Thursday, November 7, 2019

Điển Hay Tích Lạ

ĐUỐC HOA HOA ĐÈN

Nguyễn Tử Quang

          Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả". 
          Bó đuốc chưa đốt gọi là "tiêu". Đuốc châm lửa cầm tay gọi là "chúc". Đuốc lớn đóng cọc xuống đất mà đốt gọi là "đình liệu". Lệ xưa bên Tàu đời nhà Chu, khi đầu canh năm, vua sắp ra thị triều, thì ở trước điện đình, bày hai hàng hoặc sáp, hoặc đuốc để sáng đường cho bá quan vào triều. 
          Từ đời Lục triều, Đường, Tống có tục đốt hoa chúc trong lễ kết hôn. Về sau này, để nói việc chính thức kết hôn, người ta thường dùng hai chữ "Hoa chúc". 
          Hoa chúc đời Lục triều và đời Đường không biết phải là bó đuốc có kết hoa ở ngoài cho đẹp không? Riêng về đời Tống thì "Hoa chúc" vừa là đuốc hoa, lại vừa là nến sáp hoa. Sách "Mộng lương lục" đời Tống có chép: "Cô dâu xuống xe, mấy con hát cầm đuốc làm bằng cuống hoa sen đi trước đưa đường". Sách "Qui điền lục" của Âu Dương Tu đời Tống có chép rằng: Ở Đằng Châu có thứ hoa lạp chúc (thứ nến làm bằng sáp hoa) nổi tiếng nhứt, ở Kinh đô cũng không chế nổi. 
          Điều chắc chắn là từ thời cận kim, người Trung Hoa đều hiểu "chúc" là nến, chớ không hiểu là đuốc như thời cổ. 
Và, từ nghĩa đuốc hoa, hoa chúc dần dần biến nghĩa thành nến hoa, đèn hoa. 
Ta có câu: 
Động phòng hoa chúc dạ, 
Kim bảng quải danh thì. 
"Động phòng hoa chúc" là những chữ thường được dùng để chỉ đêm động phòng đầu tiên của cô dâu chú rể. Trong phòng kín có đèn nến đốt trong đêm tân hôn. Dũ Tín, một thi hào đời Nam Bắc triều cũng có câu: "Động phòng hoa chúc minh", nghĩa là: "Phòng kín đuốc hoa sáng". 
          Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả hành động cục xúc lỗ mãng, ghẻ lạnh của tên Mã Giám Sinh đối với Kiều, sau cuộc truy hoan, có câu: 
                   Tiếc thay một đóa trà mi, 
                   Con ong đã mở đường đi lối về! 
                   Một cơn mưa gió nặng nề, 
                   Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương. 
                   Đêm xuân một giấc mơ màng, 
                   Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ. 
          Mặc dù họ Mã không dám nhận Kiều là vợ vì sợ Tú Bà, nhưng Kiều là gái mới lớn lên, đêm này là đêm đầu tiên, để thay đổi con người của nàng sang một giai đoạn khác, mà nàng coi đó là đêm bắt đầu làm công việc vợ chồng với người đã bỏ tiền ra mua nàng. Có lẽ do đó mới có tiếng "đuốc hoa". 

          Cũng như khi Kiều được đoàn tụ gia đình sau 15 năm lưu lạc, Kim Trọng xin Kiều cùng chàng xe tơ kết tóc, Kiều từ chối bằng những câu: 

          Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, 
 Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa! 

Vì: 

          Thiếp từ ngộ biến đến giờ, 
          Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa. 
          Bấy chầy gió táp mưa sa, 
          Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn! 
          Còn chi là cái hồng nhan, 
          Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào? 
Cho nên nàng: 
          Nghĩ mình chẳng hổ mình sao? 
          Dám đem trần cấu dự vào bố kinh! 
          Đã hay chàng nặng vì tình, 
          Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru? 
          Từ nay khép cửa phòng thu, 
          Chẳng tu thì cũng như tu mới là! 
          "Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa", và "Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru?", ý Kiều đã cho rằng dù Kim Trọng còn nặng lòng yêu nàng, nhưng nếu nàng bằng lòng lấy chàng, thì rồi đây đêm động phòng, nhìn đuốc hoa hay hoa đèn (đèn hoa) kia chẳng là hổ thẹn lắm. Vì nàng đã cùng ai ở dưới hoa đèn...; cũng như hoa đèn đã chứng kiến... thì khi nàng nhìn hoa đèn (đuốc hoa) làm sao lại khỏi thẹn với lòng mình! 

No comments:

Post a Comment