Tuesday, April 30, 2019
Truyện ngắn - Cha và con gái
CHA VÀ CON GÁI
Người cha nọ có 2 cô con gái. Ông vô cùng yêu quý 2 cô con gái của mình, luôn cầu xin ông trời cho các cô con gái sống hạnh phúc. Hai cô con gái ngày càng lớn khôn đến tuổi lấy chồng. Có một anh chàng nông dân trồng rau đến cầu hôn cô chị, hứa với người cha rằng:
- Cháu nhất định sẽ đem lại cho cô ấy một cuộc sống hạnh phúc, bởi vì rau cháu trồng không chỉ đủ ăn mà còn bán được rất nhiều tiền. Người cha đồng ý gả cô con con gái cho anh ta. Ít lâu sau, có một người thợ làm gốm đến cầu hôn cô em. Anh ta cũng đảm bảo với người cha:
- Cháu nhất định sẽ làm cho cho cô ấy một cuộc sống hạnh phúc, bởi vì gốm do cháu làm rất đẹp, người trong thành ai cũng muốn mua đồ gốm của cháu, năm nào cháu cũng kiếm được rất nhiều tiền. Người cha bằng lòng gả cô con gái thứ hai cho anh ta. Một thời gian sau, người cha đến nhà người nông dân trồng rau để thăm con gái lớn. Ông hỏi con:
- Con gái, cuộc sống của con có tốt đẹp không?
Cô con gái lớn thưa:
- Thưa cha, cuộc sống của chúng con đều tốt đẹp cả, chỉ mong sao ông trời cho thêm mưa để đủ nước tưới cho rau.
Người cha nghe vậy liền cầu xin ông trời cho thêm mưa.
Rồi ông đến nhà người thợ gốm để thăm cô con gái út. Ông hỏi:
Con gái, cuộc sống của con có tốt đẹp không?
Cô con gái út thưa:
- Thưa cha, cuộc sống của chúng con rất đủ đầy, chỉ mong ông trời cho thêm nắng để đồ gốm chóng khô.
Người cha bối rối nói với con gái út:
- Con mong trời nắng, còn chị con mong trời mưa. Cha không biết phải cầu xin ông trời thế nào đây?
Lời bàn:
Người ta không thể mong tất cả mọi thứ đều hoàn hảo và cũng rất khó được cả đôi. Chỉ cần cố gắng nỗ lực hết sức mình, rồi những điều tốt đẹp sẽ đến.
Truyện ngụ ngôn
Tiền tip của cậu bé và bài học cho người lớn
Cậu bé 10 tuổi luôn ao ước mua được một ly kem ở cửa hàng kem trái cây gần nhà, vì thế em đã phải tiết kiệm tiền trong nhiều ngày.
Một ngày nọ, khi cửa hàng có chương trình giảm giá, em đã đến để mua kem. Người phục vụ đem cho em một ly nước lọc. Em hỏi: "Một ly kem trái cây bao nhiêu tiền ạ?".
"50 cents", người phục vụ trả lời.
Cậu bé xòe bàn tay ra và đếm số tiền xu mình có, rồi lại hỏi: "Vậy một viên kem giá bao nhiêu ạ?". Những người đang ngồi chờ ở bàn bên cạnh và nhân viên phục vụ đều bắt đầu tỏ ra mất kiên nhẫn với cậu bé.
"35 cents", người phục vụ nói bằng giọng gắt gỏng.
"Vậy bán cho cháu một viên kem ạ", cậu bé nói sau khi đếm lại số tiền xu mình có.
Người phục vụ mang kem đến, đặt hóa đơn trên bàn rồi bỏ đi. Cậu bé sau khi ăn xong viên kem của mình, trả tiền cho thu ngân và ra về.
Lúc này, người phục vụ mới trở lại để thu dọn đĩa đựng kem. Khi nhấc chiếc đĩa lên, cô nhìn thấy bên dưới là 15 cents - tiền tip mà cậu bé để lại cho cô
Tri kiến giác ngộ - minh triết trong đời sống
Câu Trả Lời Của Người Chết
Khi Mamiya, về sau trở thành một giảng sư đại tài, đến một thiền sư để được chỉ giáo, liền được cho một công án về tiếng vỗ của một bàn tay.
Mamiya chú tâm quán chíếu đến đề thọai đầu này. "Ngươi vẫn chưa cố gắng lắm," vị thiền sư bảo với ngài. "Ngươi vẫn còn quá vướùng mắc đến thức ăn, tài, vật và cái tiếng động đó. Tốt hơn nếu ngươi chết đi thì mới giải quyết được vấn nạn."
Lần sau Mamiya đến bái kiếân thầy thì lại được hỏi đã được gì để chỉ tiếng động của một bàn tay. Tức thì Mamiya ngã lăn ra như thể đã chết rồi.
"Thôi được, ngươi đã chết," thiền sư quan sát. "Thế nhưng cái tiếng động thì thế nào?"
"Con chưa giải nó được," Mamiya ngước nhìn lên trả lời.
"Người chết không nói được," thiền sư bảo. "Cút ngay!"
Điển Hay Tích Lạ
Giảo thố tam quật
"Giảo thố tam quật" nghĩa là "con thỏ khôn có ba ngách hang". Ý nói: thỏ có ba ngách hang để tránh cho khỏi bị chết; cũng như con người phải có trí mưu tự tồn.
Câu này là do Phùng Huyên bày kế cho Mạnh Thường Quân.
Sách cổ văn có chép:
Phùng Huyên người nước Tề, đời Chiến Quốc (470-221 trước D.L.) làm thực khách ở cửa Mạnh Thường Quân là Tướng quốc nước Tề. Một hôm, Mạnh Thường Quân đưa sổ bộ ra hỏi các thực khách xem có người nào biết về việc kế toán, nhờ qua đất Tiết, là phong ấp của Thường Quân, để thu các mối nợ, thì xin ký tên vào sổ. Phùng Huyên nhận sổ ký tên. Thường Quân lấy làm lạ hỏi tên họ người ký là ai? Kẻ tả hữu đáp:
- Đó là người thường ca câu "trường hiệp quy lai".
"Trường hiệp" là cán gươm dài, "quy lai" là đi về. Nguyên trước khi ấy, họ Phùng có ba lần ca. Lần thứ nhất là:
"Ở đây không có cá, nên mang gươm dài đi về".
Lần thứ hai ca:
"Ở đây không có xe, nên mang gươm dài đi về".
Lần thứ ba ca:
"Ở đây không có nhà cho cha mẹ ở, nên mang gươm dài đi về".
Họ Mạnh cười, ân hận lỗi mình đã bạc đãi họ Phùng, nên cho người mời Phùng đến tạ:
- Văn này chìm đắm trong công việc quốc gia rất mỏi mệt, lòng lo rối loạn mà tính lại ngu đần, không rảnh gặp mặt, xin tạ tội cùng tiên sinh. Tiên sinh đã không lấy làm hổ thẹn, nay lại có ý muốn vì tôi đi thu nợ ở đất Tiết chăng?
Phùng thưa:
- Huyên nguyện đi.
Khi ra đi, họ Phùng hỏi: thu nợ xong rồi có cần mua vật gì? Mạnh bảo: xem trong nhà còn thiếu vật gì thì cứ mua về.
Phùng Huyên đến đất Tiết, cho người thuộc lại mời tất cả những người thiếu nợ đến đông đủ, rồi truyền rằng Mạnh Tướng quốc ra lịnh xóa bỏ tất cả số nợ. Và, để cho mọi người tin tưởng, Phùng đem đốt hết những văn khế nợ. Dân đất Tiết vui mừng, tung hô vạn tuế.
Khi họ Phùng trở về, Thường Quân lấy làm lạ cho là đòi nợ cách gì mà mau chóng thế, mới hỏi:
- Thu nợ xong phải không?
- Thu xong cả.
- Có mua gì về không?
- Khi đi, Tướng công có bảo: nên mua những vật gì trong nhà còn thiếu. Tôi trộm nghĩ trong bụng Tướng công chất chứa những đồ trân bảo, ngoài chuồng nuôi đầy chó ngựa, nhà sau la liệt những mỹ nhân, vậy vật mà Tướng công còn thiếu, chưa có là điều Nghĩa, nên tôi trộm lịnh mua điều Nghĩa đem về.
Thường Quân ngạc nhiên hỏi:
- Mua điều nghĩa thế nào?
Họ Phùng đáp:
- Tướng công nguyên trước được phong cho thực ấp ở đất Tiết là đất nhỏ mọn, mà không lo vỗ về thương yêu dân, lại còn mưu toan làm lợi. Vì vậy, tôi trộm lịnh xóa cho tất cả các con nợ, nhân đó thiêu hủy cả văn khế, được dân chúng vui mừng tung hô vạn tuế. Ấy là tôi vì Tướng công mua được điều nghĩa vậy.
Thường Quân nghe nói không bằng lòng, nhưng phải bỏ qua.
Một năm sau, vua Tề không dùng Mạnh làm Tướng quốc nữa, phải về đất Tiết ở. Bấy giờ bá tính đất Tiết, trai gái già trẻ đua nhau đến đón rước giữa đường, hoan hô nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh quay lại Phùng Huyên mà bảo rằng:
- Tiên sinh vì Văn này mua điều nghĩa, ngày nay Văn mới trông thấy.
Phùng thưa:
- "Con thỏ khôn có ba cái ngách hang mới khỏi chết", nay Tướng công mới có một ngách hang, chưa được dựa gối nằm yên, tôi xin vì Tướng công đào thêm hai ngách nữa.
Mạnh nghe nói, liền ban 50 cỗ xe và 50 cân vàng để họ Phùng hoạt động. Họ Phùng liền tây du nước Lương, bảo vua Huệ Vương nước Lương rằng:
- Được người hiền thì nước mạnh, bỏ người hiền thì nước yếu. Nước Tề nay bỏ Mạnh Thường Quân, nếu Lương dùng làm tướng thì Mạnh Thường Quân sẽ đem những việc khả dĩ làm lợi cho Tề được mà làm lợi cho Lương. Như vậy, Lương sẽ hùng mạnh mà Tề nguy mất.
Lương Huệ Vương bằng lòng khiến sứ giả dem 1000 cân vàng và 100 cỗ xe qua mời Thường Quân. Giữa lúc ấy, Phùng lại sang Tề, vào yết kiến Tề Mân Vương bảo:
- Được người hiền thì nước mạnh, bỏ người hiền thì nước yếu. Nay Tề bỏ Mạnh Thường Quân, nếu nước Lương hay một nước nào khác dùng làm tướng thì Mạnh Thường Quân sẽ đem những việc khả dĩ làm lợi được cho Tề mà làm lợi cho nước khác. Như vậy, nước khác sẽ hùng mạnh. Huống chi Mạnh trước kia ở Tề, những việc bí mật của Tề, Mạnh đều hiểu biết, như vậy dù muốn dù không Mạnh cũng dựa theo đó mà làm nguy Tề.
Mân Vương ngoài miệng tuy khen phải nhưng lòng còn do dự. Bỗng có quân báo nước Lương đương cho xe ngựa đi rước Mạnh Thường Quân về làm Tướng quốc, nên lập tức sai quan Thái Phó đem 1000 cân vàng và văn xa tứ mã (xe có vẽ vời và gác 4 ngựa) cùng một bảo kiếm, một phong thư đến xin lỗi Thường Quân và xin mời về làm tướng như cũ.
Sau khi vua Tề tái dụng Thường Quân, Phùng Huyên lại khuyên Mạnh nên thỉnh cầu cho đủ những đồ tế khí của tiên vương và xin lập nhà tôn miếu ở đất Tiết. Vì Mạnh vốn là dòng dõi của vua Uy Vương nước Tề, xong lập tôn miếu ở đất Tiết để thờ tiên vương làm căn bản vững vàng, sau này nước Tề chẳng những không dám đoạt đất Tiết, mà phải cứu trợ một khi đất Tiết bị nước khác xâm lăng.
Vua Tề không hiểu được mẹo của Phùng Huyên nên bằng lòng cho Mạnh thiết lập tôn miếu ở đất Tiết. Khi ấy họ Phùng bảo Mạnh:
- Ngày nay ba ngách hang đã đào xong, Tướng công có thể dựa gối cao mà nằm được yên vậy.
Mạnh Thường Quân làm Tướng quốc hơn vài mươi năm, không xảy ra chút mảy tai họa gì là nhờ mưu kế "Giảo thố tam quật" của Phùng Huyên.
"Ba ngách hang" của Phùng Huyên là: mua nghĩa, lập kế cho vua Tề tái dụng làm tướng, lập tôn miếu ở đất Tiết.
Thành ngữ "Giảo thố tam quật" chỉ con người cần phải có trí mưu để tạo nhiều điều kiện, nhiều phương tiện mới tự tồn được.
Truyện cười trong ngày
AI CHẠY NHANH HƠN.
Hai anh chàng thổ dân cùng nhau đi săn, khi vào rừng sâu họ gặp 1 con sư tử, cả 2 hoảng hồn. Một anh chàng lôi trong túi ra đôi giày thể thao và luống cuống mang vào chân trong khi chúa sơn lâm lùi lũi tiến về phía họ. Anh chàng kia thấy thế lắp bắp:
- Cậu … cậu làm vậy cũng đâu … đâu có chạy nhanh hơn … hơn nnnn nó…
- Nhưng … tớ sẽ chạy nhanh hơn cậu
Hai anh chàng thổ dân cùng nhau đi săn, khi vào rừng sâu họ gặp 1 con sư tử, cả 2 hoảng hồn. Một anh chàng lôi trong túi ra đôi giày thể thao và luống cuống mang vào chân trong khi chúa sơn lâm lùi lũi tiến về phía họ. Anh chàng kia thấy thế lắp bắp:
- Cậu … cậu làm vậy cũng đâu … đâu có chạy nhanh hơn … hơn nnnn nó…
- Nhưng … tớ sẽ chạy nhanh hơn cậu
Monday, April 29, 2019
truyện ngắn - Chuyện Di Tản 30 tháng 4, 1975
Chuyện Di Tản 30 tháng 4, 1975.
Tác giả: Minh Hạnh
Viết theo lời khuyến khích của một số bạn bè, của các con và các em, người khuyến khích nhiều nhất đó là ông xã, cựu đại úy Hải Quân Nguyễn Văn Hòa, khóa 18 sĩ quan Hải Quân Nha Trang, nhiệm sở đầu tiên là Hỏa Vận Hạm HQ 473, nhiệm sở thứ hai là Hộ Tống Hạm HQ 10, nhiệm sở thứ ba là tại bộ Tư Lệnh Hải Quân, nhiệm sở thứ tư là Dương Vận Hạm 504.
Minh Hạnh.
Baton Rouge, ngày 3 tháng 10, 2018
Tôi còn nhớ cuộc di cư 1954, theo Ba Mẹ từ miền Bắc vào Nam để lánh nạn cộng sản, ba mẹ tôi đạo Phật, Ba tôi làm việc cho chính phủ quốc gia và chống cộng rất mạnh, ông được giao cho trọng trách điều hành cuộc di tản vĩ đại này, vì có trọng trách điều hành cuộc di tản nên Ba tôi phải ở đến phút cuối mới cùng gia đình vào Nam trên chuyến bay chót của chương trình, do đó chúng tôi không phải trải qua sự cực khổ trong việc di tản trên các chuyến tàu há mồm chở dân tản cư. Lúc đó tôi còn rất bé nên không biết gì và cũng chẳng thắc mắc tại sao Ba Mẹ phải bỏ nhà cửa vườn tược rộng lớn để vào Nam ở nhờ căn nhà nhỏ bé vọn vẹn 4 thước vuông vức của bà dì cho ở tạm, căn nhà rất nhỏ chỉ vỏn vẹn một phòng mà chứa 9 người trong gia đình chúng tôi. Rồi năm tháng trôi qua cuộc sống bình yên với những người miền Nam hiền hoà chất phát tôi đã được tiêm nhiệm vào người khí chất bình dị dễ thương của những người bạn chung quanh. Và tôi lập gia đình, ông xã tôi là sĩ quan Hải Quân sinh ra tại quận Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương. Cuộc đời cứ tưởng sống trong sự bình yên, nhưng ai ngờ chiến tranh từ miền Bắc cộng sản tấn công vào miền Nam ồ ạt với ý đồ thôn tính miền Nam, và ông xã tôi là quân nhân, binh chủng Hải quân với lý tưởng góp một phần nhỏ nhoi gìn giữ non sông thoát khỏi bàn tay đẫm máu của cộng sản, như những thanh niên khác. Nhưng lực bất tòng tâm, quân cộng sản được Tàu cộng và Nga cộng yểm trợ vũ khí trong khi miền Nam nước Mỹ ngưng viện trợ vì vậy yếu thế và chiến tranh tàn khốc khắp quê hương từ miền Trung, Đà Nẳng, Huế đã bắt đầu thất thủ vào những ngày tháng 3 và tháng 4 năm 1975.
Những ngày trong tháng 3 năm 1975, dân Sàigòn bắt đầu lo âu sợ hãi với những tin tức thua trận dồn dập đưa vể, và Sàigon đã tiếp nhận những người dân từ thôn quê, từ các tỉnh miền Trung vào lánh nạn, mọi người với nét lo âu hằn lên đôi mắt, khuôn mặt thiếu vắng nụ cười. Những tin tức chiến trận ở miền Trung Việt Nam, ngày 23 tháng 3 thì Huế thất thủ, sau đó kéo theo Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Nha Trang, dân chúng lại càng lo lắng sợ hãi hơn. Vào thời điểm đó ông xã tôi là sĩ quan đệ tam đang trên chiến hạm 504 với nhiệm vụ di tản người dân chạy tị nạn cộng sản từ miền Trung đến đảo Phú Quốc. Khi đó tôi chỉ mới trên 26 tuổi với hai đứa con trai còn rất nhỏ Nam Hải mới hơn 4 tuổi và Nam Hoàng chưa được 1 tuổi rưỡi. Sài gòn lúc bấy giờ rất hỗn loạn, vật giá mắc mỏ vì mọi nhà đều mua thực phẩm về dự trữ. Tôi khi đó cảm thấy bơ vơ và sợ hãi, chồng không có bên cạnh, nếu quân cộng vào đến Sàigòn chắc tôi bị chúng bắt đi cải tạo quá vì là người di cư năm 1954 ,(tin đồn là vậy).
Tôi nhớ vào ngày 18 tháng 4 năm 1975, người Mỹ tại Sàigòn bắt đầu di tản, tôi càng sợ hãi hơn. Lúc bấy giờ tôi đang làm kế toán viên tại sở Tổng Cục Gia Cư, với tình thế sôi nổi vì chiến tranh, tôi không còn tâm chí để làm việc, đứng ngồi không yên, đến sở lúc 8 giờ sáng, văn phòng làm việc thông thường có 20 người làm việc tại phòng tài chánh, nhưng những ngày tháng hỗn loạn văn phòng chỉ có chừng 5, 7 anh chị đến làm việc và những người kia vắng mặt như tôi sau khi ghi danh là chuồn khỏi sở, đạp xe đến nhà những người quen của chồng để hỏi thăm tin tức về ông xã và tin tức chiến sự. Trong thời điểm đó tin loan truyền trong bộ Tư Lệnh Hải Quân là chiến hạm 504 di tản dân có cộng sản trà trộn trong dân di tản với ý định xúi dục dân di tản làm loạn và chúng đã ám sát ông xã tôi chết , những người bạn Hải Quân của ông xã tôi đều biết tin đó nhưng không một ai cho tôi hay vì sợ tôi suy sụp.
Với chiếc xe đạp mini tôi đạp từ sở nằm trên đường Đoàn Thị Điểm gần ngã tư Hiền Vương đến đường Yên Đổ rẽ ra đường Hai-Bà-Trưng rồi đổ xuống Võ-Di-Nguy Phú-Nhận, tôi rẽ vào nhà Ba Mẹ ở cư xá Chu Mạnh Trinh, Ba tôi với gương mặt sợ hãi vừa thấy tôi bước vào cửa ông lên tiếng:
- Này con, có nghe tin gì về chồng con chưa, khi nào thì chồng con về Sàigòn?
Tôi thưa:
- Dạ, con không nghe tin gì hết, con đang rất lo lắng.
Ba tôi hối thúc:
- Con đi hỏi thăm tin tức từ các bạn của chồng con xem sao, theo tình hình thì giặc vào đến nơi rồi, gia đình mình không thể sống với tụi cộng sản đâu, nhất là Ba đã một thời khi còn ở ngoài Bắc Ba đã chống tụi nó và tên tuổi của ba tụi nó đã biết rồi, kỳ này nếu nó bắt được Ba chắc tụi nó xử ba quá, chúng nó tàn ác lắm.
Tôi vâng dạ rồi lại đạp xe đi đến các nhà bạn thân trong quân đội Hải-Quân của ông xã nhờ giúp đỡ. Người đầu tiên tôi nghĩ đến là Đại Úy Huệ, người cùng binh chủng và cùng thời làm việc trong bộ tư lệnh Hải Quân, đó là một người bạn rất thân, tôi và vợ anh ấy coi nhau như chị em, chúng tôi thường đến nhà nhau vào dịp cuối tuần ăn uống khi thì nhà tôi khi thì nhà anh Huệ. Tôi đạp xe vòng qua đường Chi-Lăng đến chợ Bà-Chiểu rẽ vào con đường hẻm bên hông chợ đến nhà anh chị. Lần ghé này chỉ mình tôi và tôi được anh tiếp đón với thái độ xua đuổi, mặt nhăn nhó nói:
- Chị Hạnh, tôi không bằng lòng chị đến nhà tôi làm vợ tôi lo lắng!
Tôi chưa kịp bước vào nhà mà chỉ mới dựng chiếc xe đạp trước cửa thì anh đã hiện ra đứng trước cửa khuôn mặt nhăn nhó và nói với tôi những lời như vậy. (Câu nói của người xưa "khi hoạn nạn mới biết ai thân tình" đã đúng với tôi trong giờ phút này).
Tôi tủi thân nghẹn ngào nuốt nước mắt và quay xe trở ra đầu ngõ, vừa đạp xe nước mắt tôi rơi làm nhòe mắt, tôi phải dừng xe lại lấy sự điềm tỉnh mươi phút rồi mới tiếp tục đạp xe đi. Tôi đến nhà Trung Úy Trang người bạn làm chung tại bộ Tư Lệnh Hải-Quân với chồng tôi năm ngoái, anh tiếp tôi trong tình thân thương và ái ngại, anh tận tình hướng dẫn, anh cho biết Đại Tá Thiện có nhiệm vụ di tản gia đình binh sĩ khi có lệnh di tản, anh chỉ đường tôi đến nhà Đại Tá Thiện để nhờ giúp đỡ và lúc tiễn tôi ra cửa anh đưa tôi xấp tiền $35,000 (trị giá một tháng lương cấp đại uý thời bấy giờ) nói :
- Chị Hạnh, chị hãy cầm số tiền $35,000 để xoay sở trong lúc không có anh Hòa ở nhà.
Tôi từ chối không nhận:
- Oh! Tôi cám ơn nghĩa cử tốt của anh, nhưng tôi không dám nhận đâu vì tôi vẫn còn tiền.
- Chị cứ đến nhà Đại Tá Thiện để nhờ giúp đỡ, hiện Đại Tá đang ở Sàigòn để lo việc tiếp vận thực phẩm cho đồng bào di tản ở Phú Quốc.
Tôi từ giả ra về và tiếp tục đạp xe đến nhà Đại Tá Thiện, Đại Tá Thiện lúc bấy giờ là Tư Lệnh Hải-Quân Vùng 4 Duyên Hải. Đứng trước cửa nhà kín cổng với bờ tường cao bên ngoài nhìn không thấy gì trong sân, 2 người lính gác cửa thấy tôi các anh chào thân thiện và hỏi:
- Cô cần giúp đỡ gì?
Tôi nói:
- Nhờ các anh vào nói với Đại Tá là có tôi là vợ của Đại Uý Hoà xin vào gặp.
Một người lính đi vào bên trong một lát trở ra mở rộng cửa rồi dẫn tôi vào bên trong.
Gặp ông lần đầu tiên trong tôi có sự e dè, nhưng Đại Tá lại rất thân thiện tiếp tôi ân cần mặc dù chưa một lần gặp mặt tôi lần nào, ông hỏi:
- Tôi có thể giúp gì cho cô?
Tôi trình bày:
- Dạ, thưa Đại Tá, ông xã tôi là Đại Úy Hòa đang trên chiến hạm ở miền Trung với nhiệm vụ di tản dân về đảo Phú Quốc, và tôi thì không quen biết ai để nhờ giúp đỡ nên mạo muội đến tìm Đại Tá xin nhờ giúp gìùm.
Đại Tá vui vẻ trò chuyện và sau cùng ông nói tôi về nhà ghi tên tuổi những người trong gia đình rồi đưa cho Trung Uý Trang, ông sẽ chỉ thị cho người này hướng dẫn tôi và gia đình khi có lệnh di tản. Tôi cám ơn Đại Tá và về.
Trong tâm tôi vô cùng cảm kích tấm thân tình của hai người đó là; Trung Úy Trang và Đại Tá Thiện, với hoàn cảnh của một người chinh phụ, một người đàn bà trẻ với 2 đứa con nhỏ dại, chồng thì đang hải hành mù mịt vì tình hình chiến sự sôi động nên không có một tin tức gì về anh từ ngày anh trình nhiệm sở nơi chiến hạm 504 đã gần nửa năm rồi. Tôi đạp xe mà lòng như muốn khóc, khóc vì nhớ anh, khóc vì sợ hãi độ chiến tranh đang tiến vào miền Nam như vũ bão, khóc vì sự tuyệt vọng đang oằn lên tâm tôi.
Tôi đạp xe về nhà ba mẹ để dặn dò mọi người chuẩn bị mỗi người một túi xách trong đó để vài bộ quần áo. Sau đó tôi ghé nhà mẹ chồng ở Tân Định và cũng dặn dò mọi người chuẩn bị quần áo, tôi sẽ lo danh sách để mọi người cùng đi khi có lệnh di tản. Sau khi dặn dò mọi người xong tôi đạp xe về nhà vợ chồng chúng tôi ở trong trại gia binh Hải-Quân, trại Cửu-Long. Ngày hôm sau vợ chồng cô em gái chồng tôi đã đến nhà tôi trong trại Cửu-Long đưa tôi danh sách gia đình cô và bên chồng tổng cộng trên 20 người, tôi nói phải dọn vào trại với gia đình tôi thì khi đi mới đi tất cả được chứ mỗi người một nơi thì không thể đi được. Cô nói gia đình bên chồng không thể đi như vậy được vì mẹ chồng và anh rể cô có gian hàng bán ở chợ Tân-Định không thể đóng cửa bỏ đi như vậy được, tôi nói vậy đành chịu.
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Thiệu từ chức. Khi đó chiến hạm 504 do hạm trưởng trung tá Phú (Phú thuốc lào) và ông xã tôi là sĩ quan đệ tam trên chiếc tàu đang trên đường đưa người dân di tản vớt được trên biển và chuyển họ đến đảo Phú Quốc. Nghe tin Tổng Thống Thiệu từ chức trung tá Phú đã họp các sĩ quan trên tàu và đưa hình ảnh gia đình của ông sống ở miền Bắc được gửi cho ông bằng cách nào không ai biết, ông cho các sĩ quan trên tàu coi, ông nói mẹ và người anh cùng các cháu của ông sống ngoài Bắc rất tốt, rất khỏe mạnh, béo tròn. Rồi ông nói "người ta sống được thì mình cũng sống được, không phải đi đâu hết." Nghe lời nói đó ông xã tôi cảm nhận được là hạm trưởng Phú sẽ không di tản và muốn mọi người cùng ở lại với ông. (ghi theo lời kể về tình hình lúc bấy giờ của ông xã).
Trong khi đó, tôi nhớ cũng khoảng ngày đó tôi có ghé nhà của ông hạm trưởng Phú ở trong cùng trại gia binh với chúng tôi, khi bước vào nhà ngay tại phòng khách tôi gặp bà vợ ông Phú đang ngồi nói chuyện với 2, 3 người phụ nữ, có vẻ như là người nhà của bà Phú, chung quanh thì các túi xách cá nhân để chồng chất lên nhau trông giống như họ đang chuẩn bị để di tản, tôi nói chuyện dăm ba câu bà cho biết bà đã chuẩn bị di tản xong rồi bây giờ chỉ chờ ông Phú về, và bà rủ tôi cùng đi chung.
Đến ngày 26 tháng 4 năm 1975 khoản 10 giờ sáng thì ông xã tôi về tới nhà, vừa thấy anh mấy mẹ con cùng oà khóc, khóc vì mừng là từ hôm nay có anh là trụ cột gia đình ở cạnh. Mấy người bạn Hải-Quân nghe tin Ông xã về đã kéo đến thăm, khi đó mọi người mới kể tôi nghe là tin tàu anh bị cộng sản len lỏi trong dân di tản xúi dân làm loạn rồi ám sát anh chết loan truyền trong bộ Tư Lệnh Hải-Quân cả 2 tuần lễ, họ không dám báo tin cho tôi vì biết tôi sẽ suy sụp, bây giờ anh đã về bình an thì mọi người hết sức hoan hỉ.
Đến trưa những người bạn ra về, anh vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân trình diện. Anh vào Bộ Tư Lệnh và trình diện Đô Đốc Diệp Quang Thủy là Tham Mưu Trưởng Hải-Quân. Anh báo cáo tình hình chuyến di tản dân từ miền Trung đến đảo Phú Quốc, và nhân dịp này anh cũng báo cáo tình trạng trung tá hạm trưởng Nguyễn Hữu Phú có ý tưởng thân cộng sản. Khi đó Đô Đốc Thủy chỉ thị phòng nhân viên xem hồ sơ lý lịch của ông Phú thì mới biết ông Phú không phải là người Bắc di cư năm 1954 mà ông đi máy bay vào Nam trước năm 1952, học trường Chu Văn An, sau đó gia nhập trường sĩ quan Đà Lạt, sau lại đổi qua trường sĩ quan Hải Quân.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975 tôi nhờ chú tài xế chở về Phú Nhuận đón gia đình vào lánh nạn ở nhà chúng tôi. Còn gia đình bên ông xã tôi thì sau giờ tan sở ông sẽ ghé về đón đi.
Gia đình Ba Mẹ tôi vì ở gần phi trường Tân-Sơn-Nhất, mấy ngày trong cuối tháng Tư cộng sản nằm vùng hàng đêm đã bắn đạn pháo vào phi trường Tân-Sơn-Nhất hàng, Ba Mẹ và các em tôi đã quá sợ hãi nên những gì tôi dặn mọi người đều chuẩn bị xong xuôi . Khi tôi vào nhà thì được biết hai cô em gái Lan và Tú đã xách túi xách lên nhà thông gia là cựu cố đại tá không quân Nguyễn Thanh Lịch người lái chiếc máy bay của hãng Hàng Không Việt Nam bị chết trong vụ không tặc cộng sản cho nổ máy bay khi ông đang làm phi cơ trưởng, chiếc máy bay gồm tất cả 75 người, 69 hành khách (đa số là sinh viên và thường dân) và 8 nhân viên phi hành đoàn đã thiệt mạng, không một ai sống sót, vụ không tặc này đã làm sôi động lòng dân trong tháng 9 năm 1974.
Nhà chỉ còn Ba Mẹ và hai người em trai Ánh và Đức và một cô em gái tên Thảo, trong lúc mọi người đang định xách hành lý ra xe thì đúng lúc Lan và Tú trở về với túi xách trên tay, Mẹ tôi hỏi:
- Tại sao hai con không đi theo họ mà lại trở về?
Thì Lan và Tú nói:
- Dạ, phi trường bị pháo kích đêm qua làm hư hại rất nhiều máy bay và giờ họ đã rời những chiếc máy bay còn lại đến nơi khác rồi, do đó gia đình thông gia không đi được nên tụi con phải hai cô phải trở về.
Cả nhà đều mừng là hai cô trở về đúng lúc chứ nếu về nhà mà không thấy ai chắc khóc quá. Mọi người sẵn sàng, tôi và Ba Mẹ cùng ba cô em gái đi xe jeep, hai cậu em trai Ánh và Đức thì lái xe gắn máy chạy theo.
Riêng gia đình anh, thì chiều sau khi rời bộ Tư Lệnh anh ghé về nhà đón mẹ anh và cô em gái chị gái thì gia đình từ chối không đi, mẹ anh nói người ta sống được thì mình sống được, và nhất là đi rồi biết đi về đâu và sống như thế nào.
Khi về tới nhà tôi mới biết gia đình anh từ chối không đi thì lúc đó Sàigòn đã ban lệnh thiết quân luật, những ai không phận sự thì không được ra đường, nên tôi đành chịu không trở lại Tân-Định để thuyết phúc mẹ anh và em gái chị gái anh được nữa.
Đêm 28 tháng 4 năm 1975, cộng quân bắn đạn pháo kích liên hồi và hầu như nhiều mục tiêu trong thủ đô Sàigòn trúng đạn, mặt đất rung chuyển, tôi đứng trong sân nhà nhìn thấy lửa cháy sáng ngút trời. Hai đứa con tôi được bà ngoại cho nằm dưới gầm giường với hi vọng chiếc giường mỏng manh này có thể che chắn thân thể bé nhỏ của các cháu.
Đến ngày 29 tháng 4 năm 1975. Ông xã tôi lái xe vào bộ Tư Lệnh Hải Quân Khoảng 4 giờ tôi đạp xe đạp đi lòng vòng trong trại gia binh, ghé vào nhà trung tá Nguyễn Tuấn Khanh là anh họ của tôi thì biết anh và người cha cùng với các em anh đã chạy qua Hải Quân Công Xưởng để lên tàu đi rồi,vợ con anh thì đi qua Mỹ từ tuần trước, nhà chỉ có người mẹ và một cô em gái ở lại để lo tang lễ cho người em rể của anh vừa mất ngày hôm qua trên đường đi Hốc Môn về đơn vị của anh đang trấn thủ, anh bị trúng miển đạn pháo kích của quân giặc cộng mà chết. Anh chết đi để lại người vợ trẻ và đứa con trai 6 tháng tuổi. Tôi chia buồn với bác rồi quay về nhà, trên đường đạp xe về tôi thấy rất đông người lũ lượt đi bộ dìu dắt nhau qua chiếu cầu Avalanche nối liền trại gia binh Cửu-Long với Hải-Quân Công Xưởng, tôi dừng xe lại hỏi thăm thì họ cho biết họ chạy, bên kia cầu có rất nhiều tàu Hải Quân sẽ chở gia đình họ di tản.
Tôi vội vã đạp xe về nhà báo tin cho Ba Mẹ tôi biết, mọi người trong gia đình tôi bấn loạn vì giờ này đã 6 giờ chiều rồi người đi vẫn còn nối nhau đi lặng lẽ trên con đường dẫn qua bến cảng mà ông xã tôi vẫn chưa về để đưa gia đình đi, một lúc sau ông xã tôi gọi điện thoại về dặn tôi ở yên đó không được đi đâu vì đi sẽ bị thất lạc, anh là sĩ quan đệ tam của tàu 504, chiếc tàu chở người dân di tản từ miền Trung về Phú Quốc nên anh biết rất là cực khổ đói khát vì người đông mà thực phẩm nước uống thì thiếu, rồi bịnh hoạn không có thuốc mem. Anh nói sẽ trở về đón gia đình đi, bây giờ anh vẫn còn đang là sĩ quan trực trên tàu.
Đến 8 giờ quân cộng sản pháo kích liên tiếp vào Sàigòn một cách ác liệt, lửa cháy các khu bị đạn pháo rớt vào đỏ hừng khắp nơi, trên trời thì máy bay ì ầm bay liên tục, hết chiếc này bay ngang lại chiếc khác bay tới, nghĩa là âm thanh máy bay hoà cùng tiếng đạn pháo kích khủng bố tinh thần dân chúng suốt đêm 29 tháng 4 năm 1975, thật là một đêm hãi hùng tôi không thể nào quên trong đời.
Đến 9 giờ, rồi 10 giờ đêm tiếng đạn pháo vẫn rít trên bầu trời, cộng thêm tiếng máy bay vần vũ trên không trung mỗi lúc càng mãnh liệt mà ông xã tôi vẫn chưa về, mọi người trong gia đình im lặng trong sợ hãi, thất vọng tưởng rằng bị ở lại với quân cộng sản. Các em tôi, Thảo, Lan, Tú, Ánh, Đức mỗi người ngồi một góc cặp mắt đăm chiêu với tay nải hành trang bên cạnh, Mẹ tôi thì thắp nhang ngồi trước bàn thờ Phật, hai đứa con trai tôi nằm ngủ bên cạnh bà ngoại,
Ba tôi gọi tôi:
- Con đem tất cả hình ảnh của Hòa để Ba đem ra để đốt hết, cộng sản vào mà thấy những tấm hình ảnh chồng con mặc quân phục thì hết đường chối cãi.
Tôi vâng lời và vào tủ đem hết hình ra đưa Ba. Nhìn cảnh Ba ngồi đốt những tấm hình ánh lửa chiếu lên khuôn mặt đăm chiêu lo lắng của Ba mà lòng tôi thêm tan nát lụi tàn theo như những tấm hình đang cháy rụi kia.
Đến 11 giờ anh mới về nhà, mọi người mừng rỡ, anh hối mọi người đi gấp vì có một chiếc tàu nhỏ thuộc loại PBR (Patrol Boat River ) mượn của trung tá Hà-Hiếu-Diệp đang chờ bên bờ sông cầu E để chở mọi người ra tàu lớn ở bến Hải-Quân Công Xưởng. Trước khi rời nhà anh vào phòng mở tủ lấy hết số tiền còn lại trong tủ để vào túi áo giáp rồi khóa cửa đưa chìa khóa cho tôi đem qua nhà một người hạ sĩ quan con đông mà tôi hàng tháng thường giúp gạo và tiền:
- Chị ơi! chúng tôi bây giờ sẽ đi, nhờ chị giữ giùm chìa khoá, nếu hai ngày chúng tôi không về thì chị được lấy hết đồ đạc trong nhà.
Chị vợ viên hạ sĩ quan:
- Cám ơn bà, chúc bà và gia đình đi được bình an!
Chúng tôi bắt đầu đi theo sự hướng dẫn của ông xã.Từ nhà tôi đi đến bờ sông phải đi qua Thủy Xưởng Miền Đông là một trại sửa tàu bè của Hải-Quân. Chúng tôi đi trong đêm tối nhưng trời không tối, vì lửa đạn quân thù soi sáng bước chân chúng tôi, hai đứa con nhỏ được hai người em trai tôi là Ánh thì cõng bé Hải, Đức cõng bé Hoàng, anh thì dìu Ba tôi và tôi dìu Mẹ. Đạn pháo của cộng quân vẫn tiếp tục rít trên bầu trời, mỗi khi đạn trúng một mục tiêu nào thì tiếng nổ rất lớn và mặt đất rung chuyển, Mẹ tôi chân ríu lại không bước nổi, tôi và cô em mỗi người một bên dìu Mẹ và chúng tôi bước đi thật mau.
Khi đến cổng trại Thủy Xưởng Miền Đông ngay lúc đó một chiếc xe jeep và một chiếc xe GMC chở rất đông lính Hải-Quân vừa từ phía trong trại ra tới, những người lính nhảy xuống khỏi xe tay lăm lăm khẩu xúng, và một người sĩ quan từ trên xe jeep bước xuống, tôi sợ quá ríu lại tưởng đâu họ bắt mình, nhưng ông xã tôi nhận ra đó là Đại Tá Kinh Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Tuần Giang cùng làm việc trong bộ Tư Lệnh lúc trước, anh đứng nghiêm chào theo kiểu nhà binh, anh nói:
- Thưa Đại Tá, chúng tôi là một gia đình gồm Ba Mẹ và vợ con và các em muốn đi qua xưởng để đến cầu E bên bờ sông nơi có chiếc tàu nhỏ đang đợi, mong Đại Tá cho chúng tôi đi qua.
Đại Tá chào lại theo kiểu nhà binh xong rồi bắt tay nói:
- Chúc gia đình Đại Uý đi thượng lộ bình an.
Rồi Đại Tá quay qua nói với các anh lính Hải Quân:
- Ai muốn đi thì cho đi,còn ai ở lại thì ở trong vị trí phòng thủ không được lơ là.
Chúng tôi bước đi mà trong lòng cảm kích tấm lòng nhân ái và yêu nước vĩ đại của Đại Tá Kinh Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Tuần Giang và các anh lính Hải-Quân ở lại với lý tưởng giữ nước.
Ra đến bờ sông, tại cầu E, thật là may, hai anh lính Hải-Quân vẫn còn neo tàu chờ chúng tôi, thật là cảm động và cảm kích vô cùng, đến giờ phút biết là bại trận đến nơi rồi, giờ phút hỗn loạn mà vẫn có nhũng tấm lòng trung thực, tôi với tấm lòng biết ơn chỉ biết cầu nguyện trời Phật phù hộ cho những ai quyết định ở lại không ra đi được một cuộc sống bình an dưới chế độ khát máu của cộng sản.
Khi chiếc PBR chạy sắp cặp vào tàu lớn của Trung Tá Hà-Hiếu-Diệp, ông xã tôi moi trong túi áo giáp một xấp tiền, đó là số tiền cuối cùng chúng tôi còn lại, vì tiền có bao nhiêu đã ký gửi trong nhà băng không kịp rút ra, tiền đóng 3 bát hụi chưa hốt cũng bỏ lại, những mảnh ruộng chúng tôi bỏ tiền ra mua để đầu tư cũng bỏ lại để chạy lấy thân, bây giờ "tay trắng lại hoàn trắng tay", anh đưa số tiền còn lại đó cho hai người lính thủy và anh cũng cởi chiếc áo giáp trên mình trao cho một trong hai người, rồi vỗ vai hai người nói lời cám ơn và chúc hai người ở lại được bình an.
Chiếc PBR chạy chừng mươi phút thì cập vào một chiếc tàu dòng lớn của Trung Tá Hà-Hiếu-Diệp Chỉ Huy Trưởng Ty Quân Cảng. Chúng tôi bước qua chiếc tàu đó và được hướng dẫn để lên một cầu thang, trên cùng cầu thang này cao ngang với chiếc tàu 502 được bắt qua bằng một tấm ván để chúng tôi từ chiếc tàu của Trung Tá Diệp bước qua tàu 502 dễ dàng. Tôi nhớ khi lên tàu của Trung Tá Diệp tôi gặp con gái lớn của Trung Tá, khi đó cô bé chừng khoảng 15 hay 16 tuổi rất đẹp, cô chào tôi, tôi hỏi:
- Con và em con có đi không?
Thì cô trả lời:
- Dạ con và em con sẽ đi cùng với Ba của con, con chúc gia đình cô đi thượng lộ bình an.
Tôi cám ơn rồi bước qua tấm ván để qua bên tàu 502.
Về sau tôi được biết vì một lý do gì đó mà Trung Tá Diệp không đi và bị đi cải tạo rồi chết nơi rừng thiêng nước độc.
Khi chúng tôi qua được chiếc tàu 502 tôi thấy quá chừng người là người, đông nghẹt, chật cứng, lúc đó trên tàu số người di tản ước chừng đã lên đến con số hơn 4.000 người và dường như mọi người ngồi khắp nơi trên tàu. Với kinh nghiệm di tản người dân ven biển chạy loạn nên ông xã tôi khuyên không nên xuống hầm tàu vì nơi đó không khí ngột ngạt, và anh dẫn chúng tôi kiếm một chỗ trên hành lang tàu chỉ vừa đủ 12 người chúng tôi ngồi sát bên nhau, nghĩa là mọi người chỉ đủ chỗ để ngồi chứ không đủ chỗ nằm. Chiếc tàu 502 đang trong thời gian đại kỳ (thời kỳ sửa chữa toàn diện) nên máy móc trước đó đã được tháo ra để tu chỉnh, bây giờ phải xử dụng nên hạm trưởng chiếc 502 nhờ những người biết máy móc cùng nhau ráp máy lại để chuẩn bị cho tàu chạy.
Khi mọi người yên chỗ rồi Ba tôi hỏi ông xã tôi lý do vì sao lại về nhà đón gia đình trễ vậy? Ông xã tôi lúc đó mới kể sự hỗn loạn xảy ra khi chiều. Hạm trưởng 504 là Trung Tá Phú (Phú thuốc lào) chiếc tàu anh làm việc đã giữ tàu lại không đi (được biết ông đã đem cả gia đình vợ con ra khỏi trại gia binh để ở lại VN), không những không đi mà ông hạm trưởng còn tìm cách ngăn cản tàu khác không đi được bằng cách ông cho đậu tàu ở vị trí ngoài bên trong chiếc tàu 504 còn một chiếc nữa đầy kín người dân đang chuẩn bị rời bến nhưng không di chuyển được vì bị chiếc 504 chặn lại. Người hạm trưởng chiếc trong vô cùng tức giận đòi bắn bể đầu Phú thuốc lào, bị hăm doạ bắn nên ông ta đã phải di rời chiếc 504 ra để chiếc bên trong đi. Lúc đó Phú thuốc lào ra lệnh tất cả thủy thủ đoàn chiếc 504 không được rời tàu cho nên ông xã tôi bị kẹt cho mãi đến 11 giờ đêm ông xã tôi quyết định kêu hai người thủy thủ của tàu hạ chiếc tàu nhỏ xuống và chở ông xã tôi đến ty quân cảng, khi đến ty quân cảng ông xã tôi nhờ Trung Tá Hà-Hiếu-Diệp cho mượn chiếc PBR (Patrol Boot River là một loại tàu chạy kiểm soát trên sông) để về nhà đón gia đình vợ con, Trung Tá Diệp rất sẵn lòng giúp đỡ, cũng nhờ sự giúp đỡ của Trung Tá Diệp mà gia đình chúng tôi đi thoát.
Đến 2:30 giờ tàu bắt đầu từ từ rời khỏi bến, con tàu đi trong đêm tối nhưng bầu trời vẫn sáng hừng ánh lửa cháy và tiếng đạn pháo kích vẫn rít trên không cùng với tiếng máy bay di tản của binh chủng không quân và máy bay di tản người của Mỹ, một bầu trời của chiến tranh tàn khốc không thể nào tả hết được cảnh hoang tàn chết chóc đang diễn ra ngay nơi thủ đô miền Nam thân yêu của tôi.
Hầu như tất cả mọi người trên tàu đều không ngủ nhìn con tàu đang lừ đừ trôi trên sông (vì tàu chỉ có một máy làm việc) với cảnh tan thương của đất nước mà rưng lệ, hai bên bờ sông bị đạn pháo cháy rực cả khung trời, sau Khánh Hội thì đến Nhà Bè bị lửa cháy sáng hựt cả một bầu trời.
Sáng 30 tháng 4 năm 1975 tàu đang lừ đừ tiến ra cửa biển Vũng Tàu, biển yên lặng không còn nghe tiếng đạn pháo của quân giặc, một không khí bình yên lạ thường, đến 9 giờ thì nghe đài VOA từ máy radio của người di tản nói Tướng Dương Văn Minh đầu hàng, lòng mọi người chùng xuống đau khổ:
- Thôi rồi, không ngờ ra đi là lần cuối cùng vĩnh biệt SàiGòn không hẹn ngày trở về. Lòng miên mang buồn, phó mặc cho ông trời và thầm cầu nguyện cho những người ở lại được bình yên.
Trên đường vận chuyển ra cửa biển tàu đã vớt thêm được một số dân di tản từ những tàu nhỏ và những trực thăng chở gia đình của sĩ quan không quân bay đến xin đáp xuống, trên tàu mọi người vạt qua hai bên để chừa chỗ trống cho trực thăng đáp xuống, sau khi mọi người trên trực thăng xuống hết thì hàng trăm thanh niên được huy động để đẩy chiếc trực thăng xuống biển chừa chỗ trống cho chiếc trực thăng thứ hai đang bay vòng vòng trên không chờ lệnh cho xuống, sau khi chiếc trực thăng thứ hai đáp xuống và mọi người đã xuống hết thì cũng hàng trăm thanh niêm hợp sức đẩy chiếc thứ hai xuống để chiếc khác đến. Chừng 1:00 giờ có thêm một chiếc máy bay cessna L.19 chở hai anh em, người em là hạ sĩ quan Không Quân và người anh là Trung Úy Không Quân là người lái chiếc máy bay đó, vì là loại máy bay trinh sát khi đáp xuống cần có đường phi đạo dài khác với trực thăng đáp thẳng xuống được mà boong tàu 502 không đủ chiều dài cho đáp xuống nên bộ chỉ huy trên tàu yêu cầu người em nhảy xuống biển trước sau đó người anh nhảy xuống và để máy bay tự rơi xuống biển, một tai nạn thương tâm đã xảy ra khi người em nhảy xuống thì máy bay người anh bay sát mặt biển nên nhảy xuống an toàn và được người nhái chờ sẵn vớt lên, còn người anh vì máy bay còn bay cao xa mặt biển nên khi nhảy ra ngực đập xuống mặt biển bị ngất đi và mất dạng, người nhái cố sức mò kiếm nhưng không vớt được.
Tuy đó là một tai nạn duy nhất xảy ra mà tôi đã chứng kiến suốt cuộc hành trình, vẫn biết còn nhiều chuyện thương tâm khác xảy ra trong bối cảnh nào đó của cuộc trốn chạy mà tôi không được chứng kiến, nhưng nó cũng làm tâm tư tôi xao xuyến nghẹn ngào khi nghĩ tới quá trình tôi chạy đôn chạy đáo khắp Sài Gòn, Gia Định tìm đến những người quen biết của chồng và dẹp bỏ mọi tự ái để van nài xin sự giúp đỡ và những người cược cả tính mạng mình không biết sống chết ra sao để đi tìm tự do.
Hai đứa con tôi đến hơn 2 giờ sáng mới được ngủ và ngủ rất say, đến hơn 10 giờ sáng 2 đứa thức dậy, đứa lớn chỉ vào bụng và gọi tôi:
- Mẹ ơi, con đói bụng
Đứa nhỏ bắt chước anh, tuy nói chưa sõi cũng chỉ vào bụng nói: Con đói bụng
Tới chừng đó tôi mới chực nghĩ ra: "Chết rồi! lo chạy mà không lo đem theo lương thực, bây giờ con đói bụng biết lấy gì cho chúng ăn đây?
Tôi quay qua hỏi mẹ tôi: Mẹ có mang theo lương thực để ăn dọc đường không?
Mẹ tôi lắc đầu, tôi nhìn các em, mấy đứa đều ngẩn ngơ rồi lắc đầu. Đúng là không có kinh nghiệm chạy loạn, ông xã thì có kinh nghiệm khi chở người di tản từ miền Trung vào nhưng vì khi về tới Sàigòn ông chạy tơi tả từ bộ Tư Lệnh Hải Quân rồi đến tàu 504 để xắp xếp công việc nên cũng quên nhắc tôi mang theo lương thực khô để ăn dọc đường.
Ông xã tôi nói: "Để anh vào trong cabin xem có thể xin được cái gì cho con ăn không"
Anh đi một lát trở lại với 2 ca sữa trên tay và một hộp sữa bột kẹp vào nách. Anh nói:
- May quá, anh gặp bác sĩ Đỗ Thức Diêu đang trực trong ca bin bệnh xá, trước kia là phòng ăn của cấp sĩ quan bây giờ dùng làm bệnh xá để lo cho dân di tản, tất cá có khoảng 15 bác sĩ để lo cho toàn tàu. Bác sĩ Đỗ Thức Diêu là bạn của anh, anh ấy là dân biểu Rạch Giá. Anh ấy cho hộp sữa bột đây.
Hai đứa con tôi đang đói bụng nên uống hết hai ca sữa.
Anh nói tiếp: Bây giờ đến người lớn, để anh đi tiếp xem xin được cái gì.
Lần này anh đi rất lâu đến gần 1 giờ anh mới trở lại trên tay cầm 6 nắm cơm nắm, anh mời Ba Mẹ tôi rồi tiếp đến anh đưa cho tôi và các em tôi.
Tôi hỏi: Còn phần anh đâu? và cơm nắm anh xin của ai mà ngon thế?
Anh cười và nói:
- Anh ăn rồi, lần đầu tiên anh biết nấu cơm, vì em đấy?
Tôi đang ngẩn ngơ không hiểu ý anh là gì.
Anh nói tiếp
- Đi chạy loạn không dễ gì ai nhường thức ăn cho mình đâu, mà anh nhớ câu các cụ nói "Muốn ăn thì lăn vào bếp" thế là anh vào nhà bếp xung phong làm một chân nấu cơm cho cả tàu hơn 4.000 người đấy. Nhà bếp có một toán người nhái có nhiệm vụ canh nhà bếp và nấu cơm bây giờ có thêm anh nữa là "một toán lẻ một người!!!"
Thế là nỗi lo lắng về thực phẩm và sữa cũng như nước trong tôi được giải tỏa.
Tàu vẫn tiếp tục đi, lúc này thì chiếc 502 được bộ Tư Lệnh điều hành cuộc di tản cho lệnh chiếc HQ 16 tiếp sức kéo nên cũng chạy khá hơn. Chúng tôi không biết mình sẽ theo con tàu này đi đến đâu về đâu. Đến 6 giờ thì tàu đã ra khỏi ngoài khơi Vũng Tàu, nhìn chung quanh chỉ thấy nước là nước không còn nhìn thấy bờ nữa nhưng đằng trước mặt dường như có cái gì chắn ngang, mọi người đứng lên và cố nhìn cho kỹ để xem là gì, rồi từ từ trời hơi xẫm tối những vật chắn trước mặt có ánh đèn thì ra đó là Đệ Thất Hạm Đội Mỹ đã giăng hàng ngang ngoài biển để chờ những chiếc tàu hải quân của VNCH di tản người dân. Lúc này tôi vẫn chưa biết mình sẽ đi đâu, ông xã tôi nói theo tin tức anh biết được thì đó là những chiếc tàu Đệ Thất Hạm Đội hộ tống chúng ta trong suốt cuộc hành trình từ đây đến Philippines.
Lúc này chuyến di tản được điều hành bởi Đô Đốc Chung Tấn Cang, lúc đầu các chiến hạm được lệnh di chuyển theo đội hình hai hàng dọc cách khoản đều nhau.
Từ đó chúng tôi yên tâm hơn trên lộ trình biển, mỗi ngày thực phẩm gồm gạo, nước và sữa được chuyển từ các chiến hạm Mỹ đến các tàu Hải Quân VNCH. Đặc biệt các thủy thủ Hải Quân Mỹ thuộc hải đội Ong Biển (Sea Bee) đã cung cấp vật dụng và nhân lực để làm thêm những nhà cầu lộ thiên ở cuối tàu trong việc giúp dân tản.
Một điều cho đến bây giờ tôi vẫn còn tin có là có sự hộ trì của Trời Phật và Chư Thiên đã làm cho gió yên sóng lặng, không mưa không nắng gắt cho nên những người di tản trên các chiến hạm HQVNCH được bình an, không ai bịnh.
Ngày 7 tháng 5 năm 1975 thì đoàn tàu chở người di tản đến ngoài cửa vịnh Subic bay. Chính phủ Philippines yêu cầu đoàn tàu hạ quốc kỳ VN và treo cờ Hoa Kỳ. Buổi lễ hạ quốc kỳ VNCH tất cả quân nhân các cấp đã diễn ra rất cảm động, suốt một cuộc hành trình hơn 7 ngày ai nấy đều mệt mỏi bơ phờ đến giờ hạ quốc kỳ mọi người trên tàu 502 đều cùng cất tiếng ca bài quốc ca để tiễn biệt quốc kỳ lần cuối, giọng ca nghẹn ngào có lẫn nước mắt để tiễn biệt quê hương mà ngày về lúc đó tưởng chừng vô vọng, tiếng ca oai hùng dường như nhắc nhở mọi người hãy ráng kiên nhẫn và sống đẹp, sống tốt để một ngày đẹp trời mình cùng nhau trở về xây dựng lại một VNCH hùng mạnh do sức của con rồng cháu tiên. Sau đó các súng ống, đại bác trên tàu có lệnh phải tháo ra và liệng xuống biển.
Viết đến đây tôi liên tưởng tới cuộc di tản vĩ đại của hoàng gia họ Lý khi bị nhà Trần đọat ngôi cách đây 793 năm, vào năm 1225 vua Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh với sự nắm quyền của Trần Thủ Độ đã giết hại nhiều người trong hoàng gia nhà Lý. Khi đó Thủy Sư Đô Đốc nhà Lý nửa đêm đã điều hành một cuộc di tản vĩ đại chở những người trong hoàng gia họ Lý đi lánh nạn bằng thuyền trực chỉ đến bán đảo Triều Tiên.
Phải chăng lịch sử đã tái diễn, tương tự, lúc 7:00 giờ tối ngày 29 tháng 4 năm 1975 khi biết sẽ có sự triệt thoái của vị Tổng Thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh thì Đô Đốc Chung Tấn Cang đã điều hành cuộc di tản vĩ đại người dân trên các chiến hạm ra khỏi Sài Gòn để tránh sự tàn sát khi cộng sản tấn công vào.
Và tôi cùng các người dân di tản trên những chiếc tàu này trong những ngày lênh đênh trên biển cũng đã từng một thời cùng di tản trên những chiếc thuyền đó thời nhà Lý? và bây giờ tái sanh trở lại và lịch sử lại tái diễn. Nghĩ đến đây tôi nghẹn ngào xúc động khi nghĩ đến 2 thảm kịch này, tôi khóc cho quê hương chinh chiến điêu tàn đổ lên người dân Việt Nam.
Minh Hạnh.
Baton Rouge, ngày 3 tháng 10, 2018
truyện ngụ ngôn
Đừng khóc mãi vì cùng một lý do
Lo lắng chẳng giúp bạn giải quyết vấn đề.
Ngày này qua ngày khác, mọi người tìm đến nhà người đàn ông thông thái và phàn nàn về cùng một vấn đề họ gặp phải. Một ngày kia, người đàn ông thông thái mời tất cả những người đó đến và kể một câu chuyện hài hước, lập tức tất cả đều cười ồ lên.
Vài phút sau, người đàn ông thông thái kể lại câu chuyện đó và lần này, chỉ có một vài người cười.
Khi người đàn ông thông thái kể câu chuyện đó lần thứ ba, chẳng có ai cười nữa. Lúc này, người đàn ông thông thái mới mỉm cười và nói: "Bạn không thể cười vì một câu chuyện hết lần này đến lần khác. Vậy tại sao bạn cứ luôn khóc vì cùng một lý do?".
Thật vậy, lo lắng không giúp bạn giải quyết các vấn đề, nó chỉ khiến bạn tốn thời gian và năng lượng.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
GIỌT NƯỚC
Vị thiền sư tên là Gisan yêu cầu người thiền sinh trẻ mang đến cho ông ta một xô nước để làm nguội cái bồn tắm của ông.
Người thiền sinh mang nước và sau khi bồn tắm nguội, anh đổ xuống đất một chút nước còn lại.
"Con thật tối dạ!" vị thiền sư trách mắng anh. "Tại sao con không cho chỗ nước còn lại cho những cây cảnh? Quyền gì đã cho phép con phí phạm dù chỉ một giọt nước ở trong chùa này?"
Vị thiền sinh trẻ đạt được thiền ngay lúc đó. Anh đã đổi tên mình thành Tekisui, có nghĩa là một giọt nước
Truyện cười trong ngày
BẮC THANG NÓI CHUYỆN VỚI TRỜI…
Với các cậu bé, chuyện gì cũng có thể xảy ra, kể cả nói chuyện với ông trời.
Một cậu bé theo dõi một thợ sửa điện thoại trèo lên cột điện, nối mạch bộ đồ nghề kiểm tra vào thử liên lạc với tổng đài. Có một sự cố nào đó trong việc nối mạch liên lạc. Chú nhóc đứng nghe một hồi rồi chạy ùa vào nhà la lên:
- Mẹ ơi, ra mà xem mau lên. Có một ông trèo lên cột điện thoại đang nói chuyện với trời.
- Cái gì khiến con nghĩ là ông ấy đang nói chuyện với trời?
- Vì con nghe ông ta la lớn “A lô! A lô! Trời ơi, có chuyện gì trên đó, có ai chịu nghe không hả?”.
Sunday, April 28, 2019
Truyện ngắn - Những trang giấy trắng
Những trang giấy trắng
Một buổi chiều muộn, khi những ánh hoàng hôn cuối cùng vừa tắt, trên bờ biển vắng, một cô gái trẻ một mình dạo bước trên cát với đôi bàn chân không. Cô dừng bước, quay nhìn đằng sau với ý muốn xem lại những dấu chân mình đã để lại trên cát. Nhưng không có gì, sóng đã xóa sạch. Cô định đi tiếp, song vừa quay lại cô đã phải giật mình hoảng hốt vì hình ảnh trước mặt: bên một đống lửa đang cháy, một bà già ngồi cuộn mình trong chiếc mền, chậm rãi lật từng trang một cuốn sách.
Cô gái cố trấn tĩnh, tiến lại gần bà lão và hỏi: "Bà từ đâu tới? Chỉ mới đây thôi, cháu không hề thấy bà? Bà làm cách nào mà đã nhóm được đống lửa này một cách nhanh chóng như vậy?". Với giọng nói chậm rãi và rõ ràng, bà lão đáp, không nhằm vào câu hỏi của cô gái: "Hãy ngồi xuống đây với ta, con gái. Ta có cái này cho con xem".
Cô gái ngồi xuống bên đống lửa, đón nhận cuốn sách từ tay bà lão thần bí. Cô tò mò lật giở cuốn sách và vô cùng sửng sốt khi đọc thấy những dòng chữ viết về cuộc đời mình, về tất cả những gì diễn ra với cô từ khi mới sinh ra cho đến lúc này. Cô đã đọc hết trang sách viết về cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa mình và bà lão bên đống lửa trên bãi biển vắng này. Lật sang trang tiếp theo, nhưng nó là trang giấy trắng. Cô vội vã tìm kiếm ở những trang còn lại, nhưng cũng không có một chữ nào, chúng hoàn toàn là những trang giấy trắng. Vô cùng hoang mang, với ánh mắt cầu cứu, cô nhìn bà lão:
- Điều này có nghĩa là cuộc đời cháu sẽ kết thúc tại đây, ngay lúc này?
- Không, con gái. Nó có nghĩa là từ đêm nay, cuộc sống của con mới bắt đầu.
Trong chốc lát, bà lão cầm lại cuốn sách, bắt đầu xé từng trang, từ trang đầu tiên với những dòng chữ về cuộc đời cô gái từ khi mới được sinh ra, đưa chúng về phía ngọn lửa, để cho lửa liếm cho đến lúc thành than. Bà lão đốt cho đến hết những trang giấy có chữ mà cô đã đọc. Xong xuôi, bà đưa cho cô gái phần còn lại của cuốn sách, toàn bộ là những trang giấy trắng:
- Con xem, sóng đã xóa hết dấu chân của con trên cát. Quá khứ của con không bao giờ trở lại, không bao giờ. Chỉ có hiện tại mới là thực tế. Mỗi khoảnh khắc hiện tại đều là một sự bắt đầu của cuộc đời con và chính là cuộc sống mà con cần nắm giữ. Không có sự trở lại lần thứ hai, mỗi giây phút hiện tại. Quan trọng hơn tất cả, mỗi ngày mới đều mang đến cho con một cơ hội để yêu, để sống và cơ hội đó không bao giờ trở lại lần thứ hai. Tương lai của con, con được tự do lựa chọn theo ước mơ của chính con. Và trên những trang giấy còn trắng này, chính con là người viết tiếp những dòng chữ về cuộc đời mình.
Rồi, cũng đột ngột như khi xuất hiện, bà lão cùng đống lửa biến mất trong bóng đêm...
Cuộc đời của bạn và của tôi cũng giống như cô gái trẻ nọ và tất cả mọi người - quá khứ là những gì chúng ta đã viết trên cát, sóng sẽ xóa đi tất cả; tương lai là những gì chính ta sẽ viết trên những trang giấy trắng, từ hôm nay, ngay giờ phút hiện tại này. Viết gì đây, cho cuộc đời của chính mình…
Theo Chickensoup.
Nguồn: Phương Dung - TNO
Truyện ngụ ngôn
Vẽ gì dễ
Một anh họa sĩ vẽ hình cho Tề Vương (Vua Tề). Một hôm Tề Vương hỏi anh:
- Nhà ngươi vẽ cái gì khó nhất?
- Thưa bệ hạ, vẽ chó, ngựa là khó nhất.
- Vậy vẽ cái gì là dễ nhất?
- Thưa bệ hạ, vẽ ma quái là dễ nhất.
Bởi vì chó ngựa ngày ngày đều xuất hiện trước mặt mọi người, ai củng quen thuộc chúng nó, nên vẽ không phải dễ. Còn loài ma quái chúng không có hình dạng nhất định, chưa có ai nhìn thấy chúng bao giờ, nên vẽ rất dễ.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
NHỮNG ĐỨA CON CỦA HOÀNG ĐẾ
Yamaoka Tesshu là vị gia sư của hoàng đế. Ông cũng là vị sư phụ của nghệ thuật đánh kiếm và thiền sinh uyên thâm.
Nhà của ông là nơi cư trú của những kẻ làng thang. Ông chỉ có một bộ quần áo, để giữ cho ông không nghèo
Vị hoàng đế, nhận thấy sự cũ kỹ của quần áo ông như thế nào, đã cho ông một số tiền để mua bộ quần áo mới. Lần sau Yamaoka xuất hiện ông vẫn mặc y chang bộ quần áo cũ.
Vị hoàng đế hỏi: "Cái gì đã xảy ra cho bộ quần áo mới?"
"Tôi đã cung cấp những bộ quần áo cho những đứa trẻ của Hoàng Đế," Yamaoka giải thích.
Truyện cười trong ngày
THẤT VỌNG
Một thời gian sau khi có vợ, anh nhân viên nọ buồn rầu than thở với đồng nghiệp:
- Trước khi cưới, mình hi vọng cô ấy sẽ là một thủ môn giỏi, trấn giữ khung thành gia đình, nhưng đến bây giờ mình hoàn toàn thất vọng…
Một đồng nghiệp ái ngại hỏi:
- Vợ cậu tệ lắm phải không?
- Cổ chẳng chịu làm thủ môn mà chỉ đòi làm huấn luyện viên!
Một thời gian sau khi có vợ, anh nhân viên nọ buồn rầu than thở với đồng nghiệp:
- Trước khi cưới, mình hi vọng cô ấy sẽ là một thủ môn giỏi, trấn giữ khung thành gia đình, nhưng đến bây giờ mình hoàn toàn thất vọng…
Một đồng nghiệp ái ngại hỏi:
- Vợ cậu tệ lắm phải không?
- Cổ chẳng chịu làm thủ môn mà chỉ đòi làm huấn luyện viên!
Saturday, April 27, 2019
Truyện ngắn Cà phê và tách
Cà phê và tách
Một nhóm bạn học nay thành đạt rủ nhau về thăm thầy cũ. Sau một hồi trò chuyện, họ bắt đầu kể lể, than phiền về những sức ép trong công việc cũng như trong cuộc sống. Nghe vậy, người thầy vào bếp lấy cà phê mời học trò cũ của mình.
Ông đem ra rất nhiều những chiếc tách khác loại: chiếc bằng sứ, chiếc bằng nhựa, chiếc thủy tinh, chiếc thì bằng pha lê, một vài chiếc trông rất đơn sơ, vài chiếc đắt tiền, vài chiếc khác lại được chế tác cực kỳ tinh xảo. Người thầy bảo những "người thành đạt" tự chọn tách và rót cà phê cho mình.
Sau khi mỗi người đều đã có một tách cà phê, người thầy đáng kính mới bắt đầu từ tốn:
- Nếu các em chú ý thì sẽ nhận ra điều này: ai cũng chọn những chiếc tách đắt tiền, chẳng ai thèm màng đến những chiếc tách nhựa giá rẻ cả. Có lẽ các em sẽ cảm thấy điều này thật bình thường vì ai chẳng muốn chọn cho mình cái tốt nhất, nhưng điều ấy lại chính là nguồn cơn của mọi vấn đề rắc rối trong cuộc sống của các em.
Các em à, những chiếc tách kia đâu có làm ảnh hưởng đến chất lượng của cà phê. Tất cả những gì các em cần là cà phê chứ không phải là tách. Thế mà thường thì các em chỉ chăm chăm lo kiếm những chiếc tách tốt nhất, rồi sau đó còn liếc mắt qua người bên cạnh để xem tách của họ có đẹp hơn tách của mình không.
Hãy suy ngẫm điều này nhé: cuộc sống chính là cà phê, còn công việc, tiền bạc và địa vị xã hội chính là những chiếc tách. Và những "chiếc tách" này không hề xác định hay ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống chúng ta. Đôi khi do cứ mãi để ý vào những "chiếc tách hư danh" mà chúng ta bỏ lỡ việc hưởng thụ cuộc sống.
Món quà mà Thượng đế ban tặng cho con người là cà phê chứ không phải tách. Vậy thì cứ thoải mái nhâm nhi cà phê của mình và tận hưởng cuộc sống tươi đẹp.
Subscribe to:
Posts (Atom)