Lá Thắm - Chim Xanh
1. "Lá thắm" là lá đỏ, do chữ "hồng diệp".
Ngày xưa, triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước bị tuyển vào cung làm cung hầu vua. Họ có đi mà chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn duyên tủi phận gối lẻ chiếc bóng trong thâm cung. Chỉ có khi nào bị sa thải vì hết đẹp, vì già...
Ðời Ðường (618- 907), triều Hy Tông, có nàng cung nữ tên Hàn Thúy Tần cũng như bao cung nữ khác sống cô lạnh trong thâm cung. Buồn tủi cho số kiếp của mình, nàng thường nhặt những chiếc lá đỏ rồi đề thơ trên lá, thả xuống ngòi nước như mong nước trôi xuôi cuốn đi nỗi tâm sự u uất của mình:
Lưu thủy hà thái cấp,
Cung trung tân nhiệt nhân.
Ân cần tạ hồng diệp,
Hảo khư đảo nhân gian.
Tạm dịch:
Nước chảy sao mà vội,
Cung sâu suốt buổi nhàn.
Ân cần nhờ lá thắm,
Trôi đến tận nhân gian.
Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm lũy. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể tướng Hàn Vinh tên Vu Hựu vốn người phong lưu tài tử, thơ hay chữ tốt, chỉ hiềm nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể tướng họ Hàn. Ðương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Vu Hựu bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ liền vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng nhặt một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung:
Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi,
Thượng đương cung nữ đoạn trường thì.
Tư quân bất cấm đông lưu thủy,
Diệp thượng đề thi ký giữ thùy.
Phan Như Xuyên dịch:
Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương,
Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường.
Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước,
Gởi cho ai đó nói không tường.
Nàng cung nữ họ Hàn thường ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá chở bài thơ của người không quen biết, vừa mừng, vừa lấy làm lạ, liền đem cất vào rương son phấn. Non mười năm sau, vua mới lên ngôi, sa thải một số cung nữ cũ, trong đó có Hàn Thúy Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể tướng họ Hàn là chú họ của nàng, để chờ chuyến thuyền trở về quê nhà. Gặp Vu Hựu, cả hai trò chuyện hợp ý tâm đầu. Tể tướng họ Hàn thấy cả hai xứng lứa vừa đôi nên làm mối cho kết thành duyên giai ngẫu. Ðêm tân hôn, Hựu chợt mở rương son phấn của vợ, thấy chiếc lá của mình ngày xưa, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được, đem cho vợ xem. Cả hai lấy làm lạ, đoạn nhìn nhau âu yếm mĩm cười. Thì ra cả hai giữ hai chiếc lá của nhau, cho là duyên trời định. Cảm xúc cảm tình, cổ thi có bài - nhưng có sách lại cho bài sau này do Hàn Thúy Tần làm ra:
Nhứt liên giai cú tùy lưu thủy,
Thập tải ưu tư mãn tố hoài.
Kim nhựt khước thành loan phượng lữ,
Phương tri hồng diệp thị lương môi.
Nghĩa:
Một đôi thi cú theo dòng nước,
Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy.
Mừng bấy ngày nay loan sánh phượng,
Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai
(Bản dịch của Vô Danh)
2. "Chim xanh" tức là chim báo tin.
Nguyên vua Võ Ðế đời nhà Hán đương ngự chơi ở vườn Thượng uyển, bỗng thấy có hai con chim xanh bay đến. Ðông Phương Sóc hầu bên tâu rằng:Nguyên vua Võ Ðế đời nhà Hán đương ngự chơi ở vườn Thượng uyển, bỗng thấy có hai con chim xanh bay đến. Ðông Phương Sóc hầu bên tâu rằng: "Đó là sứ giả của Tây vương mẫu đến trước báo tin Tây vương mẫu sắp đến." Quả nhiên, một lúc sau, Tây vương mẫu đến thăm nhà vua. "Chim xanh" được mượn chỉ sứ giả, người đưa tin.
No comments:
Post a Comment