Vì Sao Có Tục Lệ Cưa Răng
(Dân tộc Vân Kiều)
Hồi ấy có một A-nha giàu có ở ngay đầu con nước Xi-băng-hiên. Nhà A-nha nhiều như voi đàn quây dưới chân đồi. Chiêng núm, thanh ba treo đầy nhà, bạc nén bỏ vào chĩnh, vào ché đem chôn xuống đất tính đến chục, đến trăm chĩnh, trăm ché. Mười người ở đào lỗ chôn bạc hết bốn đêm, bốn ngày mới xong.
A-nha giàu của nhưng hiếm con. Đến ngày tóc vợ chồng A-nha bạc như sương núi, lưng còng như lưng gấu, mới có được một cô con gái. Hai vợ chồng đặt tên con là A-mang. Được nuôi nấng đầy đủ và nuông chiều, nên A-mang chóng lớn. Cô đẹp như hoa vông, tóc dài óng như suối chảy; hai con mắt khi vui nhấp nháy như sao buổi tối, khi buồn suy nghĩ như ánh sao mai. Thân cô mềm mại như lá dâu non cạnh bờ khe, chân đi nhẹ nhàng như sóc nhảy trên cành. Tiếng cười A-mang trong trẻo, vọng đến chân núi Com-phi, tận lèn A-sóc; vọng đến tai bọn trai trẻ xóm gần, càng xa, ngưng đọng vui mừng như tiếng kèn ta-riền hồn nhiên rạo rực, tình tứ xao xuyến như tiếng kèn a-nam lúc đêm khuya.
Bọn trai trẻ xóm xa, xóm gần bỏ cả việc nương việc rẫy mang kèn ta-riền đi ngược lên ngọn con nước tìm cô gái đẹp. Tối tối nàng A-mang cầm kèn a-nam ra ngồi đầu sàn thổi. Nhưng khi nghe tiếng kèn ta-riền của đám trai trẻ đến gần thì nàng cất tiếng hát chối từ.
Bọn trai bị chối từ vẫn không nản lòng. Tối tối họ lại cầm kèn đi vòng quanh nhà A-mang thổi rộn ràng.
Ở ngay cuối xóm có một anh con trai nghèo tên là Xà-nông.
Ngày ngày Xà-nông phải đi chăn trâu, giữ voi cho nhà A-nha. Anh xét phận mình nghèo khổ, lòng thầm yêu A-mang thật, nhưng anh làm gì có nồi đồng, vòng bạc, trâu đàn, voi cặp để làm “của bỏ” nhà người!
Nỗi buồn ám ảnh lòng anh như mây đen sà thấp che dần đỉnh núi. Tối tối anh không đi chơi với bọn trai trẻ, nhưng lòng rạo rực bâng khuâng như có kiến bò trong bụng. Nghe tiếng kèn ta-riền của bọn trai trẻ, Xà-nông tưởng có đàn ong bay vào tai mình. Khi nghe câu hát chối từ của A-mang, Xà-nông thấy lòng mình đang nóng bừng như được uống ngay một ngụm suối mát lạnh.
Xà-nông bồi hồi. Anh ngồi dậy khơi bừng ngọn lửa giữa bếp sàn, lấy kèn ta-riền ra thổi một mình.
Tiếng kèn ta-riền ngân vang, thổn thức bay mãi sang anh A-nha. Nàng A-mang nghe tiếng kèn, lòng xốn xang, nằm không yên, ngồi không yên, đôi môi mấp máy nhớ tiếng kèn. Nàng cầm kèn a-nam ra ngồi đầu sàn thổi, gửi lòng theo gió bay.
Vợ chồng A-nha nghe vậy buồn lắm. A-nha muốn gả con gái cho cậu út của một A-nha giàu có ở cuối con nước. A-nha dỗ dành A-mang hết lòng, cô nàng không thuận. Một hôm A-mang đòi được đi thổi kèn, chơi trăng với Xà-nông.
A-nha cưng con, không dám gạt lời con nhưng lòng ông đã quyết gả con gái cho kẻ giàu, bao giờ lại chịu gả cho anh Xà-nông nghèo khổ! Nghe tiếng kèn của Xà-nông, ông bực tức, giận như có lửa đốt bụng.
Một hôm A-nha nghĩ ra mưu kế độc, gọi Xà-nông đến bảo:
- Xà-nông à! Con gái vàng, con gái bạc của ta đã phải lòng mày. Mày muốn làm chồng nó nên ta thử sức mày xem có bằng con trâu đực, con ngựa nâu dưới chuồng không?
Xà nông lo lắng, ngồi lặng không dám hé môi. Buồng bên A-mang đánh tiếng hát khẽ như giục Xà-nông nhận lời. Xà-nông nghe tiếng hát lòng càng rộn ràng, nhưng chưa biết nên thuận ra sao.
A-nha nhếch mép cười, hai con mắt nheo lại gườm gườm.
- Mày thương con gái ta. Con gái ta thương mày. Mày phải cõng con gái ta lên ngọn núi trước nhà ta đó. Mày cõng lên đến đỉnh dốc rồi lại cõng về. Mày không được nghỉ một bước chân lên dốc, không được uống một ngụm nước trong suốt chuyến đi về. Mày đi đủ một vòng thì được làm chồng con gái ta. Bằng như Dàng không cho chân mày bước đi, Dàng không cho hơi mày thở ra đằng mũi thì thằng hầu nhà tao đi theo sẽ chém đầu mày.
Xà nông đứng nhìn ngọn núi sừng sững trước mặt mà sởn gai, dựng tóc. Đã mấy chuyến leo lên lưng chừng núi tìm ong, Xà-nông đã thấy chân rủn, cổ khát cháy. Nay A-nha bảo lên tận đỉnh đầu của ngọn núi đang bị sương bịt khăn trắng kia, lại không được uống, không được dừng lại một lúc nghỉ chân. Sau lưng anh lại phải cõng người yêu. Làm sao Xà-nông dám nhận lời!
Anh lủi thủi ra về, lòng buồn man mác. Anh lại lấy kèn ta-riền ra thổi một mình bên bếp lửa.
Tiếng kèn bay thốc đến nhà A-nha như muốn kêu cửa, giật rèm buồng ngủ A-mang. Cô khóc nức nở.
Không kìm được lòng, cô rón rén xuống sàn lặng lẽ đi về phía nhà Xà-nông, ghé mắt qua cửa, bảo:
Anh ơi! Cha mẹ không ưng, nhưng lòng hai ta như hai sợi dây mây vấn lấy nhau, mười người chặt không đứt, trăm người rứt không lời. Anh cứ nhận lời đi. Dàng cho sống, hai ta làm vợ chồng ở chung, Dàng bắt anh chết, em nguyện chết theo.
Nghe lời người yêu quả quyết, Xà-nông sung sướng. Hai người cùng lên sàn thổi kèn a-nam.
Tiếng kèn bay bổng quyện vào gió đêm ngân mãi giữa trời cao, càng thiết tha quyến luyến.
Lòng Xà-nông đã quyết. Anh sang nhà A-nha, xin cõng A-mang lên núi như lời A-nha đã thách thức.
A-nha thâm hiểm, sai người nhà cầm dao đi theo Xà-nông. Nếu anh run chân dừng lại sẽ bị tên người nhà chém chết, bằng không thì anh cũng sẽ chết khát.
Xà nông cõng A-mang lên vai và bắt đầu leo núi. A-mang thương người yêu nhưng phải theo phép cha mẹ và rất mong Xà-nông vượt qua được thử thách. Cô rủ rỉ hát vào tai Xà-nông mong làm anh vui và leo dốc bớt nhọc nhằn. Đến lưng chừng dốc, A-mang xổ tóc cho Xà-nông ngậm ngọn tóc lấy nước uống.
Thì ra vì thương người yêu, A-mang đã nhúng ướt đầu tóc mình làm nước dự trữ dọc đường thấm hơi, tăng sức cho Xà-nông. Được người yêu động viên và có nước uống, nên Xà-nông cõng A-mang đi thẳng một mạch lên đỉnh núi và trở về. Lòng khấp khởi mừng sắp được vợ, Xà-nông quên mệt nhọc, để nguyên A-mang trên lưng, chạy một mạch đến nhà A-nha. Xà-nông trao luôn đồng bạc trắng độc nhất của mình cho A-mang làm đồ “bỏ của”.
A-nha thấy Xà-nông không chết dọc đường, lòng tức giận sôi sục, kế gian cầy cáo nhảy tung trong bụng. Bề ngoài A-nha vẫn giữ nét vui, cười bảo Xà-nông:
- Xà-nông ơi! Ta là người già. Một lời nói như dùi đâm vào gốc cây, như cọc nhọn đóng sâu xuống đất, Xà-nông mau về nhà lấy năm nén bạc, mười nồi bảy, bốn nồi bung làm của trao cho cha mẹ A-mang. Lại phải có ba trâu, mười lợn, với năm ché rượu để cưới vợ về.
Xà-nông nghe vậy bàng hoàng. Cả một đời làm đầy tớ cho A-nha, anh chỉ dành dụm được một đồng bạc trắng, làm sao có đủ bạc, nồi, trâu đàn, lợn bầy để làm lễ cưới.
Xà nông thất vọng, chán chưởng, ngày lại ngày lầm lũi đốn cây, phát rẫy cho A-nha, tối về khơi bùng ngọn lửa nhà mình lên, lấy kèn ta-riền ra thổi những bài buồn thảm, nỉ non.
Tiếng kèn bay sang nhà A-mang, biến thành ngọn lửa đốt bụng A-mang nóng rừng rực. Tiếng kèn bay xa biến thành con dế sầu kêu rối rít trong óc A-mang.
Một đêm, hai đêm... tiếng kèn Xà-nông lúc nỉ non như tiếng khóc, lúc nghe đột ngột lạnh lùng như lời thề, như câu trăn trối.
Một đêm, hai đêm, A-mang không nhắm mắt, tai cô nghe rành rọt từng tiếng kèn, nghe cả từng tiếng nấc nghẹn, giữa mạch kèn. Không chịu nổi nữa, A-mang luôn ra cửa sau, chạy một mạch đến nhà Xà-nông bảo:
Anh ơi! Con chim phượng lệ đòi chết rục đầu lên đá. Em thiếu anh, em đâm đầu xuống suối thôi.
Xà nông nhảy xuống sân, nắm tay người yêu, nói:
- Không lấy được em, anh đập đầu vào chân núi đá. Không sống được bên em, anh leo lên đọt cây cao nhảy quay đầu xuống đất em ơi!
Hai người khóc lóc, than thân, trách phận suốt đời. Lúc mảnh trăng trên đỉnh núi đã dát bạc, đôi trai gái liền nắm tay nhau chạy miết theo lối mòn hôm trước hai người đã cõng nhau đi.
Đôi trai gái bỏ xóm, bỏ làng, nơi có ấm no, nhưng có lắm điều khắc nghiệt đối với trái tim non trẻ, để được yêu nhau ở một nơi xa lạ, tự do, như đôi chim trên sườn núi.
Khi mặt trời lên đến đỉnh đầu thì hai người vừa lên đến đỉnh núi. Nhọc nhằn, đói khát lẫn với sung sướng, hạnh phúc, khiến họ kiệt sức không thể đi xa hơn nữa. Họ chọn một tảng đá hẹp làm chỗ cùng ngồi nhìn khắp bốn bề triền núi. Xà-nông cùng A-mang thổi chung một chiếc kèn a-nam hát lại bài ca thề nguyền xưa.
Hát mãi, hát mãi... khi không còn hơi thổi kèn, không còn hơi ngân bài ca nữa hai người gục đầu vào nhau. A-mang đưa ngón tay mình cho vào miệng Xà-nông. Xà-nông lại cho ngón tay mình vào giữa hai hàm răng trắng óng của A-mang.
Đôi trai gái ôm chầm lấy nhau, dựa hẳn vào nhau...
Ở nhà hay chuyện Xà-nông và A-mang đi biệt tích, A-nha hốt hoảng cho người đi tìm. Họ lùng khắp núi cao, đồi thấp, lục lọi khắp nguồn khe, chân đèo... Đến ngày thứ năm người nhà chạy về báo cho A-nha biết: hai người đã ngồi chết trên đỉnh núi trước nhà.
A-nha vừa giận vừa thương, lòng rối tung như có cơn gió lốc xoắn cả ruột gan. Ông chạy một mạch lên đỉnh núi, nhìn rõ con gái mình với Xà-nông ngồi chết bên nhau và cả hai đều mất hai ngón tay, A-nha thấy miệng hai người đầy máu, liền móc miệng họ, lấy ra hai lóng tay.
Lúc này mới bàng hoàng kinh hãi, A-nha hô hoán lên:
Ôi! Con gái ra đi sim với thằng Xà-nông mới chết! Ôi? Trai gái đi sim nó cắn chết nhau! Dàng ơi!
Nghe A-nha kêu, ai nấy đều hãi hùng. Lôi A-nha như gió luồn qua các khe bay ra triền đồi, chân núi:
- Ôi! Trai gái đi sim nó cắn chết nhau!
- Ôi! Trai lớn, gái lớn đi tìm nhau để cắn chết nhau.
Từ đó trai gái Vân Kiều đến tuổi đi sim phải cưa răng, nếu không sẽ cắn chết nhau... Ngọn núi nơi đôi trai gái chung tình chết bên nhau được đặt tên là động A-mang, còn con khe dưới chân núi được đặt là khe Xà-nông từ đó.
No comments:
Post a Comment