HỒ THẦN TẢN VIÊN
Đặc biệt là người có quyền cao chức trọng thì lại càng sợ, duy chỉ có dân lành hay người thuộc vùng mới dám sống ở chân núi Tản.
Liễu Lăng, người làng Hồ trấn Cảnh Thiên vùng Phong Châu. Thuở nhỏ ham mê đèn sách, ước mong đỗ đạt công danh. Năm hai mươi tuổi, chàng đi thi ứng thí thi Hội, thì đỗ được chức tiến sĩ. Chàng vẫn không cam nguyện với kết quả này, chàng quyết tâm đèn sách dùi mài kinh sử để năm sau lại thi đỗ trạng nguyên.
Tới năm sau, chàng lại nai nịt hành trang đi thi. Qua trấn Thanh Cảnh vùng Quốc Oai, chàng chẳng may gặp cướp giữa đường, bị bọn chúng cướp đoạt mất hết đồ đạc, cũng mất sạch tiền để sống. Chàng đành phải bán thân làm đứa hầu trong nhà quan thượng thư bộ hộ.
Gặp năm hạn hán mất mùa, quan thượng thư rầu dĩ lắm, sắm sửa lễ bạc lên núi Tản Viên. Quan nghe nói núi Tản Viên có lắm đạo sĩ ở nên muốn đến thỉnh kế trị hạn. Hôm ấy cũng đem Liễu Lăng đi theo hầu.
Gặp lúc trời đang nắng gắt bỗng có mây đen che phủ đúng một vùng núi Tản Viên, quan chợt dừng chân, lại càng lấy làm mừng nói:
"Chắc các ngài biết ý ta nên mới cố hiển lộ như thế đó, ta lên núi lần này ắt đạt được việc lớn!".
Nói rồi thì càng đi nhanh hơn, đi đến lưng chừng núi mưa bắt đầu nặng hạt, dây leo cây mây chằng chịt rối rắm răng đầy lối mòn lên núi khó mà đi nổi nhưng quan vẫn cố đâm đầu mà lao lên. Chẳng may quan trượt chân ngã, đâm đầu vào dây rợ quanh đấy, dây mây thít chặt, quan bị thắt cổ mà chết.
Liễu Lăng hốt hoảng muốn tìm cách cứu quan, nhưng cũng bị trượt chân xuống theo, lăn ra bất tỉnh không biết gì đến mấy ngày.
Lúc tỉnh lại, chàng thấy mình đang ở trong một cái phòng lớn, xa hoa gấm vóc lụa là, mùi trầm hương thơm ngào ngạt bốc quanh.
Được một lúc sau, chàng thấy có tiếng nhí nhéo bên ngoài, bèn tò mò tìm hiểu. Chàng đứng dậy khó khăn, thân thể mệt mỏi tiều tụy. Chàng chưa ra đến cửa phòng, thì đã có một bóng trắng xuất hiện, thoắt ẩn thoắt hiện lướt qua khiến chàng ngã xuống đất.
Lại có tiếng thiếu nữ cười rúc rích cạnh tai, lát sau có giọng nói thỏ thẻ:
"Chàng yếu như sên thế này thì định đi đâu?".
Liễu Lăng ngước mắt nhìn lên, thấy một thiếu nữ toàn thân vận bộ y phục áo lông trắng muốt, mặt mày đoan trang, da dẻ mịn màng đẹp lắm, đặc biệt là khi cười thì lại càng mê hồn. Chàng lập tức si mê, đỏ mặt đứng dậy lắp bắp nói:
"Tiểu thư cứ giỏi trêu chọc, kẻ hèn này sao dám!".
Tuy Liễu Lăng nói vậy, nhưng trong lòng vẫn thích nàng lắm, mấy lần nàng lộ ra vẻ mê hoặc đều không chịu nổi, cuối cùng vẫn là thu nàng về tay giao hoan. Từ bấy, chàng ở trong cái phòng lớn biệt không ra, lúc nào cũng ân ân ái ái với thiếu nữ.
Được độ một tuần Liễu Lăng, cảm thấy hiếu kỳ bắt đầu dò hỏi thiếu nữ:
"Ta theo quan thượng thư lên núi Tản Viên thỉnh đạo, quan chết ta cũng ngã xuống núi, không hiểu vì sao mà mình lại xuất hiện ở đây?".
Thiếu nữ lúc này vẫn đang mải miết trang điểm chải chuốt bên chiếc gương đồng, nghe thấy Liễu Lăng hỏi như thế thì tỏ vẻ hơi buồn bã:
"Chẳng lẽ chàng ở với thiếp không vui hay sao mà còn hỏi đến chuyện ấy?".
Liễu Lăng nghe thiếu nữ nói như vậy, sợ nàng buồn, liền ậm ừ buông xuôi không hỏi nữa. Sau đấy tiếp tục giao hoan ân ái với nàng, sống như vợ chồng rất thuận.
Nhưng chẳng được bấy lâu, chàng nhớ lại chuyện cũ, bèn tiếp tục lân la dò hỏi. Thiếu nữ mới thành thật trả lời:
"Chàng thân là mệnh quan, không may bị con Thái Tinh ghét bỏ không cho đỗ đạt, phải làm đứa hầu cho nhà thượng thư, may gặp năm nay hạn hán, con Thái Tinh chết rồi nên vận rủi chàng đã hết, nhưng vẫn bị khắc tinh bởi quan thượng thư. Gặp hôm thượng thư lên núi Tản Viên, thiếp biết được nên đã giết đi trừ khắc tinh cho chàng, chàng ngã lăn xuống núi cũng là do thiếp sắp đặt đấy. Nói thật với chàng, thiếp không phải là người, mà là Hồ Tiên. Kiếp trước vì chàng có ân, nên kiếp này thiếp mới báo đáp, nếu nay chàng đã gặng hỏi như vậy thì âu duyên ta cũng đã hết! Duyên nợ trần của chàng chưa dứt, hãy về đi...".
Nói rồi, nàng đột nhiên biến mất, lầu cao đài vũ, phòng lớn, gấm vóc lụa là cũng chẳng còn. Liễu Lăng thấy mình lại đang ở trong một cái động lớn, bên cạnh có một cái túi gấm, trong đấy có hai mươi thỏi vàng lớn và một lá thư. Bóc thư ra đọc Liễu Lăng thấy một nét chữ uốn lượn rất đẹp, lại luôn thay đổi:
"Nay duyên ta đã hết nhưng thiếp cũng không thể cạn tình, để lại cho chàng ít bạc vụn làm phí lên kinh ứng thí. Nếu còn muốn gặp lại thiếp thì sau này đỗ đạt làm đến quan cao hãy bỏ hết mà đi, đến núi Tản Viên. Kêu lớn ba tiếng, Hoa Lãn thì thiếp sẽ lại đem chàng đi!".
Thư vừa đọc xong thì cũng biến mất không thấy gì, buồn bã Liễu Lăng mới lật đật dời khỏi động. Bắt đầu ôn lại sách vở, năm sau lại tiếp tục đi thi, lúc này quả nhiên đỗ đầu bảng, được mấy năm thì quan trường thăng tiến lên đến chức Thứ Sử, được cấp bổng lộc đến mấy vạn thạch thóc, hàng chục mẫu ruộng. Gia nhân thuộc hạ đầy nhà.
Có điều, từ lúc ở núi Tản Viên trở về, mẹ chàng có dạm hỏi cho nhiều đám ngõ, nhưng chàng vẫn không thuận. Còn tâm tư tưởng nhớ thiếu nữ nọ, mấy năm thì tương tư thành bệnh.
Một hôm chàng nằm mộng, thấy thiếu nữ trong mộng trở về ân ái với mình như xưa, còn nói là đã đến lúc duyên hai người có thể nối lại.
Sớm hôm sau, chàng sắm sửa hành trang bỏ hết mọi thứ quyền cao chức trọng, tiền bạc gia nhân. Lên núi Tản Viên ẩn cư. Đến lưng chừng núi, chàng đột nhiên kêu lớn ba tiếng "Hoa Lãn", sau đó cũng thác.
Liễu Lăng vừa chết thì thân xác của chàng cũng biến mất theo. Có người nông phu đi qua trông thấy sự dị, bèn từ ấy lưu truyền núi Tản Viên là đất độc, một quan thượng thư, một quan thứ sử đều chết ở đấy, nên về sau không ai dám đến nữa. Đặc biệt là người có quyền cao chức trọng thì lại càng sợ, duy chỉ có dân lành hay người thuộc vùng mới dám sống ở chân núi Tản.
...
Mấy trăm năm, người ta thấy có một đạo sĩ cũng tên là Liễu Lăng từ núi Tản Viên đi ra, thi triển thuật đạo, thoắt ẩn thoắt hiện. Người ta cho rằng là chàng Liễu Lăng khi trước chết đi hồn hóa thành tinh ở ấy, hồn chàng đã thành tiên thành phật, không siêu thoát độ kiếp, theo lệ thì sẽ mấy trăm năm lại xuất hiện một lần.
Thẳng cho đến ngày nay vẫn còn có tích kể lại gần núi Tản Viên, có người đang đêm đi xe tải, từng đâm trúng một người mặc áo bào đạo sĩ trên đường, xuống kiểm tra thì không thấy có ai. Họ bèn lập một cái miếu thờ ở đấy để thờ cúng, mong gặp bình an.
nguồn truyenngan.com
No comments:
Post a Comment