Tuesday, April 30, 2013
Phật Học Vấn Đạo - Quán niệm về cái chết sẽ đến có mâu thuẫn với tinh thần sống trong hiện tại của thiền quán chăng?
Hỏi: Quán niệm về cái chết sẽ đến có mâu thuẫn với tinh thần sống trong hiện tại của thiền quán chăng?”
(TT Tuệ Siêu giảng trong lớp Diệu Pháp, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Tuệ Siêu trả lời: Quán niệm về sự chết sẽ đến, điều đó không có mâu thuẫn gì với tinh thần sống trong hiện tại của thiền quán cả. Có hai lý do để chúng ta nói điều đó.
- Một là vì đề tài quán niệm sự chết là một đề tài do Đức Phật thuyết. Mà Đức Phật là bậc Tối Thượng Y Vương, là bậc thầy thuốc trị những căn bịnh phiền não của chúng sanh. Những điều Đức Phật thuyết không bao giờ có sự sai sót. Với niềm tin chúng ta đặt như vậy, chúng ta sẽ thấy rằng trong việc chúng ta suy quán về sự chết cho đề tài Đức Phật ngài đã thuyết. Điều đó không phải là mâu thuẫn với tinh thần sống trong hiện tại. Vì nếu có sự mâu thuẫn và có sự lệch lạc, không có tác dụng thì Đức Phật ngài không hề dạy. Đó là điểm thứ nhứt chúng ta muốn trình bày. Căn cứ vào niềm tin của người khác, của hành giả, nếu hành giả nào có niềm tin
- Điểm thứ hai: Nếu chúng ta không khéo quán niệm thì việc quán niệm sự chết của chúng ta mới đi ngược lại với tinh thần sống trong hiện tại của thiền quán. Thí dụ bây giờ chúng ta đang sống sờ sờ chúng ta không nhìn thấy rõ trong hiện tại mà chúng ta chỉ nghĩ đến năm năm, mười, hai mươi năm sau chúng ta sẽ chết như thế nào, thì như vậy chúng ta mới bỏ đi cái hiện tại. Còn ở đây thưa quí vị, nếu nói theo A Tỳ Đàm thì sự chết có ba cách được giải thích trong kinh điển, thì Đức Phật ngài dạy rằng:
-" Này các tỳ kheo nếu nói sự chết là sự diệt, sự đọan diệt, tiêu mất của danh và sắc trong mỗi mỗi một sát na, sanh, trụ, diệt thì các ngươi chết từng giờ, từng phút, từng giây, từng khắc".
Còn nói chết là sự chấm dứt thọ mạng, chấm dứt mạng quyền của kiếp sống hiện tại này thì như vậy tùy theo tuổi thọ mà chúng sanh chết sớm hoặc muộn. Còn nếu nói sự chết là sự đọan diệt hòan tòan thân khổ ngũ uẩn này, không có sự tái sanh nữa thì chỉ có vị A la Hán mới thật là chết.
Như vậy trong trường hợp chúng ta tu tập về thiền quán và chúng ta qúan niệm về cái chết sẽ đến, ta nên ý thức trạng thái tiêu diệt của mỗi một sát na tâm của mỗi một sát na danh và sắc thì chúng ta thấy rõ sự biến diệt của sát na đó. Trong mỗi sự biến diệt đó, chúng ta đều ghi nhận đó là sự chết của sát na danh và sắc. Chính do nhìn thấy rõ như thế này trong hiện tại mà chúng ta ý thức được cuộc sống này không bền vững và chắc chắn cái chết sẽ đến.
Thì chúng ta tu tập đề tài quán niệm sự chết, chúng ta có thể suy xét nhiều cách nhưng mà cách nào cũng đi qua cái ngõ là chúng ta suy xét trạng thái biến diệt của từng sát na danh sắc như trong hiện tại để chúng ta có thể cảm nhận được trạng thái tiêu diệt ở tương lai. Nếu như vậy thì việc chúng ta sống trong hiện tại không phải là khó khăn, mâu thuẫn với đề tài niệm sự chết và ngược lại khi chúng ta niệm sự chết cũng không phải là mâu thuẫn với tinh thần thiền quán sống trong hiện tại.
Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử
Đừng nói chiến tranh của thế giới loài người, ngay bản thân trong đời sống của chúng ta, có bao nhiêu lần vì những va chạm trong đời sống này, chúng ta phung phí thì giờ, đáng lẻ chúng ta để thì giờ đó làm được những việc nên làm, đáng lẽ trong 24 giờ ít nhất chúng ta có 5, 3 tiếng đồng hồ để đọc kinh nghe pháp và làm những công việc ý nghĩa, chúng ta không làm như vậy, chúng ta ngồi đó để mà nhai đi nhai lại giống như con bò nhai cỏ, ăn xong thì về chuồng nhai lại, lặp đi lặp lại trong lòng những ý tưởng hận thù, những ý tưởng này nó chỉ có vậy thôi, nó không có gì mới mẻ hết, mình bị người khác xúc phạm, mình bị người khác lấy mất đi, mình bị người khác đánh bại, mình bị người khác chửi mắng v.v… và chính vì vậy chúng ta tiếp tục và chúng ta làm được cái gì, hay chỉ muốn gây khổ cho người khác thôi, làm sao cho người khác khổ như mình, mình mới hả giận. Và cứ với ý này thì cái giòng oan khiên lại tiếp tục, lại tiếp tục lập đi lập lại ở trong đời sống mình.
TT Giác Đẳng – Kinh Pháp Cú kệ 3 – 4, Minh Hạnh chuyển biên
Cổ Học Tinh Hoa
HỒ MƯỢN OAI HỔ
Vua Tuyên Vương làm vua cả nước Sở, Chiêu Hề Tuất chỉ là một người bầy tôi vua Tuyên Vương. Thế mà người phương Bắc ai nghe thấy nói đến Chiêu Hề Tuất cũng phải kinh sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm hỏi quần thần là vì cớ làm sao. Không ai trả lời nổi, chỉ có Giang Nhất thưa được rằng:
“Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được con Hồ, Hồ bảo: “Liệu đó! Chớ có động chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là Trời sai xuống, cầm quyền hết cả bách thú. Ngươi mà ăn thịt ta là ngươi trái mệnh Trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà không sợ hãi, tìm đường bỏ trốn cho mau không!” Hổ cho là Hồ nói thật bèn theo Hồ đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ không biết rằng bách thú đều sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ Hồ. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất mà kỳ thực là sợ vua như bách thú sợ hổ vậy.
Chiến Quốc Sách
“Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được con Hồ, Hồ bảo: “Liệu đó! Chớ có động chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là Trời sai xuống, cầm quyền hết cả bách thú. Ngươi mà ăn thịt ta là ngươi trái mệnh Trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà không sợ hãi, tìm đường bỏ trốn cho mau không!” Hổ cho là Hồ nói thật bèn theo Hồ đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ không biết rằng bách thú đều sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ Hồ. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Hề Tuất mà kỳ thực là sợ vua như bách thú sợ hổ vậy.
Chiến Quốc Sách
Những chuyện ngụ ngôn hay
Người làm vườn và các con trai
Người làm vườn muốn dạy nghề mình cho các con trai. Khi ông sắp qua đời, ông gọi họ tới và bảo:
- Thế nầy các con nhé, khi nào bố chết, các con hãy tìm kỷ cái vật giấu trong vườn trồng nho.
Các con tưởng rằng ở đó có kho báu nên khi ông bố chết, họ đi đào bới xới lộn tất cả đất cả đất cát ở đấy lên. Họ không tìm thấy gì cả nhưng đất ở khu vườn nho được xới trộn rất kỹ nho ra quá nhiều gấp bội. Thế là họ trở nên giàu có.
- Thế nầy các con nhé, khi nào bố chết, các con hãy tìm kỷ cái vật giấu trong vườn trồng nho.
Các con tưởng rằng ở đó có kho báu nên khi ông bố chết, họ đi đào bới xới lộn tất cả đất cả đất cát ở đấy lên. Họ không tìm thấy gì cả nhưng đất ở khu vườn nho được xới trộn rất kỹ nho ra quá nhiều gấp bội. Thế là họ trở nên giàu có.
Chuyện cười trong ngày
Mắt lé
Một cầu thủ đi khám bác sĩ sau khi bị chấn thương vùng mặt.
- Bác sĩ phán: Mắt anh thoái hoá rồi! Có thể chuyển sang dạng mắt lé.
- Vận động viên kêu lên: Trời! Lé mắt! Thế là sự nghiệp bóng đá của tôi tiêu tùng rồi.
- Không, chưa! Anh vẫn có thể làm trọng tài được.
Monday, April 29, 2013
Phật Học Vấn Đáp - Trạng thái tâm "Không" thì có phải là tâm giải thoát không?
Hỏi:Trạng thái tâm "Không" thì có phải là tâm giải thoát không?
(Bài giảng trong rơom Giảng Đường Diệu Pháp , Ngày 18 tháng 01 năm 2008 - ĐĐ Phạm Minh chuyển biên)
(Bài giảng trong rơom Giảng Đường Diệu Pháp , Ngày 18 tháng 01 năm 2008 - ĐĐ Phạm Minh chuyển biên)
ĐĐ Pháp Đăng trả lời: Xin thưa rằng nếu tâm của mình ở trạng thái "Không" của không vô biên hay "Không" của thức vô biên , "Không" của vô sở hữu xứ , "Không" của phi tưởng phi phi tưởng xứ hay "Không" ở trong bài kinh "Đại Không" và "Tiểu Không" thì cũng có nói "Không" là cái gì mình coi là không có và cái gì có, thì mình không thể coi là "Không". Ví dụ như trong rừng thì không có nam nữ , ở trong rừng thì không có ca hát múa thì cái đó mình gọi là "Không", mà trong rừng thì có cây, có rừng, có các vị tỳ kheo, có Đức Phật, thì gọi là "Có". Có ở đây là cái gì có trong tâm mình thì mình biết là "Có", cái gì không thì mình biết là "Không" đó là để chỉ sự tu tập của mình. Khi mình có thân viễn ly mà chưa có tâm viễn ly, hoặc là chưa có hữu viễn ly thì mình mới thực tập thân viễn ly, tâm viễn ly , hữu viễn ly bởi vì khi mình tu tập mình muốn yên tịnh sống trong rừng gọi là thân viễn ly, ở nơi đó không có người nữ, không có heo, gà, trâu, bò v.v... hoặc là không có nhà lầu xe hơi. Tâm bị hệ lụy vào làng mạc, vào chỗ này chỗ kia, hệ lụy vào cận sự nam cận sự nữ, thì khi nói "Không" là mình không bị hệ lụy vào những thứ đó. Thì ở đây, mình có thân viễn ly và tâm viễn ly, mình viễn ly tất cả những sanh y hay tất cả những gì thuộc về tham sân si thì đó là tâm viễn ly, nên muốn nói "Không" là không phiền não , không tham sân si, ý nói ở đây "Không" là không có tham sân si thôi chứ không phải là không có thiền định , không phải là không có đạo quả.
Thường thường tâm của mình lúc nào cũng bắt cảnh, cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc cảnh pháp, cảnh quá khứ, hiện tại, vị lai, nội phần, ngoại phần, sắc pháp, danh pháp chế định, dục giới , hay cảnh chơn đế, tục đế, thì luôn luôn nó phải bắt một cảnh. Chỉ có nhũng vị nhập vào thiền diệt thọ tưởng định thì gọi là không có tâm, lúc bấy giờ vị đó không có tâm hành thọ tưởng nên vị đó không có tâm , hơi thở cũng không có, không có hơi thở với không có tâm , không có tầm tứ và không có hành, vị đó hoàn toàn vắng lặng, vị đó nhập vào Niết-bàn không có phiền não, không có hệ lụy, và lúc bấy giờ không có ngũ uẩn nữa vì đã an trú vào cảnh Niệt-bàn, thì lúc bấy giờ không có cảnh hữu vi nhưng có cảnh vô vi chứ không lúc nào là không được. Tâm của mình không thể là không, bây giờ ở trong trạng thái không nào đó thì cái không đó cũng là con số chứ không phải là không có con số không, phải khi nào mình không có ngũ uẩn nữa thì không có tất cả, nhưng một khi đã có ngũ uẩn thì vẫn có cảnh để ngũ uẩn an trú vào, dù là cảnh Niệt-bàn , thì cũng là cảnh
Nhưng khi tâm mình an trú vào Niết-bàn , thì Niết-bàn cũng là cảnh , không có cảnh hiệp thế nhưng có cảnh siêu thế, không có cảnh đáo đại thì có cảnh dục giới , không có cảnh dục giới thì có cảnh đáo đại là cảnh thiền, nhưng cũng phải có cảnh nào để tâm an trú chứ không thể nào không có được, "Không" có nghĩa là trống không được. Dù là trống không đó như đề mục không vô biên xứ, là vị đó ví hư không là vô cùng tận an trú thể nhập vào đó cũng là đề mục hư không vô cùng tận, nhưng cũng có cảnh chứ không phải là không có.
Còn nếu mà nói "Không" nói đây là tâm mình luôn luôn lúc nào cũng biết cảnh hết chừng khi nào mình làm người vô tưởng là không có tâm thì lúc bấy giờ không có cảnh, nếu mà có tâm thì phải có cảnh tại vì tâm của mình biết được cảnh mà
Trong 21cảnh thì tâm lúc nào cũng biết được một cảnh, chứ không thể nào nói tâm không biết cảnh được. Đức Phật Ngài dạy trong bài kinh "Đại không" hay "Tiểu không" là không có nam, không có nữ, đừng có dục tưởng đến nam đến nữ, hoặc là nói đó không có trâu bò heo .v.v.. thì mình đừng có tưởng "Có" những thứ đó.
Thật sự là tâm mình không có nhũng phiền não nhưng mà vì bắt cảnh rồi sanh phiền não. Tâm của chúng ta là pháp hữu vi, chúng ta tục sinh có danh và có sắc, mà mình có danh và sắc thì có thân và tâm, mà hễ tâm là biết cảnh này cảnh kia chứ không thể nào tâm của mình là "Không" được. Có nhiều người họ nói tâm "Không" thì mình phải hiểu họ muốn nói "Không" đó là không có phiền não , không có tham , không có sân, không có si, hoặc là không có tưởng đến nam nữ, nhưng không phải lúc bấy giờ là "Không" hoàn toàn, mà không với cảnh đó mà "Có" với cảnh khác thì chúng ta nên nghĩ như vậy
Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử
Chúng ta hãy nói về những thứ tình cảm cao thượng và nhờ tình cảm này nếu chúng ta khéo vận dụng những cảm xúc này giúp cho chúng ta rất nhiều, thí dụ như đối với người thế gian thì hình ảnh của Đức Phật không có chắc là sâu đậm như người Phật tử, nhưng bản thân của chúng ta là người con Phật mỗi ngày đọc tụng bái sám nhìn hình ảnh của Đức Phật, đối với Phật tử bao giờ đã là cái gì rất thân thương, rất cao qúi, rất vĩ đại, là nơi để chúng ta ghi nhận.
ức Phật ngồi đó dù chỉ là tôn tượng. Đức Phật hiện diện ở đó dầu qua trang kinh nhưng chúng ta đối với Ngài thật là gần.
Và Ngài là một tấm gương cho chúng ta, nếu một người có một niềm tin mạnh thì người đó có thể vận dụng điều này để nhắc nhở trong trường hợp như vậy. Đức Phật Ngài của chúng ta ở thuở xa xưa khi còn là bồ tát ở trong bốn a tăng kỳ và trong trăm ngàn cõi kiếp đã có bao lần Ngài không để cho mình bị đốt cháy bởi cơn giận, mà từ nghịch cảnh Ngài chỉ thể hiện từ hòa với mọi sự tốt đẹp ."Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh" ít nhất mình cũng phải có cái gì noi gương Đức Phật. Có nhiều khi chúng ta không dằn được cơn giận vì một lý do đơn giản là mình nghĩ rằng mình làm như vậy là mình hèn, mình làm như vậy là mình yếu, mình làm như vậy là mình không hay.
Cái ý tưởng đó dễ dàng tự xoá đi nếu chúng ta nghĩ đến Đức Phật. Đức Bổn Sư đã bao nhiêu lần yên lặng, Đức Bổn Sư của chúng ta trong nhiều tiền kiếp Ngài đã bao nhiêu lần để những sự việc mà Ngài gọi là nóng nảy buồn bực khó chịu là câu chuyện bên lề để Ngài tiếp tục đi tới, Ngài làm những gì cần phải làm, những gì nên làm cho Ngài và cho cuộc đời.
Nếu một người thật sự hiểu Phật, thật sự biết về Đức Phật, thật sự kính Đức Phật, thương Đức Phật và lấy Đức Phật làm đối tượng quy ngưỡng làm một gương sáng cho mình, thì ở đây, cái cảm xúc tốt đẹp nó giúp cho chúng ta rất nhiều để vượt qua những hiềm hận trong lòng.
TT Giác Đẳng - Pháp Thoại - Tu Tập Tâm Từ - Minh Hạnh chuyển biên
Cổ Học Tinh Hoa
HỌA PHÚC KHÔN LƯỜNG
Một ông lão ở gần cửa ải có con ngựa tự nhiên đi sang nước Hồ mất. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm.
Ông lão nói:
Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.
Cách mấy tháng con ngựa về lại quyến thêm được một con ngựa hay nữa. Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ.
Ông lão nói:
Được ngựa thế mà họa cho tôi biết đâu.
Từ khi được ngựa hay, con ông lão thích cưỡi, chẳng may ngã què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm.
Ông lão nói:
Con què thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.
Cách một năm, có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười người chết đến chín. Chỉ con ông lão, vì què không phải đi lính, mà cha con vẫn có nhau.
Hoài Nam Tử
Ông lão nói:
Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.
Cách mấy tháng con ngựa về lại quyến thêm được một con ngựa hay nữa. Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ.
Ông lão nói:
Được ngựa thế mà họa cho tôi biết đâu.
Từ khi được ngựa hay, con ông lão thích cưỡi, chẳng may ngã què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm.
Ông lão nói:
Con què thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu.
Cách một năm, có giặc Hồ. Nhà vua bắt lính đi đánh giặc. Quân lính mười người chết đến chín. Chỉ con ông lão, vì què không phải đi lính, mà cha con vẫn có nhau.
Hoài Nam Tử
GIẢI NGHĨA
.Hồ : tức là Hung nô ở phía bắc nước Tàu hay vào nhiễu loạn nước Tàu
Hoài Nam Tử: tên là Lưu An, tôn thất nhà Tây Hán, tức Hoài Nam Vương, làm sách nói về đạo đức.
Hoài Nam Tử: tên là Lưu An, tôn thất nhà Tây Hán, tức Hoài Nam Vương, làm sách nói về đạo đức.
LỜI BÀN
họa phúc xoay vần, khó lòng biết được. Trong cái phúc thường có cái họa nấp sẵn ở đấy, trong cái họa thường khi lại có cái phúc nấp sẵn ở đây. Cho nên, đối với sự họa phúc, ta không nên vội lấy việc chỉ có một thời mà quyết định cho là hay mãi hay dở mãi được. Ta chỉ nên, khi gặp phúc, thì thao thủ cẩn thận, đừng có kiêu xa phóng túng,may mà giữ được phúc lâu dài, khi gặp họa, thì tu tỉnh lấy thân, đừng có ngã lòng, đừng có oán trách, may mà qua được họa lại gặp phúc chăng.
Những chuyện ngụ ngôn hay
Con công
Loài chim họp nhau lại bầu ra vua. Con công xòe to cái đuôi của mình và tự đề cử mình làm vua. Tất cả loài chim vì vẻ đẹp của nó đã chọn nó làm vua. Các loài khác bèn nói:
- Anh công này, anh hãy nói cho bọn chúng tôi biết; khi anh lên làm vua, anh sẽ che chở cho chúng tôi khỏi lũ diều hâu như thế nào nếu chúng rợt đuổi chúng tôi?
Công không biết trả lời ra sao, thế là tất cả loài chim suy nghĩ xem liệu công có là ông vua tốt của chúng không? Và chúng không chọn công làm vua nữa, mà chọn đại bàng
- Anh công này, anh hãy nói cho bọn chúng tôi biết; khi anh lên làm vua, anh sẽ che chở cho chúng tôi khỏi lũ diều hâu như thế nào nếu chúng rợt đuổi chúng tôi?
Công không biết trả lời ra sao, thế là tất cả loài chim suy nghĩ xem liệu công có là ông vua tốt của chúng không? Và chúng không chọn công làm vua nữa, mà chọn đại bàng
Chuyện cười trong ngày
Tam Đại Gàn
Nhà nọ có ba ông cháu. Một hôm, ông sai cháu ra chợ mua một đồng mắm và một đồng tương. Thằng bé mang hai cái bát ra chợ mua, nhưng đi một lúc, sực nhớ ra, quay lại hỏi ông: Ông ơi, đồng nào mua mắm, đồng nào mua tương?
- Ông bảo: Đồng nào cũng được!
- Thằng bé lại chạy đi, một hồi lâu, lại mang hai cái bát không về, hỏi: Ban nãy cháu quên chưa hỏi ông bát nào đựng mắm, bát nào đựng tương?
- Ông tức quá đánh cho nó mấy roi. Vừa lúc đó bố thằng bé đi đâu về, thấy thế nổi giận nói: À! Ông đánh con tôi phải không? Thế thì sợ gì mà tôi không đánh con ông! Nói rồi tự đánh vào mình một hồi nên thân.
- Người ông cũng phát khùng lên bảo: À! Mày đánh con ông thì… thì ông treo cổ cha mày lên!
- Rồi ông ta vội vàng đi tìm thừng để treo cổ.
Sunday, April 28, 2013
Phật Học Vấn Đạo - Từ ngữ "Bất khả tư nghĩ" ý nghĩa như thế nào?
Hỏi :Từ ngữ bất khả tư nghì trong Phật giáo, phải chăng những pháp được nêu ra đây nghĩa là không thể hiểu được hay bất cứ ai kể cả Đức Phật cũng không có thể hiểu hết được những pháp này, có phải như vậy không?
(Câu hỏi được hỏi trong rơom Diệu Pháp, ngày 14 tháng 11 năm 2007, Minh Hạnh chuyển biên)
(Câu hỏi được hỏi trong rơom Diệu Pháp, ngày 14 tháng 11 năm 2007, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Giác Đẳng trả lời: Trong Phật giáo chữ Acinteyya tức là bất khả tư nghì là không thể nghĩ bàn. Chúng ta có bốn điều không thể nghĩ bàn: Như chúng ta nói về quả của nghiệp (Kammavipāko) là bất khả tư nghì, Phật trí (Buddhavisayo) là bất khả tư nghì, tâm (Lokacintā), là bất khả tư nghì
. Bất khả tư nghì là không thể nghĩ bàn, trong kinh điển của Phật giáo Bắc Truyền và đặc biệt Phật giáo Mật Tông thì mang tánh cách hơi khác hơn bên Phật giáo Nam Truyền một chút, và chúng ta phải phân biệt về điều này. Ở bên Nam Tông, ví dụ như chúng ta nói quả của nghiệp là bất khả tư nghì không có nghĩa điều đó không thể nghĩ được hay không nên nghĩ, chúng ta cũng có thể biết về quả của nghiệp nhưng chúng ta nên hiểu một cách khiêm tốn rằng chúng ta chỉ biết ở một phần nào đó thôi chứ chúng ta không thể biết hết được.
Chúng tôi ví dụ là một người viết một quyển sách, và quyển sách đó cho một số đông vài ba trăm ngàn người đọc, thì chúng ta chỉ có thể biết rằng những quyển sách đó có ảnh hưởng lớn ảnh hưởng tốt. Nhưng rồi trong hàng trăm hàng ngàn người đọc đó họ đem vào trong tâm tư của họ, rồi khi họ đem vào trong tâm tư của họ nó thay đổi đời sống của họ, và từ sự thay đổi đời sống của họ thì nó lại thay đổi con cháu, thay đổi những người chung quanh, và thay đổi cả một thế hệ. Chúng ta đọc lịch sử của các vị danh nhân chẳng hạn, thì hiểu rằng có nhiều câu nói, nhiều quyển sách ảnh hưởng từ tâm hồn của vị này, thì câu nói và cuốn sách đó có thể là được viết từ thời xưa chẳng hạn như chúng ta nghe những phẩm của những triết gia Hy Lạp để lại, có lẽ là khi những vị đó viết ra các vị không hiểu rằng cả hàng ngàn năm sau vẫn còn có ảnh hưởng lớn. Hay hoặc giả Ngài Buddhaghosa, Ngài viết quyển Thanh Tịnh Đạo, ngày hôm nay khó ai có thể đo lường được hết ảnh hưởng của tập sách này đối với giòng lịch sử Phật giáo ra sao, bởi vì chúng ta biết rằng khi một ảnh hưởng gì liên quan đến tâm tư, sự suy nghĩ của một người thì lại có một bề rộng rất lớn về phương diện xã hội, về phương diện đời sống đời này và đời sau, kể cả sự nghiệp tu tập giác ngộ của người Phật tử.
Nên chi nói về ảnh hưởng của quả của nghiệp thì chúng ta nói đến vô cùng vô tận, một nhà văn Trung Hoa họ nói rằng: Một buổi chiều, một người ôm cây đàn ngồi ở trong nhà của mình để khảy đàn, có thể chỉ là một lần khảy đàn để giải trí như thường ngày thôi, nhưng không ngờ tiếng đàn lọt qua nhà hàng xóm và một thi nhân nào đó là một người tài hoa nghe tiếng đàn đó xuất cảnh sanh tình và viết một bài thơ, bài thơ đó có thể có một địa vị lớn trên văn đàn trong nền văn học nghệ thuật và trong nhiều thế hệ. Thì đâu ai biết rằng cả một ảnh hưởng lớn như vậy phát xuất từ một tiếng đàn rất vô tình. Như Tô Đông Pha có lần ông viết rằng một tao nhân đi ngoài đường nghe một tiếng cười thánh thót hồn nhiên ở bên kia hàng rào, không biết tiếng cười đó là của ai nhưng lại tạo ra một cảm xúc kỳ thú, và cảm xúc đó lại ảnh hưởng vô cùng đến tâm hồn của vị thi nhân này, ông đã viết ra những bài từ rất nổi tiếng như bộ Tống Lưu chẳng hạn. Những ảnh hưởng như vậy không có thước nào đo hết, không có ai có thể nói đầy đủ nên chúng ta gọi đó là bất khả tư nghi không thể nghĩ bàn nghĩa, là chúng ta không thể đi vào sâu tận cùng của nó.
Trí của Đức Phật cũng vậy, một trí tuệ của vị thành tựu Nhất thiết chủng trí, đoạn tận các phiền não, và trên phương diện thần thông, trên phương diện Phật nhãn thì Ngài là siêu việt hơn tất cả, do vậy không ai có thể lấy cây thước nào đo được. Nhưng không có nghĩa vì vậy chúng ta không được biết hay không nên biết. Ví dụ như quả của nghiệp có thể chúng ta không thể biết hết được nhưng chúng ta cũng biết đến một chừng mực nào đó, và cũng có những phần quả của nghiệp rất nên biết. Ví dụ Đức Phật cũng đã dạy trong Trung Bộ Kinh bài Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, Ngài dạy cho thanh niên Subha về tại sao có người giàu, tại sao có người nghèo, có người sang, có người hèn, có người ngu, có người trí. Và rất nhiều trường hợp Đức Phật Ngài nói về quả của nghiệp thì như vậy không có nghĩa là nói rằng bất khả tư nghì có nghĩa là những điều đó hoàn toàn không thể nghĩ được hay không nên nghĩ được. Nên thì có nên, nghĩ và biết được thì có biết được, nhưng nó không có nghĩa chúng ta có thể thấu đáo đo đạt được hết, và có thể xem như chúng ta hiểu trọn vấn đề. Về điểm này chúng ta cần phải phân biệt.
Dĩ nhiên đối với Đức Phật thì Ngài ở trong một cách thế hoàn toàn khác với chúng ta, cái gì cần hiểu, cần biết, cần nhớ, thì Ngài có thể nhớ đến khi nào Ngài muốn, hàng trăm hàng ngàn hàng triệu hàng tỉ kiếp nếu Ngài muốn Ngài đều có thể nhớ lại được hết, và tuệ giác của Ngài có thể soi sáng thấu đáo ở bất cứ tầm xa nào Ngài muốn, chiều sâu nào mà Ngài muốn, thì như vậy trí của Ngài đúng là bất khả tư nghì. Chúng ta có thể biết một phần do sự suy tưởng của chúng ta, nhưng những điều gọi là bất khả tư nghì không có nghĩa là điều đó không thể hiểu và cũng không có nghĩ là điều đó không nên hiểu, mà điều đó có thể nói rằng với tâm tư bình thường của chúng ta những pháp Acinteyya chỉ có thể hiểu mà không thể hiểu trọn vẹn hết ./.
Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử
Cũng rất là bình thường để chúng ta thấy rằng sanh ra làm con người thì ai cũng phải già cũng đau cũng chết, cũng sầu bi khổ ưu não, chúng ta thường nghe những chuyện đó xem những việc đó hết sức bình thường. Dĩ nhiên là bình thường, nhưng câu hỏi mà Thái Tử Sĩ Đạt Đa đặt ra ở tại đây khi mà Ngài còn là vị Hoàng Tử trong cung vàng điện ngọc, tại vì nó khởi đi một cuộc hành trình và cái ý thức bắt đầu cuộc hành trình đó là một ý thức đặt lại toàn bộ vấn đề, bản thân của mình bị sanh già đau chết sầu bi khổ ưu não nó chi phối thì chúng ta đi tìm cái gì, chúng ta đi tìm một cái giống như vậy, một cái không khác hơn như vậy thì cuộc hành trình đó sẽ dẫn chúng ta đi về đâu, chắc chắn sẽ đi vào sự phiêu dạt vô định, nó như một con thuyền không có la bàn không có định hướng và người tài công cũng thật sự không biết là mình đang đi về đâu giữa cơn bão tố phong ba, thì những sự việc như vậy gợi cho chúng ta cái ý rất quan trọng là đã là một chúng sinh từ vô lượng kiếp sống với trầm luân. Chúng ta hiểu đã có những lần Đức Phật Ngài nói gần như tâm sự với các tỳ kheo và đó là một lời nhắc nhở:
"Này các tỳ kheo chỉ vì không hiểu đây là khổ, đây là nhân sanh khổ, đây là sự diệt khổ và con đường đưa tới sự diệt khổ, mà Như Lai và các con đã trôi lăn trong luân hồi từ vô lượng kiếp cho đến nay."
TT Giác Đẳng - Pháp Thoại - Y' Thức Tiên Khởi, Minh Hạnh chuyển biên
Cổ Học Tinh Hoa
NGƯỜI CON CÓ HIẾU
Thầy Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng: -“Đội nặng đi đường xa thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi có quyền cao, chức trọng, mới chịu làm. Ngày trước Do này, lúc song thân còn, cơm thường đưa dưa muối, dường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như trước thì không sao được nữa! Cha mẹ già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, con muốn nuôi, mà cha mẹ không còn sống.
Đức Khổng Tử nói: “Do, nhà ngươi phụng sự song thân rất là phải. Lúc người còn thì hết lòng phụng dưỡng, lúc người mất, thì hết lòng thương tiếc.”
Gia Ngữ
Đức Khổng Tử nói: “Do, nhà ngươi phụng sự song thân rất là phải. Lúc người còn thì hết lòng phụng dưỡng, lúc người mất, thì hết lòng thương tiếc.”
Gia Ngữ
GIẢI NGHĨA
Tử Lộ: Người thời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, tính hiếu thảo, hùng dũng có tài chính sự.
Bóng qua cửa sổ: Bóng đây là bóng mặt trời, ý nói thời giờ chóng qua cũng như câu ngựa phi qua khe cửa.
Bóng qua cửa sổ: Bóng đây là bóng mặt trời, ý nói thời giờ chóng qua cũng như câu ngựa phi qua khe cửa.
LỜI BÀN
Khi cha mẹ còn, hết lòng nuôi nấng, khi cha mẹ mất, hết lòng thương nhớ, đó thực là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ. Làm trái lại hẳn như thế là bất hiếu, mang một cái tội rất to! Làm trái lại một nửa như thế, “nghĩa là lúc cha mẹ còn, thì thờ ơ chểnh mảng, lúc cha mẹ mất thì nấu một mâm cao cỗ đầy, làm văn tế ruồi”, như thế cũng là bất hiếu, cho nên người con có hiếu, còn cha mẹ ngày nào, nên mừng ngày ấy, kíp ăn ở cho trọn đạo, chớ để đến lúc cha mẹ mất rồi, có hối lại cũng không sao được. Vì rằng làm con mà được còn có cha mẹ để báo đáp là một việc sung sướng ở đời, mà cũng là có duyên có phúc nữa.
Những câu chuyện ngụ ngôn hay
Gà mái và những quả trứng vàng
Con gà mái của người chủ nọ đẻ ra những quả trứng vàng. Người chủ muốn có ngay thật nhiều vàng liền đem giết con gà (anh ta nghĩ là trong bụng gà có cà một cục vàng to tướng) nhưng con gà cũng lại chẳng khác gì những con gà mái khác.
Chuyện cười trong ngày
Con cũng đúng luôn
Sau khi nghe Thầy giảng, hai người Tăng sĩ đã tranh luận sôi nổi về điều mà họ đã nghe trong suốt buổi thuyết pháp. Người nào cũng nói rằng mình hiểu đúng. Để giải quyết vấn đề tranh luận này, họ đã đến gặp vị Thầy.
Sau khi nghe lời hùng biện của vị Tăng sĩ thứ nhất, người Thầy nói, " Con đúng". Đưa mắt nhìn bạn một cách chiến thắng, ông ta đi ra khỏi phòng. Vị Tăng sĩ thứ hai rất bực tức và bắt đầu trút ra những gì mình nghĩ với vị Thầy. Sau khi vị Tăng sĩ thứ hai dứt lời, vị Thầy nhìn ông ta và nói, "Con cũng đúng." Nghe như vậy người Tăng sĩ thứ hai mừng rỡ và bỏ đi ra.
Vị Tăng sĩ thứ ba là người cũng có mặt trong phòng rất ngạc nhiên bởi những gì ông chứng kiến. Ông nói với vị Thầy," thưa Ngài, con thấy bối rối! Những y' kiến họ đưa ra hòan toàn trái ngược nhau. Thì không thể nào cả hai đều đúng! Tại sao Ngài lại nói là cả hai đều đúng?"
Vị Thầy nhìn vào mắt của vị Tăng sĩ thứ ba và cười, "Con cũng đúng luôn!"
Sau khi nghe Thầy giảng, hai người Tăng sĩ đã tranh luận sôi nổi về điều mà họ đã nghe trong suốt buổi thuyết pháp. Người nào cũng nói rằng mình hiểu đúng. Để giải quyết vấn đề tranh luận này, họ đã đến gặp vị Thầy.
Sau khi nghe lời hùng biện của vị Tăng sĩ thứ nhất, người Thầy nói, " Con đúng". Đưa mắt nhìn bạn một cách chiến thắng, ông ta đi ra khỏi phòng. Vị Tăng sĩ thứ hai rất bực tức và bắt đầu trút ra những gì mình nghĩ với vị Thầy. Sau khi vị Tăng sĩ thứ hai dứt lời, vị Thầy nhìn ông ta và nói, "Con cũng đúng." Nghe như vậy người Tăng sĩ thứ hai mừng rỡ và bỏ đi ra.
Vị Tăng sĩ thứ ba là người cũng có mặt trong phòng rất ngạc nhiên bởi những gì ông chứng kiến. Ông nói với vị Thầy," thưa Ngài, con thấy bối rối! Những y' kiến họ đưa ra hòan toàn trái ngược nhau. Thì không thể nào cả hai đều đúng! Tại sao Ngài lại nói là cả hai đều đúng?"
Vị Thầy nhìn vào mắt của vị Tăng sĩ thứ ba và cười, "Con cũng đúng luôn!"
Saturday, April 27, 2013
Phật Học Vấn Đáp - Tại sao có người sanh ra đời nhớ được kiếp trước có người không?
Hỏi : Tại sao có người sanh ra đời nhớ được kiếp trước có người không nhớ được kiếp trước?
. (Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, ngày 5 tháng 6 năm 2003, Minh Hạnh chuyển biên )
. (Bài giảng trong lớp Diệu Pháp, ngày 5 tháng 6 năm 2003, Minh Hạnh chuyển biên )
TT Giác Đẳng trả lời: Chúng ta nghe câu chuyện của nàng Patipùjikà, một người sanh ra nhớ kiếp trước mình là một vị Chư Thiên, thì thưa qúi vị, ngày hôm nay cũng có rất nhiều tài liệu cho chúng ta biết rằng có một số người nhớ được kiếp quá khứ. Chúng tôi có gặp một người họ nhớ rất nhiều về kiếp quá khứ ngày xưa đã là một vị tăng sĩ như thế nào và họ đã làm gì và ngày hôm nay thì họ vẫn còn nhớ rất nhiều kinh điển mặc dầu còn rất nhỏ tuổi. Nhưng nói chung đó là con số này rất hiếm trong cõi nhân loại này, không phải ai cũng nhớ kiếp trước hết. Thường thường những người sanh ra là hạng hoá sanh như Chư Thiên thì nhớ rất là rõ, còn những chúng sanh trải qua thời kỳ như ở trong trứng hay thai bào hay trong ẩm thấp thì nhớ rất ít, nhưng cũng có những biệt lệ tại vì do nghiệp đưa đẩy.
Nói về điểm này chúng tôi cũng đặc biệt lưu ý tất cả qúi vị rằng ở trong các quốc gia Phật Giáo và các truyền thống Phật Giáo gọi là Kim Cang Thừa hay Mật Tông rất thịnh hành ở Tây Tạng, Mông Cổ, Su....Kim..... như Phutăng... thì ở tại các quốc gia này việc tái sanh là một cái gì rất đặc biệt trong quan niệm về giáo lý người Phật tử, những người Phật tử ở đây họ luôn luôn nghĩ về kiếp trước và kiếp sau, và bởi vì sự tái sanh là nền tảng để cho họ tin vào lý nhân quả nghiệp báo, bởi vì tin vào lý nhân quả nghiệp báo do đó họ tin vào Tam Bảo rất thuần thành. Dĩ nhiên là tại tất cả các trường hợp các vị LạtMa chết tuy được trở thành những vị tuku .... tức là hậu thân của kiếp trước nhưng có một số đã cho thấy rằng các vị nhớ lại kiếp trước và bởi vì niềm tin vào tái sanh rất mạnh nên người Tây Tạng họ có một số niềm tin về nhân quả nghiệp báo, trong khi các quốc gia Phật giáo khác người Phật tử không có niềm tin mạnh như họ.
Và cũng là một điều thú vị nữa là bởi vì niềm tin của sự tái sanh rất mạnh ở trong truyền thống Phật Giáo Mật Tông do đó giáo lý về Thập Nhị Duyên Khởi (Thập Nhị Nhân Duyên) cũng là một giáo lý rất nổi bậc ở trong truyền thống của Mật Tông. Mặc dầu chúng ta biết rằng có một số quan niệm của Phật Giáo Đại Thừa thì cho rằng Tứ Đế là giáo lý của hàng Thanh Văn, và Thập Nhị Nhân Duyên là giáo lý của hàng Duyên Giác tức là Độc Giác Phật. Và như vậy đã có một số truyền thống Phật Giáo Đại Thừa xem nhẹ giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên, bởi vì giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên không phải là con đường của các vị Bồ Tát mà đó là con đường của các vị Duyên Giác. Tuy nhiên Phật Giáo Kim Cang Thừa thì tự nhận mình là một phần của Đại Thừa mà còn cao hơn cả Đại Thừa nữa. Nhưng giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên thì trở lên có một địa vị rất đặc biệt. Qúi vị nhìn những bức tranh về Duyên Khởi (Thập Nhị Nhân Duyên) của Tây Tạng thì qúi vị sẽ thấy rằng họ đầu tư rất nhiều tâm trí và nghệ thuật, sự cảm nhận nghệ thuật vào đó.
Và đối với Phật Giáo Mật Tông thì người Phật tử Tây Tạng chính vì sự quan niệm về kiếp trước kiếp sau về sự tái sanh mà họ rất tin vào lý nhân quả, và vì họ có niềm tin hết sức mạnh mẽ vào lý nhân quả do đó niềm tin Phật Pháp của họ phải nói là đặc biệt. Chúng tôi có thể nói rằng chúng tôi ở gần những người Phật tử Tây Tạng chúng tôi thấy rằng niềm tin của họ đối với nghiệp quả và đối với Tam Bảo hoàn toàn khác với những quốc gia Phật Giáo khác.
Do vậy ở trong trường hợp này là chúng ta nói đến trường hợp một người sanh ra đời mà đã nhớ lại kiếp trước của mình thì thưa qúi vị chính vì như vậy niềm tin vào nhân quả gần như là bất thối.
Tại Việt Nam chúng tôi nhớ ngày xưa khi chúng tôi còn ở bên nhà thỉnh thoảng có nói chuyện với một vị cao tăng của Việt Nam lúc đó là Hòa Thượng Ẩn Lâm, HT cũng có nói rằng nếu sanh ra kiếp sau mà mình nhớ được kiếp trước mình là ai, làm việc gì, mình khỏi cần chứng thiền chứng đạo chứng quả thì mình cũng có thể độ cho người khác được. Ý HT muốn nói rằng nếu có một ai trong chúng ta mà nhớ được kiếp trước một cách rõ ràng thì chúng ta có thể chứng minh được là có kiếp trước có kiếp sau và có lý nhân quả và như vậy đó số người qui ngưỡng Phật Pháp sẽ nhiều hơn./.
Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử
Có rất nhiều lần những người BàLaMôn đến hỏi Đức Phật về quan niệm của Ngài đối với giai cấp, thì Đức Phật Ngài dạy rằng không phải do nghiệp quả thọ sanh mà con người trở lên cao quí hay thấp hèn, mà chính hành vi tạo tác đã khiến cho con người thấp hèn hay cao quí. Như vậy đây là điểm đặc biệt đầu tiên của Đạo Phật, khi nhìn vào con người, điểm quan trọng nhất là hành động, và hành động ở đây phải nói rằng đó là sở hành của thân, của khẩu, của ý. Nói một cách nôm na cái gì chúng ta làm, cái gì chúng ta nói hay chúng ta suy nghĩ, và thậm trí Đức Phật Ngài còn đi xa hơn, Ngài dạy rằng chính điều đó mới phân biệt thế nào là người thiện trí hay là kẻ không phải thiện trí.
TT Giác Đẳng - Kinh Pháp Cú kệ 281, Minh Hạnh chuyển biên
Cổ Học Tinh Hoa
ÔM CÂY ĐỢI THỎ
Một người nước Tống đang cày ruộng. Giữa ruộng có một cây to. Có con thỏ đồng ở đâu chạy lại, đâm vào gốc cây, đập đầu chết. Người cày ruộng thấy thế, bỏ cày, vội chạy đi bắt thỏ. Đoạn, cứ ngồi khư khư ôm gốc cây, mong lại được thỏ nữa. Nhưng đợi mãi chẳng thấy thỏ đâu, lại mất một buổi cày. Thiên hạ thấy vậy, ai cũng chê cười.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
Hàn Phi Tử: Công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ.
Đoạn: nghĩa đen là đứt, việc nầy đứt đến việc khác.
LỜI BÀN
Thấy mùi, quen mui làm mãi. Ở đời những kẻ ngẫu nhiên gặp may, mà ước ao được gặp may luôn như thế nữa, không biết sự may là tình cờ mới có, thì có khác gì người nước Tống ôm cây đợi thỏ nầy. Anh ôm cây đợi thỏ này lại còn là người cố chấp bất thông, không hiểu thời thế, không thấu tình cảnh, khư khư đười ươi giữ ống, cũng một phường với những hạng chơi đàn gắn chặt phím, khắc mạn thuyền để nhớ chỗ gươm rơi.
Những câu chuyên ngụ ngôn hay
Chuột, gà trống và mèo
Chuột con ra khỏi tổ dạo chơi, nó tha thẩn khắp sân rồi lại về với mẹ"
- Này mẹ ơi, con nhìn thấy hai con thú. Một con thú dữ tợn, còn con kia hiền khô.
Mẹ nó bảo:
- Con nói cho mẹ xem hai con thú ấy ra làm sao nào.
Chuột con trả lời:
- Một con dữ tợn đi đi lại lại trên sân thế này này: Chân nó đen thui, mào nó đỏ ối, cặp mắt nó lồi ra, còn cái mũi nó khoằm khoằm. Khi con đi ngang qua, nó há hốc cái mõm ra, nhắc một chân lên tiếng quá to đến nỗi con sợ quá chẳng còn biết chạy đi đâu.
Đấy là con gà trống - Chuột mẹ nói - Nó chẳng làm hại ai đâu, đừng sợ nó. Thế còn con thú kia?
Con thú kia nằm ngoài nắng sưởi ấm. Cổ nó trắng, chân nó xám, mượt mà: nó đưa lưỡi liếm cái ngực trắng của nó và cái đuôi hơi ngoe nguẩy, nhìn theo con.
Chuột mẹ bảo: - Con ngốc lắm. Nó chính là mèo đấy.
Chuyện cười trong ngày
Tin tốt tin xấu
Đoàn tàu kéo đẩy được đưa vào sử dụng lần đầu đang băng băng trên đường ray thì động cơ của đầu đẩy ngừng hoạt động. Người lái tàu quyết định tiếp tục hành trình với động cơ còn lại nhưng một lát sau, đầu kéo lại hỏng nốt.
Để trấn tĩnh hành khách, người lái tàu thông báo:
- Thưa quý vị! Chúng ta đang có tin tốt và tin xấu. Tin xấu là cả hai đầu máy đều đã ngừng hoạt động và chúng ta sẽ bị kẹt ở đây một thời gian. Tin tốt là phương tiện chúng ta đang sử dụng không phải một chiếc máy bay.
Friday, April 26, 2013
Phật Học Vấn Đạo - Diễn tả về Niết-bàn như thế nào cho đúng?
Hỏi: Có nhiều người khi mô tả về cứu cánh thì thường mô tả cái gì cho đẹp cho vui cho hoan hỉ. Nhưng riêng về cứu cánh Niết-bàn trong đạo Phật thì cái xa nhất mà chúng ta biết đó là nirodha hay là từ ngữ "tịch tĩnh", "diệt khổ", 'tận diệt phiền não'. thì cách diễn tả đó có cái gì cần cho chúng ta lưu ý và tại sao chúng ta nên diễn tả như vậy hơn là chúng ta tô hồng chuốt lục, hơn là chúng ta làm cho nhiều màu sắc, mà chỉ đơn thuần là diệt khổ, dập tắt phiền não mà thôi?
(Thảo luận trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 7-9-2011, Minh Hạnh chuyển biên)
TT Tuệ Siêu trả lời: Điểm đầu tiên chúng ta nói đến ở đây là Niết-bàn được mô tả ở trong kinh điển Pali nói lên một sự thật, một chân lý về diệt khổ, nirodha sự diệt tắt, chân lý cuối cùng chứ không phải Niết-bàn là một cảnh giới do tưởng tượng.
Nếu mô tả Niết-bàn có nhiều cảnh đẹp hấp dẫn hoan hỉ thời Niết-bàn không phải như vậy, mà là một chân lý ở trong bốn chân lý tức là sự diệt khổ. Cho nên trong kinh Pali không mô tả Niết-bàn như là một cảnh giới có nhiều sự an vui có nhiều sự hoan hỉ. Mục đích của Đạo Phật là sự diệt khổ, diệt trừ cái khổ như Phật ngôn Đức Phật đã dạy rằng:
- "Này Chư Tỳ Kheo xưa và nay Như Lai chỉ tuyên bố về sự khổ và diệt khổ".
Sự diệt khổ ở đây tức là chấm dứt cái khổ sanh tử luân hồi, chấm dứt cái khổ do thân hiện hữu này. Nếu mô tả Niết-bàn như là một cảnh giới hấp dẫn đó là vô tình mô tả Niết-bàn như là một cái khổ dầu đó là khổ vi tế, bởi vì hễ còn là hấp dẫn lòng tham của kẻ phàm phu hoan hỉ Niết-bàn, chấp thủ Niết-bàn như trong bài kinh Căn Bản Pháp Môn thì ở đây là một sự sai lầm khi mô tả Niết-bàn không phải là đối tượng của tâm tham, trong 21 cảnh thì tham sân si biết được 20 cảnh,20 đối tượng, ngoại trừ Niết-bàn không biết. Bằng nhiều cách chúng ta nói như vậy để cho thấy rằng khi chúng ta mô tả Niết-bàn đẹp hữu tình làm đối tượng của tâm tham được thì như vậy không phải là Niết-bàn thật mà Niết-bàn đó chỉ là Niết-bàn giả tạo, đó là vấn đề thứ nhất.
Vấn đề thứ hai chúng tôi muốn nói ở đây là, nhìn trong kinh điển thì không phải dùng một từ ngữ để nói đến Niết-bàn mà có rất nhiều từ ngữ để nói đến Niết-bàn. Ở đây trong quyển Cư Sĩ Giới Pháp chúng tôi cũng dựa vào bộ Visuddhimagga Thanh Tịnh Đạo chỉ nói đến Niết-bàn qua những danh từ để gọi thí dụ như:
- Niết-bàn là sự bài trừ hệ lụy ālayasamugghāto,
- Niết-bàn cắt đứt luân hồi vaṭṭtūpacchedo
- Niết-bàn đoạn tận tham ái taṇhak-khayo
Dùng nhiều từ để nói đến Niết-bàn, đó chỉ là sự mô tả theo khía cạnh những từ ngữ đồng nghĩa được nói đến ở đây là để khả dĩ giúp cho người học có thể hiểu được, không hiểu được bằng từ này thì có thể hiểu được theo từ khác. Chỉ là một trạng thái tịch tịnh chấm dứt sự khổ đau, nhưng bằng nhiều từ ngữ để gọi giống như khi chúng ta nhìn một vật chúng ta có thể nói nhiều khía cạnh để cho hiểu được cái vật đó, nếu chỉ nói một từ mà chúng ta hiểu được rồi thì chúng ta không cần phải dùng đến những từ ngữ khác, sở dĩ có nhiều từ ngữ để nói là tùy theo cá tính của người, mỗi người hiểu một cách hiểu một khía cạnh và phải mô tả như thế.
Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử
Có ai trong cuộc đời ngăn cản được sự an lạc chúng ta hơn chúng ta, và bao nhiêu những thứ phiền lụy hận thù, phải nói rằng bởi vì chúng ta cho phép những thứ đó tồn tại, không những cho phép tồn tại mà chúng ta còn đem củi đút vào trong lửa để ngọn lửa hận thù tiếp tục. Đó là nghịch lý của cuộc sống, đó là bi kịch của kiếp người và đó là cái ngu xuẩn của tất cả chúng ta, chúng ta sống để mà phiền lụy.
TT Giác Đẳng – Kinh Pháp Cú kệ 3 – 4, Minh Hạnh chuyển biên
Cổ Học Tinh Hoa
ÔNG QUAN THANH BẠCH
Dương Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông Lai. Lúc đi phó nhậm qua đất Xương Ấp, quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được nhờ ông đề bạt cho, vào yến kiến. Rồi đợi đêm khuya, đem vàng đến lễ.
Dương Chấn bảo: “Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng tới cho tôi ư.”
Vương Mật cố nài, thưa rằng: “Xin ngài cứ nhận cho, bây giờ đêm khuya không ai biết.”
Dương Chấn nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết.”
Vương Mật nghe nói, xấu hổ, lùi ra. Dương Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ chăm việc dân, việc nước không tham nhũng, không làm giàu cho mình, ông thường nói: “Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quý hơn tiền của ruộng nương lại cho chúng ư?”
Hậu Hán Thư
Dương Chấn bảo: “Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng tới cho tôi ư.”
Vương Mật cố nài, thưa rằng: “Xin ngài cứ nhận cho, bây giờ đêm khuya không ai biết.”
Dương Chấn nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết.”
Vương Mật nghe nói, xấu hổ, lùi ra. Dương Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ chăm việc dân, việc nước không tham nhũng, không làm giàu cho mình, ông thường nói: “Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quý hơn tiền của ruộng nương lại cho chúng ư?”
Hậu Hán Thư
LỜI BÀN
Làm quan như ông Dương Chấn, đối với người mình đã đề bạt, không cần ơn, đối với người dân, mình cai trị không ăn lễ, lúc đêm khuya, tấm lòng cũng rõ rệt như lúc thanh thiên bạch nhật, cũng là một ông quan thanh liêm, làm gương cho bọn quan gian tham, lại nhũng muôn đời ư!
Làm quan mà vơ vét cho nhiều, chính mình có chắc đâu sẽ giữ được, huống chi còn mong để lại cho con cháu. Như thì để lại cho chúng cái tiếng thanh bạch, thơm tho muôn thuở, chả hơn là cái của phi nghĩa, chỉ tổ làm cho chúng kiêu sa, dâm dật, rồi đi đến bại vong ư!
Những câu chuyện ngụ ngôn hay
Chồn hôi
Chồn hôi tìm đến người thợ đồng và đưa lưỡi liếm cái giũa. máu ở lưởi chảy ra nhưng chồn hôi lại mừng rở liếm tiếp, nó nghĩ là máu từ sắt chảy ra, vì thế mà nó tự làm nát toạc cả cái lưỡi của nó.
Chuyện cười trong ngày
Như nhau cả
Một nhà khoa học tánh tình hay đa nghi, nên ông ta chế tạo ra robot phát hiện nói dối. Ngày chế tạo thành công, ông đem ra thử con trai. Cậu con trai vừa đi học về ông ta đem robot ra hỏi:
- Sao con đi học về trễ vậy?
- Con qua nhà bạn mượn sách về học.
- Robot phát hiện nói dối, đánh cho cậu con trai một cái.
Ông bố cười: Đó con thấy chưa, nói dối là phải chịu phạt. Lúc bằng tuổi con bố không dám nói dối ông nội nửa lời.
- Ngay lập tức, robot đạp ông ta một cái bay vô tường.
Người vợ thấy cậu con trai bị đánh đòn đau bèn nói: Sao anh làm thế với con, dù sao nó cũng là con anh!
- Robot nắm đầu bà vợ, đánh túi bụi
Thursday, April 25, 2013
Phật Học Vấn Đạo - Làm sao giữ chánh niệm liên tục?
Hỏi : Một người cư sĩ làm sao giũ chánh niệm liên tục được, như vậy không thể phòng hộ tâm được.?
(Bài giảng trong room Diệu Pháp . Ngày 27 tháng 04 năm 2003, Chánh Hạnh chuyển biên)
(Bài giảng trong room Diệu Pháp . Ngày 27 tháng 04 năm 2003, Chánh Hạnh chuyển biên)
TT Trí Siêu trả lời:Chúng ta hiểu như thế nào gọi là giữ chánh niệm liên tục. Danh từ gọi là chánh niệm Sati, không phải là ngồi một chỗ mà niệm như niệm Phật mà chúng ta bỏ đi những công ăn chuyện làm của mình. Chánh niệm ở đây tức là sự ghi nhận, một sự kiểm soát. Một người được gọi là bậc trí tuệ dầu đó là bậc xuất gia hay tại gia thì người này có thể giữ được tâm. Nếu như bậc xuất gia mà không có trí thì chúng ta không cần đặt vấn đề vị ấy phòng hộ nội tâm được hay không được. Người tại gia cư sĩ, nếu không phải là người trí cũng không đặt vấn đề là phòng hộ được hay không phòng hộ được nội tâm.
Chúng ta nên nhớ chỉ có người trí mới có thể giữ được tâm của mình. Tại sao như vậy? Bởi vì chỉ có người trí mới có đủ nghị lực, có đủ sự sáng suốt để nhận biết được sự phòng hộ tâm là quan trọng như thế nào, cho nên người trí dầu buổi ban đầu cũng khó thực hiện nhưng dần dần cũng có thể làm được. Thí dụ trong mười hành động, thoạt đầu chúng ta có thể ghi nhận kiểm soát được hai hành động. Sang ngày hôm sau chúng ta tập kiển soát được ba hành động, sau nữa chúng ta kiểm soát năm hành động. Cứ như thế đó thành thường cân y duyên, thành thói quen, thành phản xạ tự nhiên. Lúc bấy giờ hễ bước chân đi là chúng ta nhận thức được mình đang bước chân đi. Lúc vừa đặt thân ngồi xuống, chúng ta biết rõ hành động cử chỉ mình đang ngồi. Lúc dừng lại chúng ta biết rõ mình đang dừng lại, hay khi ngã nằm xuống chúng ta biết rõ mình đang nằm xuống. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thấy có những người có cử chỉ chẳng hạn như quơ tay múa chân, đi đứng chạy nhảy hoặc trong lời nói họ nói một cách bừa bãi, ồn ào, suồng sã, nói một cách không lịch sự không tế nhị. Tại sao họ không thể kềm giữ được? Tại vì họ không luyện chứ nếu luyện tập chánh niệm vẫn có thể chánh niệm được. Do đó Sư nói rằng người cư sĩ vẫn có thể phòng hộ nội tâm được nếu như người cư sĩ đó là bậc trí thức medhavi .
Mỗi Ngày Trầm Tư Sinh Tử
Tất cả những hành động dầu vô tình hay cố ý của chúng ta đều có tác ý. Tác ý, chúng tôi đề cập đến là vì không biết nên chúng ta hành động.
Nhiều khi chúng ta hành động bởi vì chúng ta không biết phải làm gì.
Đôi khi trong đời sống này con người có rất nhiều nghiệp thiện và có rất nhiều nghiệp ác. Nghiệp thiện nghiệp ác đó được ghi nhận giống như một cái cây. Trong suốt đời sống của một cái cây, từ lúc đâm chồi nẩy lộc cho đến khi cây đó chết đi thì thường những cây đó tạo ra rất nhiều quả, rất nhiều trái. Quả và trái đó đều có tiềm năng để sanh quả trên cây khác.
Cũng vậy khi con người chúng ta lớn lên trong đời sống, mỗi một hành động, mỗi một ngày mỗi một giờ có vô số nghiệp chúng ta tạo ra, đời sống của chúng ta tạo ra rất nhiều nghiệp. Nếu nói về phương diện vay- trả, chúng ta là những người vay nhiều hơn trả và không biết bao giờ chúng ta mới trả hết những gì mình đã vay. Trong kiếp sống này chúng ta chỉ có một mạng sống mà thôi.Tuy vậy nhiều khi chúng ta giết vô số sinh vật. Quý vị nhớ khi chúng ta còn nhỏ, chưa biết đạo, chúng ta giết kiến giết cá giết gà, giết con này con kia và nếu nói một mạng đền một mạng thì không bao giờ có đủ để đền hết những gì chúng ta làm.
TT Giác Đẳng giảng "Thập Nhị Nhân Duyên - Minh Hạnh chuyển biên)
Cổ Học Tinh Hoa
ỨNG ĐỐI LINH LỢI
Thiệu là con vua Nguyên Đế nhà Tần, lúc nhỏ đã cực kỳ thông tuệ.
Một hôm có sứ thần ở Trường An lại, vua Nguyên Đế hỏi thử rằng: “Trường An gần hay mặt trời gần hơn?”
Thiệu đáp: Trường An gần hơn.
- Tại làm sao?
- Tôi chỉ thấy nói có người ở Trường An lại, chứ chưa từng thấy nói có người ở mặt trời lại đây bao giờ.
Vua nghe câu nói lấy làm lạ. Cách mấy hôm, vua đem câu chuyện kể lại cho quần thần nghe. Nhân Thiệu đứng hầu bên lại hỏi đùa rằng:
- Trường An gần hay mặt trời gần hơn?
Thiệu đáp: Mặt trời gần hơn.
Vua ngạc nhiên hỏi: Sao hôm nay lại trả lời khác hôm nọ như thế?
- Tôi ngửng đầu lên, tôi trông thấy ngay mặt trời, chớ không trông thấy Trường An đâu cả.
Vua nghe lại càng lấy làm lạ.
Tấn Sử
Một hôm có sứ thần ở Trường An lại, vua Nguyên Đế hỏi thử rằng: “Trường An gần hay mặt trời gần hơn?”
Thiệu đáp: Trường An gần hơn.
- Tại làm sao?
- Tôi chỉ thấy nói có người ở Trường An lại, chứ chưa từng thấy nói có người ở mặt trời lại đây bao giờ.
Vua nghe câu nói lấy làm lạ. Cách mấy hôm, vua đem câu chuyện kể lại cho quần thần nghe. Nhân Thiệu đứng hầu bên lại hỏi đùa rằng:
- Trường An gần hay mặt trời gần hơn?
Thiệu đáp: Mặt trời gần hơn.
Vua ngạc nhiên hỏi: Sao hôm nay lại trả lời khác hôm nọ như thế?
- Tôi ngửng đầu lên, tôi trông thấy ngay mặt trời, chớ không trông thấy Trường An đâu cả.
Vua nghe lại càng lấy làm lạ.
Tấn Sử
GIẢI NGHĨA
Tấn: tên một nước triều đại bên Tàu (265-419)
Thiệu: sau nối ngôi Nguyên Đế, gọi là vua Minh Đế
Trường An: tên một thành cũ bên Tàu, tức là bắc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây bây giờ
Thiệu: sau nối ngôi Nguyên Đế, gọi là vua Minh Đế
Trường An: tên một thành cũ bên Tàu, tức là bắc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây bây giờ
Những câu chuyện ngụ ngôn hay
Hai chú gà trống và đại bàng.
Hai chú gà trống chọi nhau bên đống phân. Một chú sức lực khỏe hơn, đánh bại chú kia và đuổi nó đi khỏi đống phân. Cả lũ gà mái ào đến vây quanh gà trống, khen ngợi nó. Gà trống muốn được gà ở sân nhà khác biết về sức lực và vinh quang của nó. Anh chàng bay lên nóc căn nhà chứa đồ, vỗ cánh và lớn tiếng:
- Tất cả bọn các người hãy trông ta đây, ta đã đánh bại một gà trống khác ! Trên thế gian này không một con gà trống nào có sức lực như tâ.
Anh chàng chưa kịp hát hết bài, một gã đại bàng đã bay đến đánh gục, guặp vào móng và mang về tổ.
- Tất cả bọn các người hãy trông ta đây, ta đã đánh bại một gà trống khác ! Trên thế gian này không một con gà trống nào có sức lực như tâ.
Anh chàng chưa kịp hát hết bài, một gã đại bàng đã bay đến đánh gục, guặp vào móng và mang về tổ.
Chuyện cười trong ngày
Mắt còn tốt
Hai vợ chồng già nói chuyện với nhau:
- Anh vẫn chơi golf tốt chứ, Jack?
- Anh đánh vẫn tốt nhưng mắt đã kém quá rồi, nên không biết quả bóng nó lăn đi đâu.
- Thì anh đã 75 tuổi rồi còn gì! Sao anh không rủ anh Scott của em đi chơi cùng với?
- Nhưng anh ấy đã 85 tuổi, anh ấy còn chơi golf nữa đâu.
- Nhưng mắt anh ấy còn tốt lắm. Anh ấy có thể nhìn thấy quả bóng lăn đi đâu đấy. Có điều trí nhớ anh ấy hơi kém...
Hôm sau Jack đánh bóng và nhờ ông anh vợ Scott quan sát bóng. Jack đánh bóng, quả bóng lăn vào giữa sân.
- Anh có thấy quả bóng lăn đi đâu không? - Jack hỏi.
- Có.
- Nó đâu?
- Tôi quên mất rồi!
Wednesday, April 24, 2013
Phật Học Vấn Đạo - Tám Bậc Đáng Cúng Dường - TT Giác Đẳng giảng
TT Giác Đẳng giảng trong lớp Phật Pháp Buđdhadhamma ngày 19-2-2013, Thiên Ân chuyển biên
TT Giác Đẳng: Ở trong bài học ngày hôm nay, chúng tôi cần nói với quý Phật tử rằng đây là một đề tài mang tính trắc nghiệm cái nhìn của chúng ta đối với Phật Pháp, đặc biệt là chúng ta có dành thì giờ để nghiên cứu để thực hiện Phật Pháp. Đề tài này sở dĩ gọi là đề tài mang tính thách thức là bởi vì đa phần khi chúng ta nhìn vào chúng ta nhìn một cách đại loại, tức là nhìn cho nó qua, chúng ta không thấy nó quan trọng.
Nhưng ở một phương diện khác, đề tài này là một đề tài cực kỳ quan trọng. Nếu quý vị ngồi trước mắt chúng tôi, chúng tôi nhìn thẳng vào quý vị, chúng tôi nói rằng khi đề cập đến 8 hạng người đáng kính trọng này, chúng ta phải đi qua một chủ đề vô cùng lớn lao đó là Ân Đức của Tăng Bảo. Một người Phật tử sống trong Phật pháp, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, thì người Phật tử rất cần để biết thế nào là Phật Bảo, thế nào là Pháp bảo, thế nào là Tăng bảo. Và khi chúng ta nói đến Tăng Bảo, thì chúng ta đề cập đến Thánh chúng đệ tử Phật gồm Tứ san Bát bối hay là bốn đôi tám vị. Và khi nói đến bốn đôi tám vị hay nói một cách rõ hơn, là tám hạng người đáng được cúng dường, thì điều đó là một xác lập về: Ai thực sự gọi là Tăng, những bậc nào thực sư được gọi là Tăng, và Tăng bảo có những tánh hạnh, có những xứng đáng như thế nào.
Thưa quý vị, đề tài này vốn được nhìn ở trong một mức độ rất phiến diện bởi nhiều người. Lý do đơn giản là vì cái tên gọi. Trước tiên, chúng tôi muốn quý vị nhìn vào một cái nhìn rất quen thuộc khi chúng ta đề cập đến các vị Thánh đệ tử Phật, thì chúng ta nói là có bốn hạng Sa Môn là Đệ Nhất Sa Môn, Đệ Nhị Sa Môn, Đệ Tam Sa Môn và Đệ Tứ Sa Môn. Bốn hạng Sa Môn này được mô tả bằng một danh từ rất là hạn chế, đó là: Thất Lai, Nhất Lai, Bất Lai và Vô Sanh.
- Khi chúng ta nói Thất Lai, tức vị chứng đắc quả Tu Đà Hườn có nghĩa là khi chứng đắc quả này rồi, nếu vị này tái sanh ở cõi Dục Giới thì tái sanh không quá bảy lần.
- Vị Nhất Lai nghĩa là có trở lại thì trở lại nhiều nhất là một lần.
- Bất Lai nghĩa là sẽ không trở lại cõi Dục Giới nữa.
- Và vị Vô Sanh tức là không còn sanh tử luân hồi trong ba cõi.
Nói như vậy, đôi khi chúng ta ít mường tượng đến tính cách vĩ đại, đức tính cao quý của những vị này. Chuyện trở lại bao nhiêu lần hay không trở lại hay vĩnh viễn không tái sanh đối với chúng ta rất mơ hồ.
Chúng ta phải nhìn Bốn Đạo Bốn Quả trên ba góc cạnh, ba phương diện mà ba phương diện đó cho chúng ta thấy sự vĩ đại của chư vị Thánh.
1- Góc cạnh thứ nhất, chúng ta phải hiểu, khi đề cập đến Bốn Đạo, Bốn Quả. Bốn Đạo nghĩa là những vị có khả năng chặt đứt những sợi dây trói buộc, dây trói buộc đó gọi là (saṃyojana) hay còn gọi là Kiết sử, đó là sợi dây vô hình. Tại sao chúng ta ngày hôm nay vẫn là con người có phiền não và chúng ta không thể vượt thoát được sự trói trăn của mình? Có những người đi cả cuộc đời của mình mà cũng không đoạn tận những phiền não. Rất đơn giản, là vì sợi dây phiền não rất bền chặt. Mỗi người trong chúng ta phải hiểu được sự cột trói của dây phiền não nó bền chặt như thế nào, chúng ta trở đi, trở lại, trở đi, trở lại với sợi dây phiền não, thì chúng ta mới hiểu được tại sao cắt được sợi dây phiền não là một điều rất vĩ đại.
Chúng tôi nói một cách đơn giản khác, trong đời sống, một người nghiện rượu hay một người nghiện thuốc lá, bây giờ họ bỏ được rượu, bỏ được thuốc lá, quý Phật Tử có thấy vĩ đại không? Chắc chắn là chúng ta thấy họ có nghị lực rất lớn. Nhưng chuyện bỏ rượu, bỏ thuốc lá hay cai cần sa ma túy, nó rất nhỏ bé so với một vị có thể đoạn tận tất cả những kiết sử, như là đoạn tận thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ của vị Tu Đà Hườn, hay là giảm nhẹ dục ái và sân của vị Tư Đà Hàm, đoạn tận dục ái và sân của vị A Na Hàm, và vị đoạn tận Sắc Ái, Vô Sắc Ái, Ngã Mạn, Phóng Dật, Vô Minh như vị Thánh Vô Sanh hay chúng ta thường gọi là A La Hán. Không phải là chuyện dễ. Chúng ta ít có khi nào đánh giá hết được cái sự trói trăn, cái sự cột chặt đó ra sao.
Có những lần, chúng tôi xem những phim về ảo thuật, có những ảo thuật gia rất tài ba, họ bị cột vào những dây xích sắt và bị quăng vào trong một bồn nước. Họ chỉ có thời gian một vài phút để tự cởi trói rồi họ ra bên ngoài. Dĩ nhiên ở đó họ dùng xảo thuật. Nhưng mà, giả sử một người bị cột sợi dây vô trong tay rồi quăng xuống nước mà họ có khả năng tháo gỡ, vừa phải nín thở, vừa phải đủ bình tĩnh để tháo ra thì chúng ta thấy tâm phục khẩu phục rồi phải không? Nhưng cái đó thực sự chưa có gì so với sợi dây Kiết Sử ràng buộc.
Mình cứ nói như vầy, bây giờ mình nói đơn giản là lòng tự ái, lòng tự ái của chúng ta là: Cái chuyện khen chê là một chuyện rất là phù du. Người ta khen mình thì nói: “Chị đẹp quá” hay là “Anh giỏi quá” hay là thế này thế kia. Cái chuyện đó rất là phù du. Nhưng nó làm ảnh hưởng tâm hồn của chúng ta. Nếu người ta khen thì mình vui, nếu người ta chê thì mình buồn. Và chuyện đó đày đọa chúng ta từ khi chúng ta biết cuộc đời cho đến khi chúng ta chết vẫn còn. Cái việc vứt đi thân kiến không dễ, không dễ, không dễ chút nào hết. Phải có một ý thức thấy được mãnh lực lớn lao của phiền não. Như là một lần, có một số các vị Tỳ kheo đi vào thành Xá Vệ, thấy những tội nhân bị xiềng xích, bị sợi sắt kéo trên đường phố. Các vị về bàn tán với nhau và Đức Phật nghe được chuyện đó thì Đức Phật Ngài dạy chư Tỳ kheo rằng, sự thực những sợi xích mình thấy chắc chắn đó không bằng sợi dây cột trói của thân và tâm, sự phiền não. Ở đây Đức Phật đề cập đến Kiết sử. Mình phải nhìn thấy sự cột trói ở phương diện như vậy thì mình mới thấy tại sao những vị có khả năng chặt đứt hay cởi ra sợi dây cột trói đó, sợi dây Kiết sử đó, đó là một việc làm rất là vĩ đại.
Chúng ta thường học Phật ở trong cái nhìn qua loa, mình không thấy tính cách trọng yếu của điểm này.
2- Bây giờ, chúng tôi nói sang khía cạnh thứ hai. Ở khía cạnh đầu tiên, chúng ta nói đến khả năng đoạn Kiết sử của một vị Sơ Đạo, Nhị Đạo, Tam Đạo, Tứ Đạo. Nhưng mà đời sống của một vị Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả có những điều vi diệu lắm.
Lấy một ví dụ như vầy, một vị Sơ Quả bằng niềm tin bất thối, ví dụ như vị đó làm phước, vị đó giàu cũng làm phước, nghèo cũng làm phước, việc đó chúng ta thấy đáng nể rồi. Việc người ta đến mua chuộc mình để bỏ Đạo, bỏ Phật, Pháp, Tăng, các vị không thể bỏ, dù cho có lời hứa hẹn, điều đó mình thấy cũng đáng nể rồi. Nhưng mà chúng ta nói như vậy, những bậc càng thanh tịnh, thì quả thực các vị đó càng xứng đáng cúng dường. Về điều này, nó khó diễn tả mà người Phật tử khó hiểu. Nhưng mà nói như vậy, khi chúng ta tạo phước, một người khi họ nhận sự cúng dường, tâm càng ít đắm nhiễm với vật cúng dường, tâm càng thanh tịnh thì phước càng nhiều.
Chúng tôi lấy ví dụ: bây giờ mình đem tiền cho một người ăn xin, người ăn xin thấy được tiền họ mừng rỡ, họ nghĩ đến chuyện lấy tiền đó mua đồ ăn ngon, mua rượu uống, thì chuyện mình bố thí như vậy có phước chứ không phải không có phước, nhưng phước đó không thù thắng. Điều đó rất là lạ. Nhưng khi mình cúng dường đến bậc tu hành, bậc đó khi nhận thực phẩm thay vì cảm thấy đắm nhiễm trong thực phẩm đó, thì bậc đó biết quán tưởng, thực phẩm này vốn là vật thanh tịnh, bây giờ mình ăn vào thì trở thành bất tịnh hay mình ăn để nuôi mạng chứ không phải ăn để đắm nhiễm. Một chút suy tư như vậy cũng tạo ra phước báu vô lượng cho vị thí chủ.
Nói một cách khác, Đức Phật Ngài dạy rằng khi làm phước, tâm người bố thí thanh tịnh, tâm người thọ thí cũng thanh tịnh thì phước báu là vi diệu. Nhưng người thọ thí thanh tịnh khó lắm.
Đời sống con người bây giờ, chúng tôi lấy ví dụ, chúng ta là người sống nặng về tiền bạc, bây giờ có ai đem tiền đến cho chúng ta, cho một hai trăm ngàn thì đương nhiên chúng ta cảm thấy sung sướng, cảm thấy vui, cảm thấy đắm nhiễm, thậm chí tăng lên ngã chấp: “Oh, mình phải có phước lắm, mình phải thế này thế kia người ta mới cúng cho mình nhiều tiền như vậy.” Chính tâm tham đắm đó làm cho phước của vị thí chủ không được thù thắng.
Nhưng nếu quý vị cúng dường gì đó cho một bậc không có phiền não, vị đó nhận cũng được và chỉ dùng như một nhu cầu vừa phải thì thật sự phước đó vi diệu. Bởi vì có một điều rất là trớ trêu, có đôi khi, rất khó nói với quý Phật tử. Giả sử quý Phật tử mang thức ăn đến cho Chư Tăng, quý vị để ý chung chung, nếu Chư Tăng thọ thực và Chư Tăng khen rằng bữa nay cô nấu đồ ăn ngon quá, ăn thấy ngon miệng, thì thật sự ai cũng vui hết. Chúng tôi làm trụ trì chúng tôi biết, ai cũng vui hết. Nhưng ít có Phật tử nào biết rằng, khi Chư Tăng ăn không có đắm nhiễm, nghĩa là ăn có quán tưởng là mình ăn chỉ để nuôi mạng thôi, thì chính sự quán tưởng đó sẽ làm cho vị thí chủ có phước hơn là một vị sư thọ thực mà cảm thấy đắm nhiễm với thực phẩm đó. Nhưng mà người đời không nhìn thấy như vậy. Người thế gian đi chùa đem thực phẩm đến cúng dường Chư Tăng mà Chư Tăng càng thích thú, càng thích ăn món ăn đó thì quý vị nghĩ như vậy có phước nhiều. Nhưng ở trên thực tế, Đức Phật Ngài dạy rằng, cúng dường đến những bậc ly trần vô cấu, ly tham thì mới thật sự có phước.
Thì ở đây chúng ta nói về trường hợp của các bậc Thánh, đời sống một vị Thánh Tu Đà Hườn, vị thành tựu niềm tin bất thối, không còn những tà kiến, hay vị Thánh Tư Đà Hàm, vị đã giảm nhẹ dục ái và sân, tức giảm nhẹ sự đắm nhiễm đối với sắc, thinh, khí, vị, xúc và giảm nhẹ sân, vị A Na Hàm là vị đoạn tận dục ái và sân. Vị A La Hán là vị đã đoạn tận 5 hạ phần kiết sử (đã đoạn tận rồi), 5 thượng phần kiết sử: sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng dật, vô minh đều đoạn tận hết. Thì thật sự những vị đó chính là những phước điền vô cùng cao cả. Trong cuộc sống đôi khi mình phải hiểu những chuyện này.
Nhiều lúc chúng tôi đưa quý Phật tử đi sang Ấn Độ hay đi khắp nơi hành hương, chúng tôi dẫn quý vị đến một tháp để thờ chư vị A La Hán, như là Xá Lợi chẳng hạn. Xá Lợi Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên được thờ tại Bồ Đề Đạo Tràng hay tại Vườn Lộc Uyển. Chúng tôi rất tiếc là không có cách nào để nói hết nói đủ, để quý vị thấy được sự cao cả của các bậc Thánh đã đoạn tận phiền não, cho dù bây giờ các Ngài viên tịch mà mình đến Xá Lợi các Ngài mình đảnh lễ thì mình cũng tạo được rất nhiều phước báu. Thành ra mình nên có một tâm nguyện như vậy: Làm sao mình tu tập mình có duyên để đời sau mình sinh ra đời ở quốc độ có các vị Thánh nhân, các vị giải thoát, để mình có thể được gặp, có thể được nghe các vị hướng dẫn, hoặc giả là để đảnh lễ các vị đó, hoặc để cúng dường các vị đó. Chuyện đó là một phước hạnh rất là cao quý rất là vĩ đại. Có nhiều Phật tử hay nguyện mình trúng số độc đắc, nhưng rất ít Phật tử có ước nguyện rằng mình gặp được những bậc Thánh nhân. Thật ra khi gặp được các bậc Thánh, dù là Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm hay A La Hán với tâm tư đã đoạn tận một phần hay đã đoạn tận hết kiết sử thì các vị đó đúng nghĩa là phước điền vô thượng ở đời.
Nên khi chúng tôi nói như vậy, quý Phật tử đế ý, khi Đức Phật Ngài nói về Phật, về Pháp, về Tăng. Khi Ngài nói về Tăng, Ngài đặc biệt nói về Tứ san Bát bối, tức những bậc Thánh đệ tử đã từ sự khai thị của Đức Phật mà đã chứng hoặc là Tư Đà Hườn, Từ Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Và Đức Phật Ngài khen rằng vị đó có bốn hạnh:
- Đặc biệt hạnh thứ nhất gọi là: Thiện hạnh (Supaṭipanno), tức những vị khéo thực hành. Quý vị biết rằng ở trong cuộc đời này không phải ai làm gì cũng thành công hết. Mà để làm thành công thì họ có cái khéo nhất định của họ, thì cái khéo đó mình gọi là Supaṭipanno, Thiện hạnh.
- Hạnh thứ hai gọi là Trực hạnh, tức mình đau thì mình trị bệnh, đói thì mình ăn, khát nước thì mình uống, chứ không phải mình đi vòng vo tam quốc. Chúng tôi nói ví dụ như bây giờ: Mình khổ, trong lòng mình khổ, thay vì mình ngồi xuống để nhìn vào cái phiền não, mình đối trị phiền não thì mình lại chạy đi tìm ông A bà B nào đó mình tâm sự để xin người đó, họ vuốt ve, họ làm cho mình bớt khổ. Tức là chúng ta, nói theo ngôn ngữ của thế gian là đi cà vòng ở bên ngoài, không bao giờ thấy trực tiếp cái khổ. Quý vị thấy hằng năm, có bao nhiêu ngày Tết, bao nhiêu người đi chùa để dâng hương, để cầu phước, để cầu an lạc. Nhưng thật ra nếu mình thật sự tu tập, thì niềm an lạc đó mình có thể tạo được, ví dụ như bằng pháp bố thí, trì giới, thiền định hay là ở trong giờ phút mình nghe pháp, mình lắng đọng tâm tư để tạo sự an lạc. Nhưng mình không chịu tạo cái an lạc cho mình. Mình lại đi chỗ này đi chỗ kia. Người ta có một thí dụ là: Ở trên tay mình có một cái đồng hồ, nhưng mình không coi giờ, lại đi hỏi giờ người khác. Thì đời sống chúng ta, chúng ta thiếu một điều là Ujupaṭipanno, gọi là trực hạnh. Trực hạnh tức là mình nhìn vấn đề một cách cụ thể, một cách trực tiếp. Cụ thể trực tiếp giúp cho mình nhiều lắm. Như ở trong kinh doanh, người ta nói “Mua tận gốc, bán tận ngọn” thì làm ăn khá. Tức không phải qua trung gian. Đời sống của chúng ta, cái nhìn của chúng ta, sự tu tập của chúng ta thường hay qua trung gian. Trung gian đó là vì sao? Chúng ta không quý trọng sự trải nghiệm, kinh nghiệm của mỗi cá nhân trực tiếp của mình. Ví dụ như mình có tham, có sân, mình có những sự hoan hỷ, mình có thiện tâm thiện pháp, mình không chịu nhìn, không chịu phát triển nó, mà tối ngày mình cứ nghĩ rằng đi tìm một ai đó để cố vấn cho mình, đi tìm một ai đó để họ cho mình những thứ đó, đi tìm một ai đó để mình gửi gắm, để mình ký thác, nhưng mình không trực tiếp thực hiện, thành ra mình thiếu cái mà Đức Phật gọi đó là Trực hạnh. Các bậc Thánh có một điểm mà Đức Phật khen là Ujupaṭipanno (Trực hạnh).
- Các bậc Thánh cũng có Ñāyapaṭipanno là Như hạnh. Như hạnh nói một cách rõ hơn là Như lý hạnh, tức vị đó sống hợp nguyên tắc thiên nhiên, với những định lý thiên nhiên. Chúng tôi lấy ví dụ là trong cuộc sống của chúng ta, tim chúng ta có quá nhiều cholesterol thì nó có vấn đề. Thành ra mình biết định lý là mình sống sao đó hợp cách để bớt cholesterol thì mình tránh cơn nạn về tim. Hoặc giả là ở trong cuộc sống của mình, mình biết rằng mình muốn đạt được điều gì đó thì mình phải quân bình, nếu cực đoan quá thì mình sẽ chao đảo. Cái luật trung đạo quân bình cũng là luật thiên nhiên. Một người có những thành tựu trong sự tu tập thì người đó phải đi theo định luật gọi là Như hạnh. Như hạnh hay Như lý hạnh ở đây, Như lý tức là hợp với lẽ thật, hợp với định luật thiên nhiên, hợp với Pháp. Chúng tôi lấy một ví dụ là quý vị nấu chè hay nấu thức ăn, có người nấu chè đậu nhưng hạt đậu không mềm mà bị sượng đi hay luộc rau mà rau không xanh lại bị sạm đi là vì chúng ta không luộc đúng cách. Cái gọi là đúng cách, hợp cách, hợp với thiên nhiên, hợp với quy luật của thiên nhiên, cái đó chúng ta gọi là Ñāyapaṭipanno.
- Một cái nữa gọi là Sāmīcipaṭipanno tức Chân chánh hạnh, không chỉ làm hợp cách mà còn làm một cách cao quý. Thường trong Đạo Phật định nghĩa “Chân chánh” có nhiều cách. Chữ “Chân chánh” có nghĩa là việc làm đó lợi cho người, lợi cho mình, hoặc là lợi cả hai. Việc làm đó không có gì tà vại thì gọi là Chân chánh.
Dù là Thiện hạnh, Trực hạnh, Như hạnh, Chánh hạnh thì bốn điều này đều nói lên sự vĩ đại của Tăng Bảo, đều nói lên sự vĩ đại của tám bậc đáng cúng dường, tức Sơ Đạo, Sơ Quả, Nhị Đạo, Nhị Quả, Tam Đạo, Tam Quả, Tứ Đạo, Tứ Quả. Khi nói đến đáng cúng dường, Đức Phật dùng nhiều từ ngữ rất hay. Ở trong sự đáng cúng dường đó có năm khía cạnh, hay năm phương diện mà vị đó đáng cúng dường.
Phương diện đầu tiên gọi là “Āhuṇeyyo” tức sự cúng dường bằng tấm lòng tôn kính. Chúng tôi lấy ví dụ như là: Trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta thường cúng hương đăng hoa quả lên bàn Phật, hay chúng ta cúng dường những vật quan trọng lên thầy Tổ, hay lên cha mẹ. Nhưng cái lòng cung kính, tức cung kính đối với vật thí, cung kính đối với đối tượng thí, cung kính trong tư cách bố thí của mình thì Bốn Đạo, Bốn Quả, hay Tứ san bát bối hay tám hạng người đáng cúng dường là những bậc gọi là” Āhuṇeyyo” xứng đáng nhận được sự tôn kính đó bằng lòng cung kính. Sự cúng dường bằng lòng cung kính mà chúng tôi gọi là xứng đáng nhận lễ phẩm.
“Pāhuṇeyyo” nghĩa là các vị xứng đáng thọ nhận với sự thương mến, với sự thân thiện. Thường thường chúng ta gọi là “tặng phẩm”. Ví dụ mình đi xa, mà mình có một người nào đó rất thân, rất thương. Mình về mình muốn có một cái gì đó mình tặng như một người bạn thân. Trong Đạo gọi là “Pāhuṇeyyo”. Hòa Thượng Hộ Giác hay gọi là đạo tịnh hay là sự thân thiện, hay sự thân ái. “Pāhuṇeyyo” chúng ta gọi là xứng đáng nhận tặng phẩm, nhưng chữ tặng phẩm ở đây tức là xứng đáng nhận tặng phẩm cho với sự thân ái. Nói một cách khác là những vị này là những người bạn lành. Mình tưởng tượng mình sống trong cuộc đời, có những người mình hoàn toàn có thể tin được tại vì họ sống rất trong sạch về giới. Mình hoàn toàn có thể tin tưởng được là vị đó không có thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh. Mình hoàn toàn có thể tin tưởng được vì vị đó mang lại phúc lạc và tiến hóa cho mình. Thì những vị đó đúng là bạn lành. Bạn lành tức những vị rất đáng nhận sự cúng dường bằng tấm lòng thương mến gọi là “Pāhuṇeyyo”.
“Dakkhiṇeyyo” là một chữ rất quan trọng. “Dakkhiṇeyyo” có nghĩa là xứng đáng nhận sự cúng dường của những người muốn cầu phước, mà chúng ta gọi là “xứng đáng nhận tế phẩm”. Lấy ví dụ như là, thân mẫu của chúng tôi mất, chúng tôi làm phước thỉnh Chư Tăng đến để cúng dường đến đại tăng để cầu phước để hồi hướng. Cái chuyện chúng ta làm phước đó gọi là gọi là” Dakkhiṇādāna”, tức một sự cúng dường nhưng trong sự cúng dường đó vị thí chủ mong cầu tạo được phước để hồi hướng, gọi là “Dakkhiṇeyyo”.
“Añjalikaraṇīyo” là xứng đáng được chắp tay kính lễ. Chắp tay ở đây khác với chắp tay chào. Quý vị đưa tay lên chắp tay với chúng tôi chỉ là chắp tay chào thôi. Ở Ấn Độ hay ở nhiều nơi người ta hay chắp tay để chào. Nhưng chắp tay kính lễ nghĩa là chắp tay đưa lên ngang trán, cuối đầu xuống một chút. Quý vị về các quốc gia Phật giáo quý vị hiểu được chắp tay chào nhau khác chắp tay kính lễ. Quỳ xuống đảnh lễ cũng là “Añjalikaraṇīyo”, tức xứng đáng được đảnh lễ.
“Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā”, tức là phước điền vô thượng ở thế gian. Ở đây, về điểm này, Đức Phật Ngài có nói một vài điều rất là đặc biệt mà chúng ta phải lưu ý. Ngài nói rằng có hai sự khác biệt giữa một cá thể và một cộng đồng. Một cá thể dù có cao quý đến đâu đi nữa thì cũng không bằng cộng đồng. Đây là điều chúng ta phải nhớ. Ở trong chữ Hán, dùng một từ chúng tôi rất thích là “thống lý đại chúng”. Tức một người hiểu rõ tính cách vĩ đại của đại chúng. Đại chúng tức một số đông, cái gì gọi là chung thì mình tôn trọng. Chúng tôi lấy ví dụ như mình làm việc sinh hoạt ở trong room Phật Pháp Buddhadhamma, có TT. Pháp Tân, TT. Pháp Đăng, vị này vị kia, thì cái chuyện quý vị Phật tử thương mến hay quý trọng một vài cá nhân thì đó là một chuyện khác. Nhưng nói đến hội chúng, nói về đám đông thì đó là một chuyện hoàn toàn khác.
Tại vì sao vậy? Khi chúng ta nói đến một cộng đồng hay một đám đông thì đó giống như một bản nhạc giao hưởng, bản nhạc giao hưởng đó là sự kết hợp của nhiều nhạc khí, nhiều nhạc cụ, nhiều hòa âm, một sự hòa âm tạo ra âm thanh hoàn toàn khác. Có đi, có sống, có hiểu thì mới thấy được giá trị của đại chúng quan trọng như thế nào, giá trị của số đông quan trọng như thế nào. Ở trong cuộc đời, có một điều rất lạ là cá nhân của chúng ta có thể là cao quý hoặc không cao quý nhưng chính ý lực của phần đông thì nó tạo nên những điều mang tính vượt thoát. Chúng tôi lấy ví dụ đơn giản là trong những xã hội thời xưa, người ta hay phụ thuộc vào quyết định của một cá nhân như một vị vua hay một nhà lãnh đạo. Nhưng ngày nay, khi người ta đề cập đến dân chủ là người ta nói đến quyết định của phần đông. Dĩ nhiên không phải chuyện gì cũng đem ra mấy trăm triệu người quyết định, nhưng mấy trăm triệu người đó có khả năng ủy thác cho một người nào đó bằng cách bầu chọn một người nào đó lên làm tổng thống chẳng hạn, và người đó có quyền để quyết định. Thì như vậy người đó làm việc là do sự ủy thác của phần đông. Cái đó nó cũng mang tính đại chúng. Tinh thần “thống lý đại chúng” của Đạo Phật ở một phương diện nào đó nó tương tự như giá trị dân chủ. Nghĩa là không cần biết ở trong cộng đồng đó, xã hội đó đẹp xấu hay dở cao thấp như thế nào, nhưng những ý kiến, những tùy thuận, sự làm việc mà nó là sự hợp quần của một cộng đồng, của nhiều người thì bao giờ nó cũng có giá trị.
Quý Phật tử để ý một điểm này, có nhiều Phật tử nói với chúng tôi rằng, trong số chư vị giảng sư vào trong room giảng thì quý vị thích vị này hay là quý vị chuộng nghe vị này nói hay quý vị chuộng nghe vị kia nói chuyện. Nhiều khi chúng tôi phải mất thì giờ để chúng tôi giải thích là đối với chúng tôi, giá trị của công việc sinh hoạt như room Phật pháp Buddhadhamma ở đây không phải giá trị của Thượng Tọa Tuệ Siêu một mình, hay chúng tôi một mình hay Thượng Tọa Pháp Đăng một mình, Thượng Tọa Pháp Tân một mình, Đại Đức Huệ Tiến, hay Đại Đức Pháp Tín, mà đó là một sự cộng hưởng, đó là sự hợp tác của nhiều người. Sự hợp tác của nhiều người có một điều vô hình trung nó tạo thành cái chuẩn mực. Lấy ví dụ như là khi chúng tôi làm việc cá nhân thì chúng tôi muốn nói sao cũng được. Nhưng khi chúng tôi làm việc với Chư Tăng, thì chúng tôi phải tìm một tiêu chuẩn nào đó mà tất cả Chư Tăng đều phải đồng ý với nhau. Ví dụ như, ở đây có nhiều Phật tử không để ý, nhưng mà Chư Tăng làm việc ở trong room thì bao giờ cũng lấy Tam Tạng Pali để làm chuẩn mực hết. Thượng Tọa Tuệ Siêu có nói gì thì nói, chúng tôi có nói gì thì nói, Thượng Tọa Pháp Tân, Thượng Tọa Pháp Đăng có nói gì thì nói hay chư vị khác cũng vậy, thì cũng phải dựa trên Tam Tạng kinh điển mà nói. Nếu nói đi xa ngoài đó thì chúng ta có thể kéo trở lại. Cái chuyện đại chúng rất là quan trọng.
Khi Đức Phật gọi Tăng chúng là vô thượng phước điền thì Đức Phật có dạy điều này, mà quý Phật tử thật sự khó hiểu. Ví dụ như Ngài nói rằng: Một việc cúng dường đến tứ phương Tăng vẫn có phước hơn cúng dường cá nhân một vị Phật. Chuyện đó không phải đơn giản.
Trong kinh “Cúng Dường Phân Biệt trong Trung Bộ Kinh, Di mẫu Māyāpatigotamī, may một bộ y để cúng dường đặc biệt cho Đức Phật bằng tất cả lòng thương, với tất cả tâm kính trọng, nhưng Đức Phật vẫn nhấn mạnh một chuyện là cúng dường đến Đại Tăng vẫn có phước hơn. Và đó là cái nhìn của Đức Phật, một bậc Đại Giác. Nhiều khi chúng ta phải ngồi ôn lại, nhai lại. Như khi chúng tôi sống ở tại đây, Ngài Hòa Thượng Hộ Giác, Ngài là vị trưởng lão, không chỉ tuổi đạo mà còn tuổi đời, không phải chỉ là bậc thầy mà còn là bậc lãnh đạo. Ngài có chức này chức kia. Nhưng mà quý vị biết một điều mà Ngài để lại cho Chư Tăng đó là, có những việc cần quyết định thì Ngài họp Chư Tăng lại, Chư Tăng có đồng tình với nhau, bàn bạc với nhau. Nếu một người nhìn vô thì cảm tưởng như Hòa Thượng là vị lãnh đạo, Ngài cũng là vị khôn ngoan, nhưng sao Ngài không tự quyết định mà Ngài phải họp Chư Tăng. Không phải, cái giá trị nó khác biệt lắm. Giá trị của cá nhân khác mà của đại chúng khác. Giá trị của đại chúng là mình ngồi xuống, mình thảo luận, mình đồng thuận. Và đồng thuận chính là bản nhạc giao hưởng khác với một người ôm cây đàn guitar hát, hay một thành viên xã hội ứng xử khác với một cộng đồng. Những điều đó khác biệt nhiều. Và chính cộng đồng, chính số lượng lớn như vậy, chỉ có Tăng bảo mới có được điều đó, Tăng bảo mới có điều vi diệu đó. Tăng bảo là một cộng đồng kết hợp bởi nhiều Thánh đệ tử của Đức Phật, do đó các Ngài là vô thượng phước điền ở đời.
Bây giờ chúng tôi muốn mời quý vị trở lại đề tài này, khi chúng ta nói về tám bậc đáng cúng dường, chúng ta nên biết về bốn yếu tính ở trong bài học này.
1. Yếu tính thứ nhất là được xem là Tăng bảo (sāvakasaṅgho), Tăng bảo đúng nghĩa là Tăng, là đệ tử Phật. Những vị đệ tử này là những vị đã trưởng thành từ lời dạy của Đức Phật. Còn Chư Tăng mà chúng ta gọi là “bhikkhu sangha” là Chư Tăng mang tính quy ước. Ví dụ một vị Tỳ kheo vào chùa, Chư Tăng thấy được rồi chào hỏi vị ấy là một thành viên của Tăng Già. Bốn vị trở lên gọi là Tăng, Tăng mang tính quy ước. Nhưng hội chúng của những bậc Thánh đệ tử Phật từ Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, thì những vị đó đúng là những người con của Đức Phật, lớn lên từ lời dạy của Đức Phật, trưởng thành từ lời dạy của Đức Phật. Chúng ta nói một cách khác các vị đó chính là những đệ tử Phật thực thụ. Còn khi chúng ta chưa đắc đạo, chứng quả, thì chúng ta còn khi vầy khi khác, lúc thăng lúc trầm. Riêng đối với các vị Thánh đệ tử Phật thì các vị mới là những đệ tử thực thụ, gọi là “sāvakasaṅgha”, tức Thinh văn đệ tử Phật, tăng chúng đệ tử Phật.
2. Khía cạnh thứ hai chúng ta nên biết, khi chúng ta đề cập đến tám hạng người đáng cúng dường gồm bốn đạo bốn quả thì chúng ta biết sự thù thắng của những vị này. Sự thù thắng của các vị này là điều chúng ta phải chiêm nghiệm. Ví dụ như là mình nói về bốn đạo Sơ Đạo, Nhị Đạo, Tam Đạo, Tứ Đạo. Sơ Đạo tức Tu Đà Hườn Đạo, Nhị Đạo tức Tư Đà Hàm Đạo, Tam Đạo tức A Na Hàm Đạo, Tứ Đạo tức A La Hán Đạo. Khi nói đến bốn bậc Thánh này, thì chúng ta hiểu được rằng bốn bậc Thánh có khả năng đoạn tận hay giảm nhẹ kiết sử và phải hiểu được tính chất bền chặt, nặng nề, xiềng xích của mười kiết sử đó thì chúng ta mới thấy sự vĩ đại của bốn Đạo. Mình không hiểu điều đó thì không thấy được. Hồi nãy chúng tôi có nhắc là một người nghiện trà, nghiện cà phê, nghiện thuốc lá, nghiện cần sa ma túy mà họ bỏ được thì mình đã phục rồi, nhưng chuyện cai thuốc, cai cà phê, cai thuốc lá mãi mãi không thể so sánh với chuyện đoạn tận kiết sử hết. Đoạn tận kiết sử là chuyện vĩ đại lắm. Và khi chúng ta nói đến bốn quả, thật ra hễ đắc đạo là đắc quả. Quả đó là một hệ luận tự nhiên đi theo Đạo, tức vị đắc Sơ Đạo thì sau đó là Sơ Quả. Đời sống của những vị Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả là đời sống của những vị đoạn tận, giảm nhẹ phiền não, đời sống của vị đó có nhiều điều vi diệu mà chúng ta có thể cảm nhận được, cảm nhận một cách sâu xa về sự vĩ đại đó.
3. Điều thứ ba chúng tôi muốn nói ở tại đây, trên phương diện thù thắng thì Đức Phật gọi tám bậc đáng cúng dường là các Ngài thành tựu được bốn hạnh cao quý: Thiện hạnh (Supaṭipanno), Trực hạnh (Ujupaṭipanno), Như hạnh (Ñāyapaṭipanno), Chánh hạnh (Sāmīcipaṭipanno). Bốn hạnh này, nếu chúng ta có nhiều thì giờ để chúng ta thảo luận, thì chúng ta thấy rằng đó là một điều rất là vĩ đại. Và đó là khía cạnh thứ ba mà chúng ta phải biết.
4. Ở trong khía cạnh thứ tư mà chúng tôi nói nãy giờ, bởi bốn vị đó đã thành tựu những hạnh vĩ đại như vậy, do đó gọi các vị đó là
Āhuṇeyyo, xứng đáng được cúng dường với lòng tôn kính.
Pāhuṇeyyo, xứng đáng được cúng dường với tâm thương mến hay với tâm ái kính.
Dakkhiṇeyyo là xứng đáng nhận được sự cúng dường với tâm cầu phước.
Añjalikaraṇīyo, xứng đáng được chắp tay kính lễ, tức là xứng đáng được người khác nghiêng mình, hạ mình để lễ bái.
Và Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā tức xứng đáng được gọi là ruộng phước cao quý nhất ở đời.
Thì thưa quý vị, về những điểm này chúng ta phải hiểu và phải nghiền ngẫm, phải suy ngẫm rất nhiều để chúng ta thấy. Vấn đề của người Phật tử, ở tại các quốc gia Phật giáo thì không nói. Các quốc gia Phật giáo về điểm này thì rõ lắm. Nhưng Phật tử ở những quốc gia không phải Phật giáo thì thường thường là biết rõ về ân đức Phật, nhiều lắm là biết về ân đức Pháp, nhưng rất ít người biết về ân đức của Tăng. Và khi chúng ta nói về ân đức Tăng thì chúng ta phải nói đến tám bậc Thánh mà chúng ta đề cập là tám hạng người xứng đáng được cúng dường ngày hôm nay. Có nhiều khi chúng tôi đi đó đi đây, chúng tôi gặp Phật tử. Nhiều vị nghiên cứu Phật học, họ hay miệt thị chữ “Thinh văn” (sāvaka). Chúng tôi ngồi nghe và lấy làm tiếc là các vị đó không chịu tìm hiểu sâu. Nếu mà chúng ta chịu khó tìm hiểu sâu, chữ “Thinh văn” là một chữ rất đẹp. Thinh văn (sāvakosaṅgha), những bậc thánh đệ tử được khai thị bởi Đức Phật, biết lắng nghe chánh pháp, và từ sự lắng nghe có được thành tựu. Thì không có lý do gì chúng ta miệt thị những vị đó hết. Những vị đó đều là Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, đều là những bậc xứng đáng được chắp tay và mình đừng coi thường chuyện đó. Chúng ta đừng nói những vị đó là những vị ích kỷ, hạ căn, tiêu nha bại chủng. Đừng nghĩ như vậy. Nghĩ như vậy rất là tội. Tại vì sao? Thứ nhất, các vị đó là những bậc Tăng bảo. Và thứ hai, chính Đức Phật, chính từ kim khẩu của Đức Phật, Ngài cũng nói rằng, những vị đó là:
- Āhuṇeyyo, Pāhuṇeyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā, xứng đáng thọ nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng ở đời.
Những điều đó là điều Đức Phật Ngài dạy. Phải thấy, phải hiểu và hiểu một cách rõ ràng, thì chúng ta mới thấy rằng tại sao những vị này là những vị xứng đáng được cúng dường.
Thưa quý vị, hôm nay, chúng ta đề cập đến tám bậc đáng cúng dường, chúng tôi nhắc lại một điều, thường thường chúng ta nhìn đề tài này một cách đại loại, thường cách chúng ta nhìn bậc Thánh, người ta nói “ăn cơm dưới đất, nói chuyện trên trời”. Điều đó cũng đúng một phần. Chúng ta ngồi nói chuyện về Phật, Phật này Phật kia, vị nào cao quý, và cơ hồ dường như chúng ta nghĩ rằng những quả vị, những Thánh quả này là những vị thấp, những vị nhỏ. Ở đây không phải vấn đề thấp nhỏ, mà chúng ta phải nhìn tính cách vĩ đại của những bậc đoạn tận, giảm thiểu các kiết sử. Thời Đức Phật còn tại thế, Ngài dùng những từ rất trang trọng để chỉ những bậc Thánh đáng cúng dường Đệ Nhất Sa Môn, Đệ Nhị Sa Môn, Đệ Tam Sa Môn, Đệ Tứ Sa Môn, tức những vị có tu, có chứng, có thành tựu, và những vị này mới được liệt vào Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ Sa Môn. Nếu có một điều gì đáng để hy cầu, đáng để mong đợi, đang để mong mỏi thì hãy mong mỏi như vậy. Chúng tôi lấy ví dụ như là: Đức Phật Ngài dạy rằng, nếu chư Tỳ kheo còn ước vọng mong mỏi rằng ở trong cuộc tu, mình sẽ trở thành một vị nào đó. Hình ảnh của Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Xá Lợi Phất là hình ảnh đáng để mong mỏi, là những bậc giáo thọ sư, những bậc làm gương cho hậu thế. Và thưa quý vị, phải hiểu về tám bậc này ở trong ý nghĩa xuyên suốt thì chúng ta mới hiểu điều mà chúng ta gọi là thống lý đại chúng, tức ý nghĩa của đại thể, của cộng đồng, của tăng chúng.
Trong chữ Hán cũng có câu: “Đức chúng như hải”. Người ta nói “đức chúng như hải”, người ta nghĩ đến số đông thôi. Nhưng mà chính hội chúng gồm có bốn bậc Sa Môn, ở đây là Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ Sa Môn mới gọi là “đức chúng như hải”. Những câu đó nói chúng ta nghiệm, chúng ta nhìn về một góc cạnh nào đó thì chúng ta cảm thấy rất là thâm sâu, rất là thấm thía.
Chúng tôi chia sẻ với quý Phật tử điều này. Hiện bây giờ chúng ta không có duyên nhiều để gặp được các bậc Thánh, và thực sự dù chúng ta gặp chúng ta cũng không biết vị nào là Thánh nhân. Nhưng chúng ta còn có một duyên rất lớn, đó là chúng ta còn Tăng chúng, được hiểu theo số đông. Tức là khi nói đến Tăng thì chúng ta đừng nghĩ rằng sư A, sư B, thầy này thầy kia, chúng ta đừng nghĩ như vậy. Chúng ta nghĩ đến số đông. Và số đông đó cũng cho chúng ta một cái phước rất lớn, vi diệu. Nên bản thân cá nhân của chúng tôi, khi thân mẫu của chúng tôi mất hay khi Ngài Hòa Thượng mất, chúng tôi trong bổn phẩn làm con hay làm học trò đối với mẹ, đối với thầy tổ, điều mà chúng tôi tập trung làm nhiều nhất chính là những phước sự trai tăng cúng dường. Đối với nhiều Phật tử, quý vị xem đó giống như một nghi thức, nghi lễ bên ngoài. Nhưng thực sự là chúng tôi tin rằng, chính những buổi lễ trai tăng, những gì thuộc về số đông, về cộng đồng, mới thực sự mang lại phước báu thù thắng. Và Hòa Thượng Tịnh Sự, cũng là một vị thầy khai tâm, dạy chúng tôi học hồi xưa, Ngài thường ca ngợi, hoan hỷ về phước cùng dường Tứ Phương Tăng. Tứ Phương Tăng nghĩa rằng Chư Tăng là một cộng đồng, chứ không nghiêng về vị này, vị kia. Khi chúng tôi làm việc tại đây, một việc mà chúng tôi rất hoan hỷ đó là ở đây chư vị giảng sư thường có trên bốn vị Tỳ kheo cùng tu tập, cùng thảo luận, cùng học Phật Pháp, thì đối với chúng tôi đó là một điều kiện rất đáng hoan hỷ là tại vì có một cộng đồng của những vị Tỳ kheo. Mình làm phước cho đến làm việc mà mình thấy rằng điều đó thuộc về số đông, thuộc về đại thể, thuộc về đại chúng, nó vẫn tốt, vẫn đẹp hơn là thuộc về cá nhân.
Và khi nói về hội chúng của tám bậc đáng cúng dường, hay hội chúng của Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ Sa Môn thì Ngài Payuto dùng “đoàn thể của một cộng đồng văn minh nhất”. “Văn minh” ở đây không phải vì khoa học, vì kỹ thuật hay vì giàu có, mà văn minh ở đây tức là những vị có tánh hạnh thanh tịnh nội tại, những vị đó đoạn tận hay giảm thiểu phiền não, thì những điều đó mình phải hiểu, phải nhìn bằng một khía cạnh khác.
Chúng tôi rất tiếc là thường khi quý Phật tử nói về đề tài này, thì các vị nghĩ thứ nhất là đây là những bậc Thánh thấp so với Đức Phật. Chúng tôi cũng đồng ý với quý vị là Đức Phật là vị cao quý hơn tất cả đệ tử của Ngài, điều đó hiển nhiên. Nhưng mà, mình đừng quên một điều rằng, chính Đức Phật Ngài cũng khẳng định là cho dù chúng ta cúng dường đến Ngài ở trong tư cách cá nhân cũng không bằng cúng dường đến đại Tăng, tức Chư Tăng là một đại thể, một con số chung.
Và cũng có một chuyện chúng ta cũng phải nói ở tại đây là khi mà chúng ta nhìn mỗi một khía cạnh, mỗi một vấn đề chúng ta phải nhìn qua nhiều khía cạnh, không đơn thuần là một khía cạnh. Hồi nãy chúng tôi nói với quý vị là nhiều vị nghĩ Tu Đà Hườn là Thất Lai, Tư Đà Hàm là Nhất Lai, A Na Hàm là Bất Lai, A La Hán là Vô Sanh. Chúng ta chỉ nghĩ đến chuyện sanh tử như vậy. Chúng ta nghĩ không đến trước cũng đến sau. Sanh bảy kiếp cũng được mà một kiếp cũng được. Hay không kiếp nào trở về dục giới cũng được. Không sao hết. Nhưng nếu chúng ta nghiệm một phương diện khác, ví dụ như là, mình hiểu rõ thế nào là thân kiến, thế nào là hoài nghi, thế nào là giới cấm thủ thì chúng ta mới thấy rằng, tại sao một vị có khả năng đoạn tận ba kiến chấp sai lầm đó, hay ba kiết sử lớn đó là một sự vĩ đại. Mình phải hiểu những kiết sử đó mình mới thấy tại sao đoạn tận kiết sử là vĩ đại. Và mình phải hiểu tại sao những vị đã đoạn trừ ba kiết sử đó, đời sống của họ, ví như Tu Đà Hườn quả ra sao. Hay mình phải hiểu dục ái và sân thì mình mới hiểu tại sao chỉ giảm nhẹ dục ái và sân đã là một điều chúng ta phải nghiên mình rồi, đừng nói chi đoạn tận dục ái và sân như vị A Na Hàm. Hay chúng ta phải hiểu rõ những cột trói lớn lao của sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng dật, vô minh thì chúng ta mới hiểu rõ sự vĩ đại của vị A La Hán.
Thì nói chung thưa quý vị, trong bài học này, chúng tôi có đề cập đến tám hạng người, được phân ra thành hai loại, một là về Đạo, một thuộc Quả. Tứ Đạo tức Sơ Đạo, Nhị Đạo, Tam Đạo, Tứ Đạo, tức những vị có khả năng đoạn hay giảm nhẹ phiền não. Tứ Quả là vị sống do kết quả của Đạo mà ra. Ví dụ như một vị trong lúc đoạn tận thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ gọi là Sơ Đạo. Và do kết quả đó, vị ấy sống một đời sống như thế nào, chúng ta gọi là Sơ Quả. Một vị trong lúc thấy được Niết Bàn, giảm nhẹ dục ái và sân gọi là Nhị Đạo, và vị đó sống như thế nào với sự giảm nhẹ dục ái và sân, chúng ta gọi là Nhị Quả. Chúng ta phải tập nhìn qua khía cạnh Đạo và Quả khác biệt, khác biệt nhiều.
Và bên cạnh đó, một khía cạnh khác mà chúng tôi muốn nói với quý Phật tử là, để hiểu rõ tại sao đây là tám bậc đáng cúng dường thì chúng ta nên hiểu về ân đức của Tăng, vì Đức Phật gọi những vị đó là những bậc Thiện Hạnh, những bậc Trực Hạnh, những bậc Như Hạnh, những bậc Chánh Hạnh. Thiện Hạnh là gì, Trực Hạnh là gì, Như Hạnh là gì, Chánh Hạnh là gì, mình phải hiểu mới thấy được sự cao quý. Và chúng ta cũng phải hiểu, Đức Phật Ngài dạy rằng, những bậc có sự viên mãn của bốn hạnh trên thì những bậc đó là những bậc Āhuṇeyyo, Pāhuṇeyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā. Khi Đức Phật đề cập đến năm sự xứng đáng, xứng đáng được cúng dường bằng lòng cung kính, xứng đáng được cúng dường bằng sự quý kính, hay ái kính, xứng đáng nhận được sư cúng dường bằng tâm cầu phước, xứng đáng được chắp tay kính lễ, là phước điền vô thượng ở đời, thì những sự xứng đáng đó một lần nữa cho chúng ta thấy thế nào là ý nghĩa của sự đáng được cúng dường.
Trong một vài phút nói về đề tài này không thể lột tả hết về mười kiết sử, cũng như khả năng đoạn tận, giảm nhẹ mười kiết sử đó. Nhưng chúng tôi nghĩ quý Phật tử cũng đã được nghe Chư Tăng giảng rất nhiều rồi. Và nhắc lại một lần nữa, những bậc chúng ta gọi là Thinh Văn Đệ Tử Phật “Bhagavato sāvakasaṅgho” thì chúng ta nên hiểu một cách rõ ràng để chúng ta cảm kích. Và chúng ta hãy thành tâm hướng nguyện đảnh lễ tất cả Chư Tăng Thánh đệ tử Phật, là những bậc Thiện Hạnh, Trực Hạnh, Như Hạnh, Chánh Hạnh, là những bậc xứng đáng nhận sự cúng dường với lòng cung kính, ái kính, với tâm cầu phước, chắp tay kính lễ, là phước điền vô thượng ở đời. Và mong rằng lòng cung kính đó, mong rằng sự nhận thức đó sẽ cho chúng ta biết rõ thế nào là Tăng Bảo, vì sao Chư Tăng là một trong ba ngôi báu và tại sao điều đó quan trọng và lớn lao đối với tất cả chúng ta.
Subscribe to:
Posts (Atom)