỷ niệm:
Cái gì đây mà lung linh, sáng tỏ?
Mất tiêu liền trong nháy mắt lầm qua.
Cạnh cầu tiêu, chiếc mái dầm ngời sáng;
Rốt cuộc rồi, nó vốn là ta.
(Giai Thoại Thiền)
Chuyện cười trong ngày
Tại cốc nước.
Ông bố khuyên nhủ cậu con trai:
- Con đã gần 30 rồi đấy, lấy vợ đi kẻo sau này muốn uống một cốc nước cũng không có người lấy cho đâu con ạ!
40 năm sau, chàng trai - nay đã là ông già 70 tuổi - nằm ôm đầu, lấy gối bịt chặt hai tai vì lũ cháu mở nhạc ầm ĩ, nhảy nót nô đùa ở nhà ngoài. Ông rên rỉ: Ôi! Chỉ vì một cốc nước mà thân ta khốn khổ thế này đây!
Sunday, June 21, 2015
Chuyện xưa tích cũ - Núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa
NÚI HÀM RỒNG Ở THANH HÓA
Ở Thanh Hóa, ven bờ sông Mã có một thắng cảnh lừng danh: núi Hàm Rồng.
Đứng về hình thế mà xét thì toàn thể dãy núi này gồm chín mươi chín ngọn, giống như thân con rồng đang bò lượn cong queo. Ở sau chót là ngọn núi cao nhô lên, giống hệt đầu con rồng.
Đầu rồng, có hai cái hang, hang thứ nhất chứa được năm sáu chục người, hang thứ nhì nhỏ hơn chứa được chừng năm sáu người.
Người ta bảo đó là hai con mắt rồng, hang to là mắt Đực, hang nhỏ là mắt Cái (âm và dương). Một ngọn núi khác nổi lên giống như mũi rồng. Miệng rồng như há ra ở sát mặt sông, hàm trên ở nơi cao, hàm dưới là dãy đá ăn ngầm dưới đáy sông.
Đó là con rồng đang uống nước. Nhiều người nhìn hình thế lạ lùng ấy nên so sánh khác nhau.
Người thì bảo đó là bầy rồng đang dành nhau trái châu, kẻ thì cho rằng đó là con rồng đang giỡn trái châu.
Hình thế núi Hàm Rồng rất hiểm trở, nước chảy sát vách đá, đáy sông là đá ngầm lởm chởm rất nguy hiểm cho thuyền bè. Đời nhà Minh, người Trung Hoa nhìn nhận rằng nước Việt Nam có thắng cảnh mà núi Hàm Rồng là kỳ quan đứng đầu. Vua nhà Minh ở Trung Hoa đã sai người đến xứ ta để tế lễ tại Hàm Rồng.
Nhiều thi sĩ đến đấy thưởng ngoạn, ngâm thơ vịnh phú.
Thời Pháp thuộc, nơi đây có bắc cây cầu treo cho xe lửa chạy qua, phải làm cầu treo vì nước chảy quá mạnh, khó bề đặt chân cầu dưới đáy sông.
Cầu treo chỉ có một nhịp nối liền núi đá bên này qua núi đá bên bờ sông Mã.
Cụ Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền một chí sĩ giàu lòng yêu nước đã làm mấy câu thơ sau đây, nhân dịp đến Hàm Rồng:
Muôn thuở ly chân nguyên phước đất,
Mười năm hồng tuyết dậy tên non.
Sông hồ tâm sự mây thu lãng,
Trời đất thanh danh miếng đá còn.
(Bản dịch của Tu Trai)
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
CHỖ CÓ PHẬT CHỚ ĐỨNG LẠI
Khi một ông tăng từ giả Triệu Châu để đi tham vấn các nơi, sư hỏi:
- Ông đi đâu?
Ông tăng đáp:
- Khắp các nơi để học Phật pháp.
Sư dựng cây phất tử lên nói:
- Chỗ có Phật chớ đứng lại, chỗ không Phật chạy lẹ qua! Chớ lầm đem Phật pháp cho người cách ba ngàn dặm.
(Triệu Châu Ngữ Lục)
Chuyện cười trong ngày
Sự sống và cái chết.
Một ông chủ hỏi một nhân viên của mình:
- Câu có tin rằng vẫn còn sự sống khi con người đã bước sang thế giới bên kia rồi không?
- Tất nhiên rồi thưa sếp, anh nhân viên đáp.
- Thảo nào, sáng hôm qua khi cậu vừa xin phép đi dự đám tang bà nội thì có một bà đến hỏi thăm cậu, bà ấy xưng là bà nội của cậu!!!
Một ông chủ hỏi một nhân viên của mình:
- Câu có tin rằng vẫn còn sự sống khi con người đã bước sang thế giới bên kia rồi không?
- Tất nhiên rồi thưa sếp, anh nhân viên đáp.
- Thảo nào, sáng hôm qua khi cậu vừa xin phép đi dự đám tang bà nội thì có một bà đến hỏi thăm cậu, bà ấy xưng là bà nội của cậu!!!
Saturday, June 20, 2015
Truyện Tiền Thân Đức Phật - bài 4 - Từ Bỏ Quyền Lực
VUA QUẢ LÀNH VÀ HOÀNG HẬU SIVALI
TỪ BỎ QUYỀN LỰC (CHƯƠNG 3)
Thủy Tú dịch thuật
Câu chuyện này đã xảy ra từ lâu lắm, vào lúc mà loài người sống rất thọ, đến cả 10,000 năm! Sau khi Vua Quả Lành đã trị vì được khoảng 7,000 năm. Tình cờ là vào một ngày nọ, người làm vườn của hoàng gia đem đến cho vua một cái rổ đựng đủ loại hoa quả thật tuyệt vời. Vua thích chúng đến nỗi ngài muốn đến thăm vườn hoa. Thế là người làm vườn sắp xếp và trang hoàng khu vườn, rồi mời ngài đến thăm viếng.
Vua ngồi trên một con voi hoàng gia, theo sau là toàn bộ triều đình và nhiều thường dân của kinh thành Mithila. Khi vua đi qua cổng khu vườn ngài trông thấy hai cây xoài thật đẹp. Một cây thì đầy trái chín mọng trong khi cây kia thì hoàn toàn không có trái. Vua hái một trái ăn và rất thích vị thơm ngọt của nó. Ngài quyết định là sẽ ăn thêm vài trái nửa trước khi đi về.
Khi mọi người thấy vua đã ăn xong quả xoài đầu tiên, họ biết là họ có thể ăn những trái còn lại. Chẳng mấy chốc tất cả những trái xoài trên cây đã bị ăn sạch. Khi không còn lại trái nào, thậm chí có người còn bẻ cành và vặt lá để tìm thêm.
Khi Vua Quả Lành đi trở lại ngài trông thấy cây đã bị bẻ cành lá trơ trụi và gần như là bị phá hỏng. Trong khi đó cây không trái thì vẫn tươi đẹp như trước, với những chiếc lá xanh tươi bóng bẩy dưới ánh mặt trời.
Vua hỏi các quan đại thần, “Chuyện gì đã xảy ra ở đây?” Họ cắt nghĩa, “Từ khi hoàng thượng ăn quả đầu tiên, dân chúng nghĩ là họ được tha hồ ăn những trái còn lại. Trong khi vạch tìm thêm trái họ đã làm gẫy những cành và lá. Cây còn lại đã không bị hư hại gì và vẫn tươi đẹp, vì nó không có trái.”
Điều này làm vua rất buồn. Ngài nghĩ, “Cây đầy trái này đã bị phá hỏng, nhưng cây không trái đã được chừa lại. Vương vị của ta cũng giống như cây xum xuê trái – hể càng nhiều quyền lực và của cải thì càng sợ bị mất chúng. Cuộc sống thánh thiện của một tu sĩ đơn giản thì giống như cây không trái – từ bỏ quyền lực và của cải dẫn đến thong dong không sợ hãi.”
Thế là Đấng Giác Ngộ quyết định từ bỏ gia sản và quyền lực của mình, bỏ lại vinh quang của vương quyền, từ bỏ việc liên tục bảo vệ vị trí của mình. Thay vào đó ngài muốn đem mọi nỗ lực vào việc sống một đời sống thanh tịnh của một tỳ khưu đơn giản. Chỉ có như vậy thì ngài mới có thể tìm thấy hạnh phúc dài lâu cho mình, và còn có thể sẽ đem nó đến cho người khác nữa.
Vua trở về thành phố. Đứng bên cạnh cổng hoàng cung, vua cho gọi vị tổng tư lệnh cúa quân đội đến gặp. Ngài nói, “Kể từ bây giờ, không ai được thấy mặt ta ngoại trừ một người hầu đem thức ăn và một người hầu đem nước và bàn chải đánh răng đến. Ông và các quan đại thần sẽ cai trị đất nước dựa theo luật lệ cũ. Ta sẽ sống như một nhà sư đơn giản ở trên tầng lầu cao nhất của hoàng cung.”
Sau khi ngài sống như vậy một thời gian, dân chúng bắt đầu thắc mắc về sự thay đổi của ngài. Một ngày kia, một đám đông đã tụ họp trước sân triều. Họ nói, “Vua của chúng ta không còn giống như trước nữa. Ngài không còn muốn xem múa hát hay coi những trận đấu bò và đấu voi hay đi đến vườn thượng uyển và ngắm nhìn những con ngỗng trên hồ. Tại sao ngài không nói chuyện với chúng ta?” Họ hỏi những người hầu đem thức ăn và nước đến cho vua, “Ngài có nói gì với các ông không?”
Họ nói, “Ngài đang cố gắng giữ tâm trí mình đừng suy nghĩ về những điều mong muốn, để cho tâm được bình an và tinh khiết như tâm của những người bạn cũ của ngài, những vị Phật Im Lặng. Ngài đang cố gắng để phát triển tính trong sạch của những người không sở hữu gì ngoại trừ những phẩm chất tốt. Đến một lúc chúng ta thậm chí còn nghe ngài tuyên bố rằng, “Ta có thể chỉ nghĩ đến những vị Phật Im Lặng, không còn theo đuổi những vui thích bình thường. Sự tự do của họ làm cho họ thật sự hạnh phúc – Ai sẽ đem ta đến nơi họ sống?”
Vua Quả Lành đã sống trên tầng lầu cao nhất của cung điện, cố gắng làm một nhà sư đơn giản chỉ được khoảng bốn tháng. Đến lúc đó ngài nhận thấy rằng có quá nhiều điều chi phối tâm trí ở vương quốc Mithila xinh đẹp. Ngài thấy chúng như một chướng ngại bên ngoài cản bước ngài trên đường tìm kiếm bình yên và chân lý bên trong. Vì thế ngài quyết định lần cuối là sẽ từ bỏ tất cả và đi đến rặng Himalayas (Hi Mã Lạp Sơn) để sống đời một nhà sư ẩn dật trong rừng thẩm.
Vua cho người đem những chiếc cà sa vàng và bình bát khất thực của tỳ khưu đến. Và ra lệnh cho thợ hớt tóc trong cung đến cạo râu tóc cho mình. Rồi sáng sớm hôm sau, ngài bắt đầu rời bước xuống thang lầu của hoàng cung.
Trong khi đó Hoàng hậu Sivali đã nghe về kế hoạch của ngài. Bà triệu tập 700 phi tần xinh đẹp nhất của hậu cung và đem họ đi lên cầu thang. Họ đi ngang qua Vua Quả Lành, lúc đó đang đi xuống, nhưng không nhận ra ngài vì ngài mang y phục như một nhà sư. Khi họ lên tới tầng lầu cuối, Hoàng hậu Sivali không thấy ai, chỉ có râu tóc đã cạo của vua còn nằm vương vãi ở đó. Ngay lập tức bà nhận ra rằng vị sư vô danh kia phải là chồng của bà.
Tất cả 701 hoàng hậu và phi tần cùng chạy xuống thang lầu ra đến sân hoàng cung. Nơi đó họ đi theo nhà vua nay đã thành sư. Theo lời Hoàng hậu chỉ bảo, tất cả bọn họ đều xỏa tóc xuống và cố gắng lôi kéo vua ở lại. Họ khóc lóc, nài nỉ vua, “Tại sao ngài lại làm như vậy?” Rồi tất cả dân chúng trong thành phố cũng trở nên xúc động và buồn bã và bắt đầu đi theo ngài. Họ đã khóc tức tưởi và kêu lên, “Chúng tôi nghe nói là vua của chúng tôi đã trở thành một nhà sư đơn giản. Làm sao chúng tôi có thể tìm được một bậc minh quân như vậy nữa?
Cảnh 700 phi tần của hậu cung với khăn choàng duyên dáng xinh đẹp và nữ trang lộng lẩy, khóc lóc van xin, đã không làm thay đổi được ý chí của Đấng Giác Ngộ. Vì ngài đã thực hiện quyết định của mình và cương quyết theo đến cùng. Ngài đã từ bỏ chiếc bình dầu thánh bằng vàng của đất nước, một biểu hiệu quyền lực của hoàng tộc đã giao phó cho ngài. Thay vào đó ngài nay chỉ mang theo chiếc bình bát bằng đất sét của một nhà sư khiêm tốn, một người đi tìm Chân Lý.
Cuối cùng Hoàng hậu Sivali ngừng khóc. Bà thấy rằng các phi tần xinh đẹp từ hậu cung đã không cản được chồng bà. Vì thế bà đến gặp vị tư lệnh quân đội. Bà bảo ông hảy đốt cháy những căn nhà nhỏ cũ kỹ và những tòa nhà lớn bỏ hoang trên đường vua đi ngang qua. Bà nói ông hảy đốt cháy những buị cây xanh ở nhiều nơi khác nhau trong thành phố, để tạo nên nhiều đám khói.
Khi việc này đã được thực hiện, hoàng hậu nằm phủ phục dưới chân vua và khóc, “Kinh thành Mithila đang bị cháy, bẩm hoàng thượng! Các toà nhà đẹp đẽ với những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, ngọc ngà châu báu, kho tàng đang bị phá hủy. Hảy trở về, hỡi hoàng thượng, và bảo vệ gia tài của ngài trước khi quá trễ.”
Nhưng Đấng Giác Ngộ trả lời, “Những thứ đó thuộc về người khác. Ta không có gì cả. Nên ta không sợ mất bất cứ vật gì. Và dù có mất tài sản nó không thể làm cho ta buồn. Tâm hồn của ta rất là bình an.”
Rồi ngài rời thành phố qua cổng phía bắc, vẫn bị theo sau bởi 701 vị hoàng hậu và phi tần. Theo lệnh của Hoàng hậu Sivali, họ chỉ cho ngài thấy những ngôi làng bị cướp phá. Có những kẻ mang vũ khí đang tấn công, trong khi đó vài người khác thì dường như bị thương và chết. Nhưng cái trông giống như máu đó chỉ là phẩm đỏ, và người chết chỉ là giả tạo. Vua biết nó chỉ là mưu kế, vì thật ra đã không có trộm cướp hay kẻ vơ vét phá hoại ở trong xứ ngay từ đầu.
Sau khi đi đã khá xa, vua ngừng lại và hỏi các quan đại thần của ngài, “Vương quốc này là của ai?” “Của ngài, bẩm chúa công,” họ nói. “Vậy thì hảy phạt bất cứ ai đi qua lằn ranh này,” vua ra lệnh khi ngài vẽ xong một lằn ngang qua con đường. Không một ai, kể cả Hoàng hậu Sivali, dám bước qua lằn ranh. Nhưng khi bà thấy vua tiếp tục đi trên đường, lưng của ngài đối diện bà, hoàng hậu đã đau buồn thảng thốt. Vừa đấm ngực bà vừa bước qua khỏi lằn vạch. Một khi lằn ranh đã bị vượt qua, đám đông không còn sợ nữa và họ đi theo bà.
Hoàng hậu đã giữ quân đội với bà và toàn bộ đám đông tiếp tục theo sau Vua Quả Lành. Ngài đi tiếp thêm nhiều dặm đường, hướng về rặng Himalayas ở phía bắc.
Trong khi đó, có một vị sư với trình độ tu tập rất thâm hậu tên là Narada, sống trong một hang động vàng ở Himalayas. Ông là một người rất thông thái. Qua nỗ lực thiền định thâm sâu, ông đã đạt được quyền năng siêu nhiên mà chỉ những vị thánh nhân cao nhất mới có. Sau khi thiền định trong một trạng thái tĩnh lặng tuyệt vời suốt một tuần lễ ông đột nhiên la lớn, “Hạnh phúc gì đây! Ồ, hạnh phúc gì đây!”
Rồi ông dùng khả năng đặc biệt của mình, nhìn khắp mọi nơi trong nước Ấn Độ để coi có người nào đang chân thành tìm kiếm hạnh phúc giống như vậy, thong dong tự tại không vướng bận với cuộc sống thường ngày. Ông chỉ thấy Vua Quả Lành, vị Bồ Tát mà một ngày nào đó sẽ trở thành Phật. Ông thấy người ấy đã từ bỏ tất cả quyền lực trần gian của mình. Thế mà ngài vẫn bị chặn lại, vẫn bị cản trở bởi chướng ngại của đám đông đi theo từ kiếp sống trước của ngài. Để có thể giúp đỡ và khuyến khích ngài, ông dùng pháp thuật bay đến trước mặt vua.
Ông hỏi Vua Quả Lành, “Này tỳ khưu, tại sao đám đông ồn ào này đi theo ông vậy?” Vua trả lời, “Tôi đã từ bỏ vương quyền và xa rời thế giới để vun bồi đức hạnh. Đó là lý do tại sao những người từng là thân bằng quyến thuộc của tôi đi theo tôi, mặc dù rằng tôi rời xa họ trong êm thắm.”
Vị thánh sư nói, “Đừng có tự tin quá, tỳ khưu à. Ông chưa hoàn toàn thành công trong việc rời khỏi thế giới đâu. Bởi vì vẫn còn những trở ngại bên trong ông. Đó là “Năm Chướng Ngại” – những ái dục bình thường của thị giác, âm thanh và vân vân; sự mong muốn làm hại người khác; sự lười biếng, sự lo âu; sự nghi ngờ không chính đáng. Vì vậy, hảy thực tập những đức tính Thanh Tịnh Hoàn Hảo, hảy kiên nhẫn và đừng nghĩ quá nhiều hoặc quá ít về mình.
Ông nói lời cuối, “Đây là lời cầu chúc của ta cho ông – mong rằng lòng nhân từ, kiến thức và sự Thật sẽ bảo vệ ông trên con đường ông đi.” Rồi vị thánh sư biến mất để về lại hang động vàng của ông.
Nhờ vào lời khuyên khôn khéo này, Vua Quả Lành càng ít quan tâm đến đám đông bên ngoài, và nhận ra rầng cản trở lớn nhất chính là những chướng ngại bên trong.
Trong khi đó Hoàng hậu Sivali lại quỳ dưới chân ngài một lần nữa. Bà van nài, “Hoàng thượng ơi, xin ngài lắng nghe tiếng van khóc của những người quanh đây. Trước khi rời xa họ để mưu cầu chân lý, xin hảy làm an lòng họ bằng cách trao vương miện cho con trai ngài để nó thay ngài cai trị đất nước.”
Ngài trả lời, “Ta đã để lại cận thần, bạn bè, thân quyến và xứ sở. Hoàng hậu đừng lo, các quý tộc của Mithila dậy dổ Hoàng tử Trường Thọ rất tốt, và họ sẽ bảo vệ và ủng hộ cả hai người.”
Bà vẫn than vãn, “Ôi hoàng thượng, để trở thành một tỳ khưu ngài làm cho thiếp mất đi một người chồng. Thật là xấu hổ! Thiếp phải làm gì đây?”
Vua nói, “Chỉ cần chăm lo dậy dỗ cho hoàng tử đừng có những ý nghĩ, lời nói hay hành động xấu. Nếu không nàng sẽ tự đem những hậu quả đau buồn đến cho mình.”
Khi mặt trời lặn, hoàng hậu dựng lều trại trong khi vua đi vô rừng ngủ dưới một gốc cây. Ngày hôm sau bà tiếp tục đi theo vua, đem quân đội theo với bà.Họ đến một thành phố nhỏ.
Tình cờ có một người đàn ông trong thành phố vừa mua được một miếng thịt ngon ở tiệm bán thịt. Sau khi nấu chín ông để nó trên bàn cho nguội, thì một con chó hoang đã ngoạm lấy nó rồi bỏ chạy. Ông ta rượt theo con chó đến tận cổng phía nam của thành phố. Đến đó thì ông ta bỏ cuộc vì quá mệt để đi tiếp.
Con chó trên đường trốn chạy đã cắt ngang qua đường đi của Vua Quả Lành và Hoàng hậu Sivali. Thấy đông người, con chó sợ hãi nên bỏ lại miếng thịt trên đường rồi chạy mất. Vua thấy đó là một miếng thịt ngon và không biết ai là chủ nhân của nó. Vì vậy ngài chùi sạch miếng thịt rồi bỏ vô bát khất thực của mình và ăn.
Hoàng hậu Sivali vì đã quen ăn những món cao lương mỹ vị ở hoàng cung nên cảm thấy lợm giọng. Bà nói với vua, “Ngay cả khi gần chết, một người quyền quý cũng sẽ không ăn thức ăn thừa của chó! Ăn những thức ăn gớm ghiếc như vậy sẽ làm cho ngài bị mất đi phẩm giá!” Nhưng vua đã trả lời rằng, “Sự hảnh diện quá đáng của hoàng hậu làm cho nàng không nhìn thấy giá trị của miếng thịt này.. Nếu được đón nhận đúng cách, tất cả thực phẩm đều sạch sẽ và lành mạnh!”
Khi họ tiếp tục lên đường đi đến thành phố, Vua Quả Lành suy nghĩ, “Hoàng hậu Sivali cứ đi theo mình mãi. Đây thật là điều xấu cho một nhà sư. Người ta sẽ nói rằng, “Ông ấy đã từ bỏ vương quốc của ông nhưng lại không thể bỏ được vợ ông!” Ta phải tìm cách dậy cho bà ấy biết rằng bà phải đi về.”
Vừa lúc đó họ trông thấy một bầy trẻ đang chơi gần bên. Trong đám đó có một em gái có đeo một chiếc vòng ở một bên cổ tay và hai chiếc ở bên cổ tay kia. Nghĩ rằng em là một đứa bé thông minh nên vua bèn hỏi, “Này cháu bé, tại sao một tay của cháu làm ra tiếng động mỗi khi di chuyển trong khi tay kia thì không?”
Đứa bé gái trả lời, “Thưa sư, đó là vì trên một tay thì có hai chiếc vòng, trong khi tay kia thì chỉ có một. Tay có hai chiếc thì chiếc thứ nhì chạm vào chiếc thứ nhất và làm ra tiếng động. Tay chỉ có một chiếc vòng nên giữ được yên lặng. Vì thế nếu ngài muốn được hạnh phúc ngài phải học cách tự hài lòng khi ở một mình.”
Bồ Tát liền nói với hoàng hậu, “Nàng có nghe câu nói khôn ngoan của cháu bé này không? Là một tỳ khưu, ta thật là xấu hổ khi để cho nàng đứng cạnh ta trước mặt cô bé. Vì vậy nàng hảy đi đường nàng và ta sẽ đi đường ta. Chúng ta không còn là vợ chồng nữa – chào tạm biệt!”
Hoàng hậu đồng ý và họ đã đi hai đường riêng rẽ. Nhưng bà trở nên đau buồn nữa và quay lại đi theo vua. Họ cùng đi vào thành phố, để sư có thể đi khất thực.
Họ đến trước căn nhà của một người làm cung tên. Họ coi ông nhúng ướt mũi tên còn nóng đỏ, và kéo nó thẳng ra trong khi nhìn xuống thân cung chỉ với một mắt mở. Vua hỏi ông, “Ông bạn, để làm cho mũi tên hoàn toàn thẳng, tại sao ông nhìn nó với một mắt mở và mắt kia đóng lại?”
Người làm cung tên trả lời, “Với hai mắt mở, cảnh thấy được từ mắt thứ hai sẽ làm phân tâm. Chỉ bằng cách tập trung cái nhìn của tôi trong một mắt thì tôi mới có thể thật sự nhìn thấy độ thẳng của cung tên. Vì thế nếu ngài muốn được hạnh phúc ngài phải học cách tự hài lòng khi ở một mình.”
Vua nhận thực phẩm khất thực và rồi họ rời thành phố. Vua nói với hoàng hậu, “Nàng có nghe cùng một câu nói khôn ngoan từ người thợ nhà nghề đó không? Là một tỳ khưu, ta thật là xấu hổ khi để cho nàng đứng cạnh ta trước mặt ông ấy. Vì vậy nàng hảy đi đường nàng và ta sẽ đi đường ta. Chúng ta không còn là vợ chồng nữa – chào tạm biệt!” Nhưng bà vẫn theo ông.
Rồi vị Đaị Thánh Nhân cắt một thân cây cỏ cao. Ngài nói với Hoàng hậu Sivali, “Giống như hai phần của thân cây cỏ cao này không thể nối lại với nhau, ta sẽ không kết hợp với nàng trong hôn nhân nữa. Hai chúng ta không thể kết nối cùng nhau nữa. Như một thân cây cỏ còn nguyên chưa cắt, hảy sống một mình, người vợ cũ Sivali của ta.”
Khi nghe điều này hoàng hậu đã nổi điên lên vì bực tức và đau khổ. Bà tự đánh mình với cả hai tay cho đến khi bà té xuống đất và bất tỉnh. Nhìn thấy vậy, Bồ Tát đã nhanh chóng rời đường chính. Ngài xoá bỏ hết dấu chân và biến mất vào rừng.
Trước đó ngài đã từ bỏ quyền lực và sự giàu có của một vị vua. Giờ đây ngài lại từ bỏ quyền lực và lòng ham muốn của một người chồng. Cuối cùng ngài đã được tự do để theo con đường của một vị sư rong ruổi đi tìm Chân Lý. Ngài đã đến được Himalayas và chỉ trong vòng một tuần lễ ngài đã có thể triển khai được những trí năng đặc biệt. Ngài đã chẳng bao giờ trở lại thế giới bình thường nữa.
Trong khi đó các quan đại thần, tuy đi theo nhưng vẫn giữ một khoảng cách, nay thấy hoàng hậu bất tỉnh nên đến gần để xem sao. Họ rẩy nước lên mặt bà và lay bà tỉnh dậy. Hoàng hậu hỏi, “Hoàng thượng chồng của tôi ở đâu?” Họ nói, “Chúng thần không biết. Hoàng hậu có biết không?” Trong cơn hoảng loạn bà ra lệnh, “Đi tìm ông ấy ngay!” Họ chia nhau tìm kiếm, nhung dĩ nhiên là ngài đã đi xa rồi.
Khi Hoàng hậu Sivali hồi phục từ nỗi lo sợ và đau buồn, bà nhận ra rằng mình không còn giận dử, hờn ghen hay là hận thù với sư Quả Lành. Trái lại bà cảm phục ông hơn bao giờ kể từ ngày họ gặp nhau, khi bà đưa tay cho ông nắm và dẫn ông lên ngai vàng.
Hoàng hậu cho xây tượng đài để thể hiện lòng tôn kính vua dũng cảm Quả Lành ở bốn chỗ: nơi ngài đã nói chuyện với thánh nhân Narada lúc vị này xuất hiện ở trên không, nơi ngài đã ăn miếng thịt ngon để lại bởi con chó, nơi ngài đã đặt câu hỏi với em bé gái, và với người làm mủi tên.
Bà cho tổ chức lễ đăng vương của Hoàng tử Trường Thọ ở bên cạnh hai cây xoài trong khu vườn hoàng gia. Rồi cùng với quân đội và những người tham dự buổi lễ, họ đi trở về kinh thành Mithila.
Mặc dù phải đối mặt với chính mình, Hoàng hậu Sivali đã học được nhiều điều qua việc đeo đuổi và cuối cùng là mất chồng mình, Vua Quả Lành. Và rồi bà cũng đã nếm được mùi vị của tự do!
Vị phu nhân khôn ngoan đó đã từ bỏ trách nhiệm hoàng gia của mình. Bà về hưu để tu thiền ở khu vườn gần mấy cây xoài. Với nhiều nỗ lực, bà đạt được trạng thái thiền định cao và nhờ vậy mà bà đã được tái sinh vào cõi trời.
Ý chính: Làm gia tăng quyền lực dễ hơn là từ bỏ nó.
************
King Fruitful and Queen Sivali
Giving Up Power (Chapter 3.)
This story happened very long ago, at a time when people lived much longer lives, even 10,000 years! After King Fruitful had ruled for about 7,000 years, it just so happened that the royal gardener brought him an especially wonderful collection of fruits and flowers. He liked them so much that he wanted to see the garden. So the gardener arranged and decorated the garden, and invited him to visit.
The king set out on a royal elephant, followed by the entire court and many of the ordinary people of Mithila. When he entered through the garden gate he saw two beautiful mango trees. One was full of perfectly ripe mangoes, while the other was completely without fruit. He took one of the fruits and enjoyed its delicious sweet taste. He decided to eat more of them on his return trip.
When the people saw that the king had eaten the first fruit, they knew it was all right for them to eat. In no time at all the mangoes had been eaten. When the fruits were gone, some even broke the twigs and stripped the leaves looking for more.
When King Fruitful returned he saw that the tree was stripped bare and nearly destroyed. At the same time the fruitless tree remained as beautiful as before, its bright green leaves shining in the sunlight.
The king asked his ministers, "What has happened here?" They explained, "Since your majesty ate the first fruit, the people felt free to devour the rest. Searching for more fruits they even destroyed the leaves and twigs. The fruitless tree was spared and remains beautiful, since it has no fruit."
This saddened the king. He thought, "This fruitful tree was destroyed, but the fruitless one was spared. My kingship is like the fruitful tree - the more the power and possessions, the greater the fear of losing them. The holy life of a simple monk is like the fruitless tree - giving up power and possessions leads to freedom from fear."
So the Great Being decided to give up his wealth and power, to leave the glory of kingship behind, to abandon the constant task of protecting his position. Instead he decided to put all his effort into living the pure life of a simple monk. Only then could he discover lasting deep happiness, which would spread to others as well.
He returned to the city. Standing next to the palace gate, he called for the commander of the army. He said, "From now on, no one is to see my face except a servant bringing food and a servant bringing water and toothbrush. You and the ministers will rule according to the old law. I will live as a simple monk on the top floor of the palace."
After he had lived for a while in this way, the people began to wonder about the change in him. One day a crowd gathered in the palace courtyard. They said, "Our king is not as he was before. He no longer wants to see dancing or listen to singing or watch bull fights and elephant fights or go to his pleasure garden and see the swans on the ponds. Why does he not speak to us?" They asked the servants who brought the king his food and water, "Does he tell you anything?"
They said, "He is trying to keep his mind from thinking about desirable things, so it will be peaceful and wholesome like the minds of his old friends, the Silent Buddhas. He is trying to develop the purity of the ones who own nothing but good qualities. Once we even heard him say out loud, "I can think only of the Silent Buddhas, free from chasing ordinary pleasures. Their freedom makes them truly happy - who will take me to where they live?"
King Fruitful had been living on the top floor of the palace trying to be a simple monk for only about four months. At that point he realized there were too many distractions in the beautiful kingdom of Mithila. He saw them as only an outer show keeping him from finding inner peace and Truth. So he decided, once and for all, to give up everything and become a forest monk and go live in the Himalaya Mountains.
He had the yellow robes and begging bowl of a monk brought to him. He ordered the royal barber to shave his head and beard. Then early the next morning, he began walking down the royal staircase.
Meanwhile Queen Sivali had heard about his plans. She gathered together the 700 most beautiful queens of the royal harem and took them up the staircase. They passed King Fruitful coming down, but didn't recognize him dressed as a monk. When they got to the top floor, Queen Sivali found it empty, with only the king's shaven hair and beard still there. Instantly she realized the unknown monk must be her husband.
All 701 queens ran down the stairs to the palace courtyard. There they followed the king-turned-monk. As Queen Sivali had instructed them, they all let down their hair and tried to entice the king to stay. They cried and cried, pleading with him, "Why are you doing this?" Then all the people of the city became very upset and began following him. They were weeping as they cried out, "We have heard that our king has become a simple monk. How can we ever find such a good and fair ruler again?"
The 700 harem queens, wearing all their lovely veils and rich jewels, crying and begging, did not change the mind of the Enlightenment Being. For he had made his decision and was determined to stick to it. He had given up the gold anointing bowl of state, which had passed the power of the royal family to him. Instead he now carried only the plain clay-begging bowl of a humble monk, a seeker of Truth.
Finally Queen Sivali stopped crying. She saw that the beautiful queens from the harem had not stopped her husband. So she went to the commander of the army. She told him to set a fire among the slum houses and abandoned buildings that were in the king's path. She told him to set fires of brush and wet leaves in different areas of the city, to make a lot of smoke.
When this was done she fell to the ground at the king's feet and cried, "All Mithila is burning, my lord! The beautiful buildings with their valuable art works, precious metals and jewels, and treasures are all being destroyed. Return, oh king, and save your riches before it is too late."
But the Enlightenment Being replied, "All these things belong to others. I own nothing. So I'm not afraid of losing anything. And losing things can't make me sad. My mind is at peace."
Then he left the city through the northern gate, still followed by all 701 queens. According to Queen Sivali's instructions, they showed him villages being robbed and destroyed. There were armed men attacking, while others seemed wounded and dead. But what looked like blood was really just red dye, and the dead were only pretending. The king knew it was a trick, since there were no actual robbers and plunderers in the kingdom in the first place.
After walking still farther, the king stopped and asked his ministers, "Whose kingdom is this?" "Yours, oh lord," they said. "Then punish any who cross this line," he ordered, as he drew a line across the road. No one, including Queen Sivali, dared to cross the line. But when she saw the king continuing on down the road, with his back to her, she was grief-stricken. Beating her breast she fell across the line. Once the line was crossed, the whole crowd lost its fear and followed her.
Queen Sivali kept the army with her as the entire crowd kept following King Fruitful. He continued for many miles, heading for the Himalayas in the north.
Meanwhile, there was a very advanced monk named Narada, who lived in a golden cave in the Himalayas. He was a very wise man. By great mental effort he had gained supernatural powers that only the highest holy men are said to have. After meditating in a wonderful trance for a full week he suddenly shouted, "What happiness! Oh what happiness!"
Then, using his special powers, he looked out over all India to see if there was anyone who was sincerely seeking that same happiness, free of all the distractions of the world. He saw only King Fruitful, the Bodhisattva who would some day become the Buddha. He saw that he had given up all his earthly power. And yet he was still blocked, still hindered by the obstacle of the crowd following him from his previous worldly life. In order to help and encourage him, he magically flew through the air and floated in front of the king.
He asked King Fruitful, "Oh monk, why is this crowd with all its noise following you?" The king replied, "I have given up the power of kingship and left the world for good. This is why my former subjects follow me, even though I leave them happily."
The holy monk said, "Don't be too confident, oh monk. You haven't succeeded in leaving the world quite yet. For there are still obstacles inside of you. These are the 'Five Hindrances' - the desire for ordinary pleasures of sight, sound and so forth; the desire to harm others; laziness; nervous worrying; and unreasonable doubts. Therefore, practice the Perfections, be patient, and don't think either too much or too little of yourself."
He finished by saying, "I give you my blessing - may goodness, knowledge and Truth protect you on your way." Then he disappeared and reappeared back in his golden cave.
Due to this wise advice, King Fruitful became even less concerned with the crowd outside, realizing that the greatest obstacles, or hindrances, are the ones inside.
Meanwhile Queen Sivali fell at his feet once again. She pleaded, "Oh king, hear the wails of your subjects. Before leaving them for good, comfort them by crowning your son to rule in your place."
He replied, "I have already left my subjects, friends, relatives and my country behind. Have no fear, the nobles of Mithila have trained Prince Longlife well, and they will protect and support you both."
She continued, "Oh king, by becoming a monk you are leaving me without a husband. What a shame! What am I to do?"
He said, "Only be careful to teach the prince no unwholesome thoughts, words or deeds. Otherwise you would bring painful results to yourself."
As the sun set, the queen made camp while the king went into the forest to sleep at the foot of a tree. The next day she continued to follow him, bringing the army with her. They approached a small city.
It just so happened that a man in the city had bought a fine piece of meat from a butcher. After cooking it he placed it on a table to cool, when a stray dog grabbed it and ran off. The man followed the dog as far as the southern gate of the city. There he gave up because he was too tired to continue.
The escaping dog crossed the path of King Fruitful and Queen Sivali. Frightened by them, he dropped the meat on the road. The king saw that it was a good piece of meat and that the real owner was unknown. So he cleaned the meat, put it in his begging bowl, and ate it.
Queen Sivali, who was used to eating the delicacies of the palace, was disgusted. She said to him, "Even at the point of death a high class person would not eat the leavings of a dog! Eating such disgusting food shows you are completely unworthy!" But he replied, "It is your own vanity that keeps you from seeing the value of this meat. If rightfully obtained, all food is pure and wholesome!"
As they continued to approach the city, King Fruitful thought, "Queen Sivali keeps following me. This is a bad thing for a monk. People say, 'He has given up his kingdom, but he can't get rid of his wife!' I must find a way to teach her she must go."
Just then they came upon some playing children. Among them was a girl with one bracelet on one wrist and two on the other. Thinking she was a wise child, the king asked her, "My child, why does your one arm make noise with every movement, while the other does not?"
The little girl replied, "Oh monk, it's because on one arm there are two bracelets, while on the other there is only one. Where there are two, it's the second that clangs against the first and makes noise. The arm with only one bracelet remains silent. So if you would be happy, you must learn to be contented when alone."
The Bodhisattva said to the queen, "Do you hear the wisdom of this child? As a monk I would be ashamed to let you stay with me in front of her. So you go your way and I'll go mine. We are husband and wife no more - good-bye!"
The queen agreed and they took separate paths. But she became grief-stricken again and returned to follow the king. They entered the city together, so he could collect alms food.
They came to the house of an arrow maker. They watched him wet the red-hot arrow, and straighten it while sighting down the shaft with only one eye open. The king asked him, "Friend, to make the arrow perfectly straight, why do you view it with one eye open and the other shut?"
The arrow maker answered, "With both eyes open, the wide view of the second eye is distracting. Only by concentrating my view in one eye can I truly see the straightness of the arrow. So if you would be happy, you must learn to be contented when alone."
The king collected alms food and then they left the city. He said to the queen, "Did you hear the same wisdom again from that craftsman? As a monk I would be ashamed to let you stay with me in front of him. So you go your way and I'll go mine. We are husband and wife no more - good-bye!" But still she followed him.
Then the Great Being cut a stalk of tall grass. He said to Queen Sivali, "Just as the two pieces of this stalk of grass cannot be joined again, so I will not join you again in the marriage bed! We two can never be joined together again. Like a full stalk of uncut grass, live on alone, my ex-wife Sivali."
On hearing this the queen went crazy with shock and grief. She beat herself with both hands until she fell to the ground - completely unconscious. Realizing this, the Bodhisattva quickly left the roadway. He erased his footsteps and disappeared into the jungle.
First he had given up the power and wealth of a king. Now he had given up the power and desire of a husband. At last he was free to follow the path of a Truth-seeking wandering monk. He made his way to the Himalayas and in only one week he was able to develop special mental powers. Never again did he return to the ordinary world.
Meanwhile the royal ministers, who had been following at a distance, reached the fainted queen. They sprinkled water on her and revived her. She asked, "Where is my husband the king?" They said, "We don't know. Don't you know?" In a panic she ordered, "Search for him!" They looked and looked, but of course he was gone.
When Queen Sivali recovered from her fear and grief, she realized she felt no anger, jealousy or vengeance towards the monk Fruitful. Instead she admired him more than at any time since the day they met, when she gave him her hand and led him to the throne.
She had monuments erected to honor the courageous King Fruitful on four sites: where he had spoken with the floating holy man Narada, where he had eaten the good meat left by the dog, where he had questioned the little girl, and also the arrow maker.
Beside the two mango trees in the royal garden, she had Prince Longlife crowned as the new king. Together with the army and crowds of followers, they returned to the city of Mithila.
In spite of herself, Queen Sivali had learned something by following, and finally losing, her husband King Fruitful. She too had tasted freedom!
The wise lady gave up her royal duties. She retired to meditate in the garden by the mango trees. With great effort, she gained a high mental state leading to rebirth in a heaven world.
The moral is: It's easier to gain power than to give it up.
Subscribe to:
Posts (Atom)