Sunday, July 31, 2016
Chuyện ngắn - Báo hiếu: trả nghĩa cha
Báo hiếu: trả nghĩa cha
Nguyễn Công Hoan
Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt đến tận xương.
Nhưng mưa, gió, rét, có hề chi đến bữa tiệc giỗ ông cụ đẻ ra ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ôtô "Con cọp"? Bởi vì trong buồng khách, cửa đóng kín mít, hơi lửa lò sưởi xông lên nóng rực. Mà khách đến chơi, ông nào cũng gói mình vào đến trăm thứ áo, lại xù xù ở cổ một chiếc chăn con!
Khách đến dự tiệc toàn là hạng ông nọ ông kia, danh giá, mà ông chủ nói là chỗ thân. Cho nên cố mời cho kỳ được. Vì chính ông cũng là hạng tai mắt trong phố phường. Ông là nhà tư bản vậy!
Vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh đình, mời mọc cho thực đông khách, để tỏ rằng mình tuy nhờ trời làm ăn đã được khá, nhưng chẳng phải hạng uống nước quên nguồn - bởi đạo làm con là phải báo hiếu cho cha mẹ, để khỏi phụ công sinh thành dưỡng dục - thì thế gian họ cũng cười cho. Nghề thế, phú quý sinh lễ nghĩa.
Mà phú quý sinh lễ nghĩa thực. Chẳng tin cứ nhìn cách cử chỉ của hai ông bà chủ nhà ra đón tiếp khách thì đủ rõ. Hai ông bà cùng béo tốt, đẹp đẽ. Nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái hộp. Tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp với bộ ria sửa khéo như vẽ. Miệng lúc nào cũng chực toé ra một chuỗi cười. Vì ngày hôm nay, bổn phận ông là phải hay cười. Mà đã cười thì cười cực to, ôm bụng mà cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến câu nói không buồn cười. Nghĩa là ông hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản. Phải, người ta đã chẳng quản mưa, gió, rét mướt, mà quá bộ đến nhà để chiếu cố thì mình phải lấy làm hân hạnh, vui vẻ mới được. Cho nên ai đến, ông cũng chắp tay vái chào cung kính, rồi mời mọc ân cần, quý quý, hóa hóa, ăn nói rõ ra một nhà nền nếp, gia giáo.
Trong buồng ăn, tiệc đã dọn trên bàn, cái bàn chữ nhật, giải trên một tấm khăn trắng nuột. Cốc to, cốc nhỏ, chai lớn, chai con, bát sứ, đĩa tây, bày la liệt, nhưng có thứ tự, lóng lánh dưới ngọn đèn trăm nến.
Chuông sáu giờ vừa dứt. Khách đến đã đủ. Một tiếng ông chủ mời, thì một trăm bốn tư chiếc chân, vừa chân người vừa chân ghế, lê sền sệt trên nền gạch tây bóng lộn. Hai mươi bốn chiếc cốc đầy rượu đụng nhau, chủ khách bắt đầu cầm đũa.
Xin ngài cho phép chúng tôi vào vô phép bà chủ.
Câu nói vừa dứt, thì đã thấy bà chủ ở trong buồng đi ra, chắp tay, tươi như cái hoa:
- Các quan đã có lòng yêu chúng tôi, mà đến chiếu cố bữa cơm thường nhà chúng tôi, chúng tôi xin đa tạ. Xin rước các quan xơi rượu.
- Chúng tôi chẳng dám tin là bữa cơm thường!Kỵ cụ cố ông mà ông bà làm to thế này, thì chúng tôi tự xét mình lấy làm xấu hổ vì bất hiếu. Thôi nhờ bà nói giúp cho chúng tôi xin vô phép cụ cố bà.
- Thưa các quan, cảm ơn các quan, cụ bà chúngtôi ở trong nhà quê ạ. Nhiều lần chúng tôi mời ra ở đây, nhưng không chịu đi. Cho nên chúng tôi vẫn lấy làm ân hận lắm.
Cái lễ phép tắc trách đã làm xong, chủ khách ăn uống rất êm đềm vui vẻ. Êm đềm vui vẻ thực! Sung sướng thay! Củi lò sưởi nổ đôm đốp, át cả tiếng giọt mưa phùn. Chuyện nói to làm lấp các tiếng gió bấc thổi. Hơi rượu nồng nàn, ai nghĩ đến rét buốt thấu tận xương.
* * * Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương.
Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này, có một người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ. Bà dòm hết nhà nọ đến nhà kia, mà lại dòm một cách ngốc dại. Nghĩa là không nghĩ đến rằng lỡ người ta đuổi, hay mắng, cho là định rình ăn cắp, người ta bắt lên Cẩm thì sao? Dòm chán rồi lại hỏi thăm. Mà hỏi chỉ độc nói trống không. Khi chẳng ai hoài hơi mà trả lời, thì bà ta cũng không biết phàn nàn hoặc sửa lại câu hỏi cho nhã nhặn thêm chút ít. ấy thế rồi chịu đứng ngoài đường, như yên trí rằng ở đây cũng như ở nhà quê, không có xe pháo qua lại. Bà lại nhìn quanh quẩn từng nhà một...
Hàng mười lăm phút, bà ta loanh quanh, đi lại đến năm sáu lượt. Rồi nhận thấy một cái nhà có cái mái chĩa ra, bà bèn đứng lại để trú mưa. Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi, trông rõ quê mùa, đần ngốc. Mặt mũi đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt thì toét nhoèn những dử. Cái hàm trên thì chìa ra như mái hiên. Hai tay thì lóng cóng, gí cái nút buộc giải yếm vào tận mắt, lúng túng cởi mãi mới lấy được một miếng trầu, bỏ vào mồm, nhai phóm phém. Trông lại càng xấu. Cái áo vải nâu dầy cồm cộp, cái quần một ống - nói nôm ra, là cái váy - lùng thùng như cái bồ, chỗ thì ướt, chỗ thì khô. Có lẽ là bộ cánh quý nhất, nên ra tỉnh, mới dám mặc đến, nay bị ướt thì tiếc, nên cố vắt mãi cho khỏi đẫm nước mưa. Rồi lại cởi cái khăn vuông ra, để hở cái đầu bạc trọc tếch mà gãi, nhăn mặt lại mà gãi. Rồi lấy ngay cái khăn đội đầu ấy mà lau chỗ gấu váy có dính đất. Gớm, sao mà người đâu lại có người không biết thế nào là bẩn cả!
Rét đã run lên chẳng được, lại còn cứ lẩm bẩm nói một mình. Không biết nói những gì? Tính công tính việc hay là than thở, hay là vui thú cái chi chi? Nhưng thế thực rõ là cái lối người từ thuở bé chưa hề được thấy cái gì là hể hả.
Đương ngồi thì bỗng đằng sau lưng có tiếng cửa mở. Người đàn bà nhà quê quay lại, thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố nhố bao nhiêu người, hình như ăn uống. Chỉ trông thoáng có thế thì thấy cửa lại khép lại, và có người đi ra.
- Alê! Chạy! Chốc nữa hãy đến. Người ta vừa mới ăn!
Nói xong người ấy đi. Bà lão nhìn theo, không hiểu họ bảo ai. Nhưng chừng cũng đoán rằng người ấy là bồi biệc ở cái nhà này đây. Cho nên, một lát sau, trông thấy người ấy về, bà lão đứng ngay dậy, toan hỏi. Nhưng chưa nói được gì, đã bị mắng ngay câu nữa:
- Alê! Không đi đi thì ông ấy ra bây giờ!
- Đây có phải nhà ông chủ không?
- Ông chủ nào? Không biết! Alê! Đi!
Thế rồi cửa lại hé ra, rồi áp lại. Người ấy vào trong mất.
Bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa kính. Vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. Rồi không biết nghĩ sao, bà lấy tay sờ mãi vào cửa để mở. Nhưng không biết cách nào, bèn lay thình thình, như không sợ hãi gì cả.
Một người đứng hầu chạy ra mở cửa. Có lẽ là người ban nãy, cho nên thấy bà lão thì đẩy ra, và nói:
- Đi! Chốc nữa...! Dạ!
Cánh cửa lại đóng đánh thình. Bà lão nhìn theo, thì thấy người hầu ấy khoanh tay đứng nói gì với một người đương ngồi ăn. Mà chính vì đã trông thấy người ngồi ăn ấy, nên bà lão mới dám bạo dạn như thế. Người ngồi ăn ấy tức là ông chủ nhà, chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp".
Ông chủ đứng phắt dậy, phưỡn bụng đi ra mở cửa. Bà lão mừng rỡ, híp mắt, nhăn nhó cái mặt để cười và nói to tướng:
- Thành ra tôi ngồi ngay ở cửa nhà mà không biết!
Ông chủ nhà cau mặt, ra ý không bằng lòng, tặc lưỡi một cái. Rồi cánh cửa lại đóng ập lại.
Bà lão không hiểu ra sao. Hay là mình trông lầm chăng. ấy thế mà còn ngốc quá, bà cố cạy và đẩy mãi cửa. Nhưng may, không sao đẩy được. Nhìn theo vào, bà thấy cái nhà ông ấy đi tuột vào trong, mà khi ra ngồi vào bàn tiệc, thì lại cười nói như trước.
Độ mười lăm phút sau, có người đập tay vào lưng. Bà lão quay lại, thì người ấy nói:
- Tôi đưa bà cụ đi vào cổng đằng này, ông tôi bảo thế.
- Không đi được lối này à?
- Ông tôi đương có khách.Bà lão bước xuống thềm, đi theo. Vòng hai phố thì đến một cái cổng hơi rộng. Cổng mở, bà bước vào, đi qua một cái sân, thì đến cái nhà con, trong có chiếc ôtô bóng nhoáng. Người ấy bảo:
- Bà cụ ngồi tạm đây.
Bà lão nhìn bốn bên. Đèn tuy sáng, nhưng cũng không hiểu mình ngồi tạm nhà ai. Mà nói rằng ngồi, chứ có cái gì để ngồi đâu. Vả muỗi và hôi thối quá. Nên chỉ mong chóng có người đưa về, để lễ và để nằm nghỉ. Vì đi xe ngót một giờ đồng hồ cũng mệt. Bà lão nóng ruột quá.
Nhưng may sao, một lát sau thấy có người đi đến. Bà lão nhờ nhắn ông chủ xuống cho mình hỏi.
Độ mươi phút, quả nhiên có tiếng gót giày lộp cộp nện trên sân gạch. Bà lão cố nhìn xem ai. Mừng quá.
Thật đích là ông chủ. Ông chủ đứng trước mặt bà lão, nét mặt hầm hầm, trợn mắt, khoanh tay vào ngực mà gắt:
- Một suýt nữa thì làm tôi ê cả mặt! Ai bảo bà ra làm gì?
Bà lão chưa kịp trả lời cái câu hỏi không ngờ, thì đã bị mắng luôn mấy câu nữa:
- Tôi đã cấm bà không được ra đến đây kia mà. Đã một lần trước rồi, mà không chừa! Bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà cầm lấy! Bà về đi! Mặc kệ bà! Bà phải về ngay bây giờ! Mới có hơn bảy giờ, còn sớm!
Nói xong, ông ấn vào tay bà lão một cái tròn tròn, rồi quay gót trở lên, và gọi rầm rĩ:
- Thằng bếp đâu rồi! Mày đưa bà ấy ra! Mà mày phải bảo chúng nó rằng tao cấm, không đứa nào được kéo bà ấy cả! Cho mà đi bộ để bận sau mà chừa.
Bà ấy là ai? Bà ấy là một người đàn bà góa. Đã ngoại ba mươi năm nay, có một đêm, bà ấy trót dại chiều chồng, mà tình cờ đẻ ra được một đứa con trai. Sinh được ít lâu, trời bắt tội bà ấy goá bụa. Nhà nghèo, làm ăn vất vả, kiếm chẳng ăn đủ, nhưng bà ấy chẳng nhẫn tâm bỏ đứa bé thơ ngây trả nhà chồng để bước đi bước nữa mà vui thú với cái tuổi xuân đương hơ hớ. Qua mấy năm khó nhọc, khi sài, khi đẹn, suýt chết mấy lần, thì đứa bé đến tuổi đi học. Rồi vì nghèo khổ quá, nó phải ra tỉnh kiếm ăn theo anh em. Nhờ được cái nó nhanh nhẩu, láu lỉnh, liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm ăn ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở đâu một con vợ giầu. Từ đó, thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài. Nay giàu đến hàng mươi vạn. Thằng con ấy tức là ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp" vậy.
Bà lão lẩy bẩy, theo người bếp lôi ra cửa ban nãy. Đến đường, còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, thì không biết tâm trí để đâu, bà ta lập cập, vấp một cái, ngã xoài ngay ra rãnh cống. Quần áo mặt mũi lấm bê bết. Cái tròn tròn vẫn nắm trong tay bắn quăng đi. Bà lão cố sờ soạng. Khi tìm thấy, bèn gí vào mắt để xem, thì cái tròn tròn ấy là đồng hào ván...
Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đương khen là hiếu tử.
Nhưng mưa, gió, rét, có hề chi đến bữa tiệc giỗ ông cụ đẻ ra ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ôtô "Con cọp"? Bởi vì trong buồng khách, cửa đóng kín mít, hơi lửa lò sưởi xông lên nóng rực. Mà khách đến chơi, ông nào cũng gói mình vào đến trăm thứ áo, lại xù xù ở cổ một chiếc chăn con!
Khách đến dự tiệc toàn là hạng ông nọ ông kia, danh giá, mà ông chủ nói là chỗ thân. Cho nên cố mời cho kỳ được. Vì chính ông cũng là hạng tai mắt trong phố phường. Ông là nhà tư bản vậy!
Vả lại, không nhân ngày giỗ bố, mà làm bữa tiệc cho thực linh đình, mời mọc cho thực đông khách, để tỏ rằng mình tuy nhờ trời làm ăn đã được khá, nhưng chẳng phải hạng uống nước quên nguồn - bởi đạo làm con là phải báo hiếu cho cha mẹ, để khỏi phụ công sinh thành dưỡng dục - thì thế gian họ cũng cười cho. Nghề thế, phú quý sinh lễ nghĩa.
Mà phú quý sinh lễ nghĩa thực. Chẳng tin cứ nhìn cách cử chỉ của hai ông bà chủ nhà ra đón tiếp khách thì đủ rõ. Hai ông bà cùng béo tốt, đẹp đẽ. Nhất là ông, cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái hộp. Tóc bóng mượt, nhẵn như cái gáo lĩnh úp trên đầu, không chịu kém vẻ đẹp với bộ ria sửa khéo như vẽ. Miệng lúc nào cũng chực toé ra một chuỗi cười. Vì ngày hôm nay, bổn phận ông là phải hay cười. Mà đã cười thì cười cực to, ôm bụng mà cười, cười cả từ câu nói buồn cười đến câu nói không buồn cười. Nghĩa là ông hết sức khoe cái cười lấy lòng, cái cười thiệp đời của nhà tư bản. Phải, người ta đã chẳng quản mưa, gió, rét mướt, mà quá bộ đến nhà để chiếu cố thì mình phải lấy làm hân hạnh, vui vẻ mới được. Cho nên ai đến, ông cũng chắp tay vái chào cung kính, rồi mời mọc ân cần, quý quý, hóa hóa, ăn nói rõ ra một nhà nền nếp, gia giáo.
Trong buồng ăn, tiệc đã dọn trên bàn, cái bàn chữ nhật, giải trên một tấm khăn trắng nuột. Cốc to, cốc nhỏ, chai lớn, chai con, bát sứ, đĩa tây, bày la liệt, nhưng có thứ tự, lóng lánh dưới ngọn đèn trăm nến.
Chuông sáu giờ vừa dứt. Khách đến đã đủ. Một tiếng ông chủ mời, thì một trăm bốn tư chiếc chân, vừa chân người vừa chân ghế, lê sền sệt trên nền gạch tây bóng lộn. Hai mươi bốn chiếc cốc đầy rượu đụng nhau, chủ khách bắt đầu cầm đũa.
Xin ngài cho phép chúng tôi vào vô phép bà chủ.
Câu nói vừa dứt, thì đã thấy bà chủ ở trong buồng đi ra, chắp tay, tươi như cái hoa:
- Các quan đã có lòng yêu chúng tôi, mà đến chiếu cố bữa cơm thường nhà chúng tôi, chúng tôi xin đa tạ. Xin rước các quan xơi rượu.
- Chúng tôi chẳng dám tin là bữa cơm thường!Kỵ cụ cố ông mà ông bà làm to thế này, thì chúng tôi tự xét mình lấy làm xấu hổ vì bất hiếu. Thôi nhờ bà nói giúp cho chúng tôi xin vô phép cụ cố bà.
- Thưa các quan, cảm ơn các quan, cụ bà chúngtôi ở trong nhà quê ạ. Nhiều lần chúng tôi mời ra ở đây, nhưng không chịu đi. Cho nên chúng tôi vẫn lấy làm ân hận lắm.
Cái lễ phép tắc trách đã làm xong, chủ khách ăn uống rất êm đềm vui vẻ. Êm đềm vui vẻ thực! Sung sướng thay! Củi lò sưởi nổ đôm đốp, át cả tiếng giọt mưa phùn. Chuyện nói to làm lấp các tiếng gió bấc thổi. Hơi rượu nồng nàn, ai nghĩ đến rét buốt thấu tận xương.
* * * Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương.
Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa nhà có bữa tiệc này, có một người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đầu đội chiếc nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ. Bà dòm hết nhà nọ đến nhà kia, mà lại dòm một cách ngốc dại. Nghĩa là không nghĩ đến rằng lỡ người ta đuổi, hay mắng, cho là định rình ăn cắp, người ta bắt lên Cẩm thì sao? Dòm chán rồi lại hỏi thăm. Mà hỏi chỉ độc nói trống không. Khi chẳng ai hoài hơi mà trả lời, thì bà ta cũng không biết phàn nàn hoặc sửa lại câu hỏi cho nhã nhặn thêm chút ít. ấy thế rồi chịu đứng ngoài đường, như yên trí rằng ở đây cũng như ở nhà quê, không có xe pháo qua lại. Bà lại nhìn quanh quẩn từng nhà một...
Hàng mười lăm phút, bà ta loanh quanh, đi lại đến năm sáu lượt. Rồi nhận thấy một cái nhà có cái mái chĩa ra, bà bèn đứng lại để trú mưa. Người đàn bà ấy trạc ngoài sáu mươi, trông rõ quê mùa, đần ngốc. Mặt mũi đen đủi, dăn deo, xấu như con khỉ. Hai mắt thì toét nhoèn những dử. Cái hàm trên thì chìa ra như mái hiên. Hai tay thì lóng cóng, gí cái nút buộc giải yếm vào tận mắt, lúng túng cởi mãi mới lấy được một miếng trầu, bỏ vào mồm, nhai phóm phém. Trông lại càng xấu. Cái áo vải nâu dầy cồm cộp, cái quần một ống - nói nôm ra, là cái váy - lùng thùng như cái bồ, chỗ thì ướt, chỗ thì khô. Có lẽ là bộ cánh quý nhất, nên ra tỉnh, mới dám mặc đến, nay bị ướt thì tiếc, nên cố vắt mãi cho khỏi đẫm nước mưa. Rồi lại cởi cái khăn vuông ra, để hở cái đầu bạc trọc tếch mà gãi, nhăn mặt lại mà gãi. Rồi lấy ngay cái khăn đội đầu ấy mà lau chỗ gấu váy có dính đất. Gớm, sao mà người đâu lại có người không biết thế nào là bẩn cả!
Rét đã run lên chẳng được, lại còn cứ lẩm bẩm nói một mình. Không biết nói những gì? Tính công tính việc hay là than thở, hay là vui thú cái chi chi? Nhưng thế thực rõ là cái lối người từ thuở bé chưa hề được thấy cái gì là hể hả.
Đương ngồi thì bỗng đằng sau lưng có tiếng cửa mở. Người đàn bà nhà quê quay lại, thì thấy trong nhà đèn điện sáng trưng, lố nhố bao nhiêu người, hình như ăn uống. Chỉ trông thoáng có thế thì thấy cửa lại khép lại, và có người đi ra.
- Alê! Chạy! Chốc nữa hãy đến. Người ta vừa mới ăn!
Nói xong người ấy đi. Bà lão nhìn theo, không hiểu họ bảo ai. Nhưng chừng cũng đoán rằng người ấy là bồi biệc ở cái nhà này đây. Cho nên, một lát sau, trông thấy người ấy về, bà lão đứng ngay dậy, toan hỏi. Nhưng chưa nói được gì, đã bị mắng ngay câu nữa:
- Alê! Không đi đi thì ông ấy ra bây giờ!
- Đây có phải nhà ông chủ không?
- Ông chủ nào? Không biết! Alê! Đi!
Thế rồi cửa lại hé ra, rồi áp lại. Người ấy vào trong mất.
Bà lão cố liều, rón rén bước lên bậc thềm cao, dòm qua cửa kính. Vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. Rồi không biết nghĩ sao, bà lấy tay sờ mãi vào cửa để mở. Nhưng không biết cách nào, bèn lay thình thình, như không sợ hãi gì cả.
Một người đứng hầu chạy ra mở cửa. Có lẽ là người ban nãy, cho nên thấy bà lão thì đẩy ra, và nói:
- Đi! Chốc nữa...! Dạ!
Cánh cửa lại đóng đánh thình. Bà lão nhìn theo, thì thấy người hầu ấy khoanh tay đứng nói gì với một người đương ngồi ăn. Mà chính vì đã trông thấy người ngồi ăn ấy, nên bà lão mới dám bạo dạn như thế. Người ngồi ăn ấy tức là ông chủ nhà, chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp".
Ông chủ đứng phắt dậy, phưỡn bụng đi ra mở cửa. Bà lão mừng rỡ, híp mắt, nhăn nhó cái mặt để cười và nói to tướng:
- Thành ra tôi ngồi ngay ở cửa nhà mà không biết!
Ông chủ nhà cau mặt, ra ý không bằng lòng, tặc lưỡi một cái. Rồi cánh cửa lại đóng ập lại.
Bà lão không hiểu ra sao. Hay là mình trông lầm chăng. ấy thế mà còn ngốc quá, bà cố cạy và đẩy mãi cửa. Nhưng may, không sao đẩy được. Nhìn theo vào, bà thấy cái nhà ông ấy đi tuột vào trong, mà khi ra ngồi vào bàn tiệc, thì lại cười nói như trước.
Độ mười lăm phút sau, có người đập tay vào lưng. Bà lão quay lại, thì người ấy nói:
- Tôi đưa bà cụ đi vào cổng đằng này, ông tôi bảo thế.
- Không đi được lối này à?
- Ông tôi đương có khách.Bà lão bước xuống thềm, đi theo. Vòng hai phố thì đến một cái cổng hơi rộng. Cổng mở, bà bước vào, đi qua một cái sân, thì đến cái nhà con, trong có chiếc ôtô bóng nhoáng. Người ấy bảo:
- Bà cụ ngồi tạm đây.
Bà lão nhìn bốn bên. Đèn tuy sáng, nhưng cũng không hiểu mình ngồi tạm nhà ai. Mà nói rằng ngồi, chứ có cái gì để ngồi đâu. Vả muỗi và hôi thối quá. Nên chỉ mong chóng có người đưa về, để lễ và để nằm nghỉ. Vì đi xe ngót một giờ đồng hồ cũng mệt. Bà lão nóng ruột quá.
Nhưng may sao, một lát sau thấy có người đi đến. Bà lão nhờ nhắn ông chủ xuống cho mình hỏi.
Độ mươi phút, quả nhiên có tiếng gót giày lộp cộp nện trên sân gạch. Bà lão cố nhìn xem ai. Mừng quá.
Thật đích là ông chủ. Ông chủ đứng trước mặt bà lão, nét mặt hầm hầm, trợn mắt, khoanh tay vào ngực mà gắt:
- Một suýt nữa thì làm tôi ê cả mặt! Ai bảo bà ra làm gì?
Bà lão chưa kịp trả lời cái câu hỏi không ngờ, thì đã bị mắng luôn mấy câu nữa:
- Tôi đã cấm bà không được ra đến đây kia mà. Đã một lần trước rồi, mà không chừa! Bà không biết để sĩ diện cho tôi! Đây này, bà cầm lấy! Bà về đi! Mặc kệ bà! Bà phải về ngay bây giờ! Mới có hơn bảy giờ, còn sớm!
Nói xong, ông ấn vào tay bà lão một cái tròn tròn, rồi quay gót trở lên, và gọi rầm rĩ:
- Thằng bếp đâu rồi! Mày đưa bà ấy ra! Mà mày phải bảo chúng nó rằng tao cấm, không đứa nào được kéo bà ấy cả! Cho mà đi bộ để bận sau mà chừa.
Bà ấy là ai? Bà ấy là một người đàn bà góa. Đã ngoại ba mươi năm nay, có một đêm, bà ấy trót dại chiều chồng, mà tình cờ đẻ ra được một đứa con trai. Sinh được ít lâu, trời bắt tội bà ấy goá bụa. Nhà nghèo, làm ăn vất vả, kiếm chẳng ăn đủ, nhưng bà ấy chẳng nhẫn tâm bỏ đứa bé thơ ngây trả nhà chồng để bước đi bước nữa mà vui thú với cái tuổi xuân đương hơ hớ. Qua mấy năm khó nhọc, khi sài, khi đẹn, suýt chết mấy lần, thì đứa bé đến tuổi đi học. Rồi vì nghèo khổ quá, nó phải ra tỉnh kiếm ăn theo anh em. Nhờ được cái nó nhanh nhẩu, láu lỉnh, liều lĩnh, mà chẳng biết nó làm ăn ra sao, nó có được ít vốn, rồi lấy được ở đâu một con vợ giầu. Từ đó, thằng ấy một ngày một khá, buôn bán phát tài. Nay giàu đến hàng mươi vạn. Thằng con ấy tức là ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô "Con cọp" vậy.
Bà lão lẩy bẩy, theo người bếp lôi ra cửa ban nãy. Đến đường, còn đương ngơ ngơ ngác ngác, chưa rõ nên đi lối nào, thì không biết tâm trí để đâu, bà ta lập cập, vấp một cái, ngã xoài ngay ra rãnh cống. Quần áo mặt mũi lấm bê bết. Cái tròn tròn vẫn nắm trong tay bắn quăng đi. Bà lão cố sờ soạng. Khi tìm thấy, bèn gí vào mắt để xem, thì cái tròn tròn ấy là đồng hào ván...
Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con mà họ đương khen là hiếu tử.
Những chuyện ngụ ngôn hay
Hổ và Ngựa
Con ngựa có tính huênh hoang, khoác lác, ra khỏi nhà là nó nện bốn cái vó xuống đất, nghe ròn hơn gõ mõ làng, hí váng cả tai hàng xóm. Một hôm trời chưa sáng hẳn, ngựa còn đang ngủ say, chủ nhà đã ra bắt ngựa cưỡi đi chợ.
Ngựa phải đưa chủ qua suối, qua đồi, qua khe. Đường xa, bụng đói, chân mỏi, người đẫm mồ hôi, nhưng con ngựa không dám kêu, vì kêu thì sợ lúc trở về chủ sẽ không cho ăn bắp ngô, chậu cám. Đến chợ, chủ nhà buộc ngựa ngoài gốc cây, vào quán ăn thịt uống rượu. Con ngựa khát nước khô cả cổ mà không dám đòi, vì sợ chủ ăn không ngon, lúc về sẽ bắt ngựa chạy nhanh hơn. Ngựa về, bụng đã đói, chân đã mỏi, nhưng chủ nhà vẫn giục ngựa chạy nhanh. Lưng ngựa oằn xuống, bọt xùi ra mép, ngựa vẫn cắm đầu chạy một mạch, mong mau về đến nhà kiếm nắm cỏ tươi. Nhưng vừa mới về đến cửa thì con chủ nhà đã ra đón. Ngựa lại phải đưa con chủ nhà đi thăm nương, rẫy. Mãi đến nửa chiều, ngựa mới được về nhà uống một chậu nước cám. Uống xong, lại sức, con ngựa ra sông tắm. Vừa mới tắm xong ngựa đã lên bờ giũ lông, hí vang, ra dáng khoan khoái lắm. Lúc đó có một con hổ đi ngang. Thấy hổ lủi thủi đi một mình, đuôi cụp, đầu cúi, dáng buồn bã, ngựa nghển cổ lên nói khích:
- Đi đâu mà trông khổ sở thế anh hổ?
- Tôi đi kiếm ăn ở rừng dưới về. Anh chẳng làm gì sao mà trông thong thả thế?
Ngựa càng lên mặt, giũ lại bộ lông một lần nữa, hí vang thêm một lượt, rồi mới ngạo nghễ nói:
- Tôi lúc nào mà chẳng thong thả? Đi dạo chơi từ sáng đến giờ, bây giờ ra tắm cái cho khỏe.
- Anh sung sướng quá! Phận tôi thì phải chạy tối ngày mà có khi cũng chẳng được miếng ăn.
Được hổ nịnh, ngựa càng vênh mặt:
- Anh vất vả quá thật. Đường rộng rãi thế này, mà tôi dạo một lúc đã thấy mỏi chân. Còn anh thì núi rừng thế kia, đi vướng trước, đụng sau làm sao mà chịu được?
Ngựa còn khoe lúc nào cũng thừa thóc thừa ngô, ăn chẳng hết, rồi mời hổ về nhà chơi, để xem những thứ đó. Tính hổ ít nói, lại không muốn mang ơn bạn trước, nên mời ngựa đến nhà mình chơi trước, rồi mới đến trả lễ sau. Hổ về, chạy vào rừng tìm bắt những con nai, con hươu làm tiệc đón ngựa. Ngựa đến cùng hổ ăn thịt, uống rượu tới một ngày rồi kết nghĩa làm anh em. Xong bữa tiệc đó, ngựa về lo đón hổ, tỏ cho hổ biết mình là người sang trọng. Ngựa lấy lục lạc tròng vào cổ, mang yên vào lưng, ngắm nghía một lúc rồi ra đứng đón hổ. Hôm đó nhà chủ ngựa lại có cỗ, ngựa chờ chủ nhà ngủ yên, vào lấy hết mâm cỗ ra tiếp hổ. Hai bên ngồi ăn uống, ngựa chỉ vào từng món thức ăn, khoe:
- Cái này là thịt gà xào này!
- Cái này là mật ong này, ngọt lắm.
- Cái này làm chỗ ở của tôi - Ngựa chỉ ra chuồng, nói tiếp - chỗ tôi ở mưa không dột, nắng không đến, chứ đâu có khổ sở như anh, lúc mưa phải núp vào hang đá, lúc nắng trú dưới bóng cây...
Ngựa còn đang khoác lác thì trời đã sáng, chủ nhà cầm một cái roi ra bắt ngựa cưỡi đi chợ. Thấy ngựa ăn cắp mâm cỗ, sẵn roi chủ nhà đến tóm bờm ngựa đánh một trận nên thân. Ngựa cúi đầu chạy, hổ núp bên ngoài nhìn thấy mọi chuyện vừa xảy ra. Hổ tự hỏi:
- Ta ở trong rừng. Núp mưa trong hang đá, núp nắng dưới gốc cây mà không bị đánh là sướng, hay ở nhà gỗ ăn cám ngô mà bị đánh là sướng?
- Đi đường dốc, vấp phải đá, quàng phải dây mà không bị người ta ngồi trên lưng là sướng, hay đi đất bằng, đường rộng mà bị người ngồi trên lưng là sướng?
Hổ ra bờ suối, chui vào bụi rậm nằm, chờ ngựa, còn ngựa đưa chủ đi đến nửa buổi chiều mới được về. Ăn xong một nắm cỏ, nó lại ra suối tắm. Hổ hỏi:
- Anh ngựa này? Cái sướng của anh tôi không muốn đâu! Anh được ăn ngô, ăn thóc, ăn cỏ, được ở nhà gỗ mà bị người ta đánh vào đầu, người ta cưỡi lên lưng thì sướng làm sao được?
Con ngựa chống chế:
- Tôi không phải làm nhà mà được ở, ngô, thóc tôi không cấy mà được ăn... Anh bảo thế chưa sướng thì thế nào là sướng? Lủi thủi trong rừng quanh năm suốt đời như anh là sướng đấy sao?
- Núi rừng tuy có âm u rậm rạp, nhưng tôi muốn đi đâu cũng được, muốn nằm đâu cũng được. Lúc tôi ngủ không ai dám gọi, lúc tôi chơi không ai dám ngăn. Hươu, nai, cáo, cầy không phải là của tôi, nhưng tôi có công bắt được thì tôi cứ ăn; không bị ai giành lại, không bị ai đánh mắng. Cái sướng của anh tôi không muốn đâu... Tôi không làm bạn với anh nữa đâu. Tôi đi về rừng rậm núi cao của tôi đây.
Nói rồi hổ cong đuôi chạy vào rừng.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Ðúng Và Sai
Khi Bankei mở an cư kiết hạ, môn đồ khắp nước Nhật qui tụ về đông đảo. Trong một lần như thế, một dệ tử bị bắt gặp đang ăn cắp. Sự việc được trình lên Bankei với đòi hỏi kẽ phạm tội phải bị trục xuất, Bankei bỏ qua.
Ít lâu sau người đệ tử ấy lại bị bắt quả tang trong một trường hợp tương tự, và một lần nữa Bankei lại bỏ qua. Việc này làm những môn đồ khác bất bình, họ liền làm một thỉnh nguyện thư đòi đuổi tên ăn cắp, nếu không họ sẽ cùng nhau rời khỏi thiền viện.
Sau khi xem xong thỉnh nguyện, Bankei triệu tất cả môn đồ lại. "Các vị là những huynh đệ sáng suốt," ngài nói. "Các vị biết thế nào là đúng và thế nào là không đúng. Các vị có thể tìm nơi khác vừa ý để tu học, nhưng vị sư đệ này lại không biết đâu là điều đúng và sai. Ngoài ta ra, ai là người chịu nhận dạy bảo ông ấy. Ta sẽ giữ ông ấy lại đây cho dù các vị có bõ đi."
Một suối lệ đầm đìa rửa sạch mặt vị đệ tử ăn cắp. Từ đấy mọi tham vọng lấy cắp đều biến mất.
Lễ Hội Đua Bò - Tỉnh An Giang
An Giang - Lễ hội đua bò dân tộc Khơ - Me
An Giang, mảnh đất có nhiều di tích lịch sử, danh thắng và lễ hội mang đậm nét bản sắc văn hóa dân gian, trong đó có lễ hội đua bò kéo bừa truyền thống là nét sinh hoạt văn hoá, môn thể thao độc đáo và đặc sắc của đồng bào dân tộc Khơ-me vùng Bảy Núi An Giang.
Lễ hội đua bò được tổ chức vào lễ "Đôn ta" (lễ cúng ông bà), từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 10 âm lịch hàng năm. "Đôn-ta" là một trong những lễ hội lớn mang tính truyền thống của người Khơ-me để biểu lộ lòng tưởng nhớ, biết ơn đối với tổ tiên và công lao của những người đã khuất.
Sau khi đến chùa làm lễ rước vong linh ông bà tổ tiên về cùng chung vui với gia đình, người Khơ-me thường kết những bè chuối để làm thuyền, trên thuyền bày đủ các phẩm vật đã cúng, mỗi thứ một ít, sau đó đem thả xuống dòng nước cạnh nơi ở hoặc ao hồ, sông rạch gần nhà... Cũng vào dịp này, khách đến thăm phúm, sóc sẽ được bà con Khơ-me đón tiếp nồng hậu, tiếp đãi chu đáo. Vì họ quan niệm khách là sứ giả của tổ tiên về thăm gia đình, con cháu... Trong lễ ''Đôn-ta" ngoài tập tục thả thuyền, người Khơ-me còn tổ chức hội đua bò truyền thống. Để chuẩn bị cho cuộc đua bò, họ chọn một khoảnh ruộng bằng phẳng, chiều dài chừng 200m, ngang 100m có nước xăm xắp, được “trục” xới nhiều lần cho có độ trơn của bùn, bốn bên có bờ bao và điểm đích có đoạn đường trống để làm độ dừng an toàn cho bò. Đoạn đường đua chính chỉ cần 120m theo khoảnh ruộng cặp sát bờ bao. Nơi xuất phát được cắm 2 cây cờ màu xanh, đỏ mỗi cây cách nhau 5m, và tại điểm đích cũng vậy. Đôi bò nào đứng ở vị trí cây cờ màu gì thì điểm đích cũng theo màu của cây cờ đó.
Trước khi vào cuộc đua, họ chọn từng đôi bò với nhau hoặc bốc thăm và thoả thuận một số qui định cần thiết như ai sẽ đi trước, đi sau... Nhưng thông thường đôi đi sau có phần ưu thế hơn. Nếu trong khi đua, đôi bò nào chạy tạt ra khỏi đường đua sẽ bị loại và đôi bò sau giẫm lên giàn bừa của đôi bò trước là thắng cuộc. Còn người điều khiển phải đứng thật vững nếu bị ngã hoặc rơi ra khỏi giàn bừa coi như thua cuộc.
Từng đôi bò được ách vào một chiếc bừa đặc biệt, gọng bừa là bàn đạp gồm một tấm gỗ rộng 30cm, dài 90cm, bên dưới là răng bừa. Người điều khiển bò cầm roi mây hoặc khúc gỗ tròn vừa tay độ 3cm, đầu có tra cây đinh nhọn - cây xà-lul. Khi bắt đầu lệnh xuất phát của trọng tài, người điều khiển chích mạnh cây xà-lul vào mông con bò, bò bị đau phóng nhanh về phía trước, quan trọng là phải chích cho đều cả hai con thì vận tốc của đôi bò mới quyết liệt và hấp dẫn. Điều này có khác với đua ngựa ở chỗ là mỗi người cưỡi một con, ai về đích trước sẽ thắng cuộc. Ngày hội đua, từ sáng sớm bà con đã có mặt đông đảo tại địa điểm đua bò. Có người ở cách xa hàng vài cây số cũng mang theo cả xoong, nồi, mắm, muối nấu ăn tại chỗ để xem cho trọn vẹn cuộc đua. Chỗ xem cũng không cần cầu kỳ như xem bóng đá, đua ngựa hay một số môn thể thao khác, chỉ cần đứng ở vị trí hơi cao so với mặt sân đua hay leo lên bờ bao là đủ. Từ lúc cuộc đua bắt đầu cho đến kết thúc không khí lúc nào cũng tưng bừng và hào hứng, tiếng vỗ tay, reo hò, sôi nổi cổ động dành cho những người điều khiển các đôi bò giỏi hoặc những pha về đích gay go, quyết liệt.
Chuyện cười trong ngày
Vẫn chưa hiểu
"Cháy! Cháy!" Có tiếng kêu hốt hoảng trong điện thoại.
"Ở đâu?" Người đội viên cứu hỏa hỏi vội.
"Ở nhà tôi".
"Tôi hỏi địa điểm cháy ở đâu?"
"Trong bếp".
"Biết rồi! Nhưng chúng tôi làm cách nào đến được nhà anh chứ?"
"Thế các ông không có xe cứu hỏa sao?"
"Cháy! Cháy!" Có tiếng kêu hốt hoảng trong điện thoại.
"Ở đâu?" Người đội viên cứu hỏa hỏi vội.
"Ở nhà tôi".
"Tôi hỏi địa điểm cháy ở đâu?"
"Trong bếp".
"Biết rồi! Nhưng chúng tôi làm cách nào đến được nhà anh chứ?"
"Thế các ông không có xe cứu hỏa sao?"
Wednesday, July 27, 2016
Chuyện ngắn - Ông già xay lúa
Ông già xay lúa
Trích trong tuyển tập Hương Rừng Cà Mau. Tác giả: Sơn Nam
Tây cai trị xứ mình... đem lại nhiều cái hay nhưng cũng có lắm điều dở, phải không chú phó hương quản?
Chú phó hương quản ngạc nhiên, chưa dám trả lời. Ðây là lần đầu tiên mà chú nghe cậu xã Nê tuyên bố lạ lùng như vậy. Cậu xã là người thanh niên độc nhất ở U Minh làng Ðông thái này thi đậu bằng cấp tiểu học, học trường của nhà nước ở chợ. Nhiều lần, cậu xã giải thích riêng cho chú hiểu: tên Nê của cậu do chữ Tây Rờ-Nê, Rê-Nê gì đó mà ra. Chính cậu xã phổ biến cách chào hỏi mới, bắt tay “bủa xua” với ông đại hương cả. Mỗi kỳ đi hầu ông Ðốc Phủ Xứ chủ quận, cậu xã Nê không mặc áo dài, đội khăn đống như mấy ông hương chức khác. Cậu diện áo bành tô, cổ thắt “cà ra quách”. Lại còn một việc lẫy lừng kì ác, thiên hạ đồn phong phanh chớ chú không chứng kiến tận mắt: năm ngoái, lúc ông Chánh Soái đi tàu tới Cạnh Ðền mang theo sắc thần của Bảo Ðại phong cho Hoàng tử Cảnh, cậu xã Nê bắt tay “bủa xua” với ông Chánh Soái, rồi “bật” tiếng tây rôm rốp khiến quan Ðốc Phủ Sứ, mấy thầy thong thầy ký và tất cả hương chức hội tề các làng trong quận đều khâm phục...
Cậu xã Nê nhắc lại câu hỏi khi nãy:
- Phải không chú phó hương quản, Tây cai trị đem lại lắm điều dở, chú nghĩ coi.
- Ðiều gì vậy cậu. Tôi thiếu hiểu.
- Cờ bạc lộng quá. Dân mình như tự do cờ bạc suốt năm. Ở chợ Ngã Năm, ở chợ Xẽo Rôn nhà “xẹt” đông nghẹt dân nghèo.
Chú phó hương quản suy nghĩ, giải thích:
- Tại cái máu cờ bạc. Dân miệt này toàn là người tứ xứ tới làm ăn. Họ cờ bạc không cần ăn thua, cốt để khuây khỏa nỗi nhớ nhà.
- Không phải đâu! Tại họ ở không, quanh năm chỉ làm một nghề ruộng hoặc một nghề đốn củi. Thiếu tiểu công nghệ...
- Thưa cậu, tiểu công nghệ là cái gì?
- Là thuộc da, dệt chiếu, may quần áo... Làng mình không có thứ tiểu công nghệ nào để cầm chưn họ.
Vùng rừng bùn lầy, khai thác chưa xong, làm sao họ nói đến tiểu công nghệ? Chú phó hương quản mải lục soát trong trí nhớ. Làng gồm bốn ấp, tháng Tết rảnh rang, ai nấy bỏ nhà đi chơi. Ấp Ðông Bình, sát mé biển chuyên về chài lưới; thường thường mấy tay khá giả ở đó đi ghe ra chợ Rạch Giá đánh me, đánh vố. Hết tiền thì họ ngồi nhà mà đờn ca vọng cổ hoặc nói chuyện tiếu lâm. Hồi mùng ba Tết, chú phó hương quản đến đó một lần, họ kéo chú lại bắt ép uống rượu đến say mèm rồi mới chịu thả ra. Vui quá! Lại còn “ông Năm xay lúa” từ ngoài hòn Cổ Trơn vào xay lúa mướn! Thiên hạ bao vây ổng, hỏi han rối rít. Cái ông già này mới cừ khôi, đứng xay từ hừng sáng tới mười giờ đêm mà không nghỉ tay, sắc mặt luôn luôn tươi rói. Bất chấp Tết nhứt, ông ra nghề từ bữa mùng bốn, xay lúa ròng rã tới hôm nay, ai cần thì cứ gọi ông đến cho vui nhà vui cửa.
Chú phó hương quản nói:
- Ở xóm biển có người chuyên môn xay lúa mướn. Ðó là tiểu công nghệ, phải không cậu ba?
Cậu xã Nê gật gù:
- Không phải... nhưng mà có còn hơn không. Ai xay vậy?
- Dạ, ông Năm ở hòn Cổ tron mới vô.
Nghe qua, cậu xã như bị điện giựt, nhảy nhổm, sáng mắt lên:
- Chú nói sao! Hòn Cổ Tron à! Thiệt không?
- Dạ, thiệt chớ.
- Trời đất ơi! Mấy năm rồi tôi muốn biết cho rành cái... tụi người đó. Kỳ cục lắm kia. Tôi thấy tận mắt một lần mà còn nhớ, còn giận hoài. Họ ở truồng.
Chú phó hương quản ngạc nhiên:
- Sao lạ vậy cậu? Ông già này... có bận quần. Hằng năm mùa Tết ổng vô đây xay lúa mướn. Qua tháng mưa, ổng thất nghiệp trở về hòn; ổng đui hết một con mắt, nói chuyện sành sỏi, nghe ngộ lắm.
- Ðây là lần thứ nhì tôi gặp họ... Nếu không ở truồng thì họ cũng mang vô đây vài phong tục lạ lùng. Chú đốt đuốc mau. Mình đi kiếm ổng nói chuyện... Dịp may hiếm có. Còn trắng đêm hai mươi lăm u ám quá; hai thầy trò đốt đuốc soi đường. Mùa hạn, đồng trống hoang cây cỏ héo cằn, con rạch khô cạn. Ði bộ trong làng rạch đã mát chân lại được bảo đảm nạn rắn rít.
Gió biển hiu hiu, hơi lạnh như gió bấc, muỗi bay thưa thớt từng con bên cây đèn tọa đăng, tuy vặn tim lên cao nhưng mãi lu câm vì ống khói không chùi sạch. Ông Năm nắm tay vào giàn xay, đưa tới lui. Thớt cối quay tròn, lúa phun ra kêu rồ rồ, vang đều đều, mãi rồi sanh nhàm tai, buồn ngủ, cơ hồ không có. Kế bên ông Năm, đờn dìm trổi giọng, không na ná tiếng gà mổ vào nia. Ðờn “ghi ta” hòa theo, tuy nhanh nhưng buông rõ rệt từng giọt đồng, kém dồn dập hơn giọng đờn ở bên Tây Ban Nha tuyệt vời. Bãi biển sình lấy của vịnh Xiêm La chứng tỏ đủ năng lực hấp thụ và đồng hóa những gì xa lạ!
Năm ba bạn bè đang nghe bài Tây Thi quốc sự, nhắc gương chiến đấu của nhà chiến sĩ quốc gia Phan Châu Trinh, Mấy chai “ắp xanh”, “con cọp đen” rượu rừng... lần lần cạn. Tuy bận rộn xay lúa nhưng ông Năm vẫn lắng nghe, thưởng thức. Bỗng có kẻ chạy vào như tên quân trong tuồng hát bội cấp báo:
- Thầy xã với phó hương quản tới. Nghe không! Hai chả đốt đuốc... Lặn hụp giữa ruộng nãy giờ. Tôi thấy rõ ràng.
Ai nấy ngưng đờn ca. Ông Năm vẫn xay lúa rồ rồ... Họ vừa nói vừa cười, cãi cọ qua lại một cách thân ái:
- Mấy chả gan mật cùng mình sao kìa! Hồi nào tới giờ họ chưa đặt chân tới xóm mình. Chắc có chuyện gì, mình ăn thua đậm.
- Nói bậy đi. Hễ không tới thì chê nghười ta nhát, kiêu căng. Bây giờ người ta tới thì công kích. Thầy xã này là người có âm đức. Ba của thẩy, chú của thẩy hồi đó hiền lắm.
- Hiền đâu không thấy, chớ tôi hồ nghi mấy “chả” toan xét giấy thuế thân đặng mà dằn mặt tụi mình.
- Tết mà, thẩy đâu dám. Tôi nghi thẩy làm “ăn kết” dân lạ mặt, thí dụ như ông Năm xay lúa. Mình cứ trả lời rằng đã trình diện ổng với ông chủ ấp. Chủ ấp của mình bữa nay đi vắng, dể nói dốc quá, đâu có mặt mà đôi chối. Nè ông Năm! Ngừng tay lại, nghe tôi dặn: Lát nữa, ai có hỏi, ông làm bộ như câm, như điếc. Nói chuyện nhiều, nguy lắm. Ông có “giấy lão” không?
Ông Năm nói:
- Không có giấy tờ gì hết. Tôi tàn tật hư một con mắt mà... Muốn dẫn tôi đi đâu cũng được... Theo lẽ, nhà nước phải nuôi tôi nữa kìa.
- Cha này coi vậy mà gan ta!
Ánh đuốc sáng lòe trước cửa. Ai nấy lặng im. Chú phó hương quản đập đuốc xuống đất để dụi tắt. Cậu xã Nê bước vào, trong khi ông Năm mải xay lúa rồ rồ.
Cậu xã tươi cười, khoát tay như bảo ai nấy cứ ngồi xuống, đừng đứng dậy chào.
- Ðược! Ðược! Phiền bà con quá. Tết năm nay đầy đủ không? Ðờn địch vui quá hả? - Thầy nói.
Một người đáp lại:
- Dạ, nhờ... “bà cậu” nên năm rồi cũng khá, tạm đủ tiền xây xài.
Chú phó hương quản lườm mọi người:
- Bà con ăn nói vô ý tứ quá. Tại sao nhờ... “bà cậu”? phải nhờ người này người kia chớ. Còn ông già kia sao xay lúa hoài vậy? Nghỉ một chút để người ta nói chuyện. Bữa nay cậu xã tới...
Cậu xã ngắt lời:
- Ổng xay để ổng xay. Nếu dân mình ai nấy đều siêng năng như vậy thì quý lắm.
- Dạ đó là ông già Cổ Tron mà tôi nói hồi nãy với thầy.
Cậu xã hơi phật ý vì thái độ quá sốt sắng của người cộng sự:
- Chú phó hương quản để mặc tôi. Tôi không muốn làm rầy ổng.
rồi giọng thầy ôn tồn:
- Ông ở hòn Cổ Tron hả! Làm gì sanh sống ở ngoải?
Ông Năm ngưng tay, trả lời:
- Dạ, tôi đốn câu săn đá để làm cối giã gạo, bán cho bà con trong bờ này.
- In là ông hư một con mắt?
- Dạ bẩm, tôi tàn tật hồi còn nhỏ chớ không phải vì nghề... cầm búa.
Một người nói tiếp như muốn chứng minh sự lương thiện của ông Năm:
- Thưa thầy, ổng giỏi lắm. Nghèo là tại trời... vậy thôi! Cây săn đá ngoài hòn Cổ Tron bền tới thiên niên. Cối bằng săn đá giả gạo mau trắng. nhịp chày vô nghe bon... bon như thiếng chuông đồng. Ở nhà đằng kia, còn một cây cối thứ đó.
Cậu xã gật đầu:
- Ðó là tiểu công nghệ, nghe không chú phó hương quản.
Rồi cậu ngắm nghía ông Năm. Nỗi thắc mắc của cậu vẫn chưa giải tỏa. Không lẽ dân ở hòn Cổ Tron lại siêng năng, khéo léo, hiền hậu tới mức này. Day qua mấy cây đờn, mấy chai rượu, cậu như hối hận:
- Bậy quá! Làm lỡ cuộc vui chơi của bà con anh em. Thôi “làm” một bản vọng cổ nghe coi! Lựa thứ nào văn chương hay một chút.
Vọng cổ mà văn chương hay! Họ rao sơ sơ rồi bắt đầu:
- Ác ngậm non Ðoài, ngọn gió Ðông Nam nó thổi đưa mặt nhựt hồi về nơi Tây Bắc...
Anh ca sĩ ngạc nhiên, tức tồi vì thình lình cậu xã dơ tay lên, ra dấu hiệu chận lại, thiệt không đúng “điệu”! hay là cậu hồ nghi câu hát này ẩn ý chuyện quốc sự, sấm truyền? Hồi lâu, cậu xã mới nói:
- Câu hát khó hiểu quá! Rắc rối và lại vô duyên.
Anh ca sĩ cãi lại:
- Thưa cậu, đó là tả cảnh chiều, gió thổi nhè nhẹ mặt rời sửa soạn lặn... Bài này trích trong cuốn Vọng cổ Bạc Liêu bán tại chợ Rạch Giá.
- Tôi hiểu... Bài ca lăng nhăng quá, trật sách vở khoa học. Tại sao mọc ở Ðông Nam rồi lặn ở Tây Bắc?
Anh ca sĩ nhìn qua ông Năm như cầu cứu. Cậu xã nói cố ý:
- Ông già xay lúa này cắt nghĩa thử coi. Tôi nói câu hát trật văn chương mà!
Ông Năm vừa xay lúa vừa nói chậm rãi:
- Dạ, lệ thường mặt trời mọc hướng Ðông lặn hướng Tây. Nhưng gần sa mưa hay gần Tết thì mặt trời đi xéo. Vì vậy ngày và đêm không đều, “tháng năm chưa nằm thì sáng, tháng mười chưa cười thì tối”. Từ Ðông Nam hồi về Tây Bắc, tức là bài ca vọng cổ muốn nói lúc tháng mười; ngọn gió đó là gió Tết. Mặt trời ít khi đi ngay hướng Ðông Tây, thưa cậu.
Cậu xã Nê hoảng hồn vì dường như ông già xay lúa nọ nói đúng, đúng theo cuốn sách địa lý mà cậu đã học. Nhìn nhận rằng ổng nói đúng thì e mất thể diện mình, cậu đánh trống lảng:
- Ông học điều đó ở đâu vậy? Ai dạy ông?
- Dạ, không ai dạy hết. Tôi nghiệm ở hòn Cổ Tron. Ở ngoải buồn lắm. Tối ngày, tôi coi mặt trời mọc, mặt trời lặn cho khuây khỏa. Ðiều đó, lần lần tôi hiểu được, không rõ hồi nào.
Cậu xã Nê hơi tức giận. Chú phó hương quản nãy giờ ngồi im lại nói:
- Ông biết cái gì ông ơi! Hòn Cổ Tron là nơi quê mùa, còn tệ hơn quê mùa nữa kìa! Dân hòn Cổ Tron chuyên môn ở truồng, đàn ông đàn bà gì cũng vậy, cậu xã của tôi biết rõ.
Anh em đờn ca cảm thấy áy náy vì bầu không khí hơi bất hòa. Họ muốn an ủi cái thể diện của cậu xã mà họ không hề thù oán. Sẵn câu nói này, họ đồng hè trả lời:
- Cậu xã hay quá! Ở ngoài hòn Cổ Tron có gì lạ vậy cậu, tụi tôi chưa biết. Ông Năm xay lúa mới ra hòn lúc sau này, chắc cũng chưa biết, Xin cậu nói lại cho tui tôi nghe.
Thích chí, cậu xã Nê thuật lại:
- Năm đó, hồi còn nhỏ mỗi ngày tôi đi học, từ nhà muốn tới trường thì phải quẹo ra sân banh sát mé biển chợ Rạch Giá. Bữa đó, hừng sáng, dân chài lưới la hoảng chạy về baó với ông cò Tây. Tôi tới nơi xem: rõ ràng trên bãi biển có hai người đờn ông, hai người đờn bà nằm dài lim dim con mắt, miệng chúm chím cười. Họ ở truồng đông đổng! Chập sau, thầy đội mã tà ra tới, Thẩy kêu mấy người đó. Họ nhúc nhích rồi nằm yên. có người bàn: “Chắc họ bị chìm ghe ngoài biển khơi trôi tấp vào đây, dọc đường họ cởi quần áo để thân thể nhẹ nhàng, tiện bề bơi lội. Họ ở xa lắm, không chừng ở ngoài hòn Cổ Tron”. Nghe qua họ vẫn chúm chím cười. Tiếng đồn ngày một lẹ, mấy người ở chợ kéo nhau đến nghẹt tới mé biển mà coi cho rõ hư thiệt. Ông cò Tây hoảng sợ, thầy đội mã tà cũng hoảng sợ. Làm sao giải tán được? Làm sao che giấy chuyện ở truồng đó được! Sau rột, ông cò Tây bèn sai lính mã tà qua chợ mua bốn chiếc chiếu đem xuống mé biển, phát cho mỗi người một chiếc, biểu họ quấn chung quanh mình rồi lên bờ. Họ không trả lời. Mấy người mã tà bắt buộc họ đứng chính giữa, rối căng chiếu che bốn bên, dẫn họ về bót. Họ bằng lòng đi. Cái cảnh lạ lùng quá, như công chúa ngày xưa đi tắm có tỳ nữ che rèm bốn bên.
- Hay quá vậy câu xã. Nói tiếp nữa đi.
Cậu xã nói tiếp:
- Ông cò không chịu chứa mấy ông bà ở hòn Cổ Tron này trong bót, e xui xẻo. Ổng ra lịnh giam họ bên nhà việc (nơi làm việc của chính quyền ở làng, xã) làng Vĩnh thanh Vân. Mấy ông hội tề đành giam giữ họ.
- Rồi họ chịu bận quần áo không? Có người hỏi.
- Chịu chớ sao không chịu. Hương chức làng xuất tiền công nho, may cho mỗi người một bộ vải xiêm láng. Họ cười, không nói không rằng, ra về.
Rồi cậu xã kết luận:
- Ðó, mấy người ở hòn Cổ Tron theo tôi thấy rõ ràng thì như vậy đó. Ông Năm xay lúa nghĩ sao?
Ông Nam mỉm cười, trả lời rằng không biết. Chú phó hương quản nói:
- Hồi đó, chắc ông già này có tham dự quá!
Ai nấy cười rộ. Cười để làm thỏa mãn lòng tự ái của cậu xã, hàng chấm dứt câu chuyện cho đúng lúc.
Cậu xã, chú phó hương quản đốt đuốc ra về.
o0o Ông Năm lại tiếp tục xay lúa. Ông nói:
- Tôi không biết cái chuyện ở truồng này! Chẳng qua là thiên hạ hiểu lầm hòn Cổ Tron. Mấy người ở truồng nào đã tự xưng quê quán, danh tánh. Như cậu xã nói, họ im lìm từ hồi đầu mùa kia mà! Cậu xã nói thiệt chớ không nói dóc đậu.
- Vậy thì vụ đó là vụ gì?
- Vụ này tôi nghe nhiều lần phong phanh. Tôi hồ nghi đó là mưu mô của mấy người nào đó ở gần chợ rạch Giá. Vì thiếu quần áo – nên nhớ là năm đó đồ khổ lắm, họ liều thân làm xấu để xin quần áo của nhà nước. Nhà nước sợ họ; họ đã thành công. Dễ gì đi làm mướn một buổi sáng mà sắm được bộ quần áo, hồi năm quần bao áo bố đó!
Ai nấy khen ngợi:
- Ông Năm chắt nghĩa hay quá!
- Tôi nhắm chừng vậy thôi. Nhười trong cuộc họ hiểu rõ sự thật hơn tôi. Họ không nói gì thì làm sao mình biết; sự thiệt nó im lặng, không có lời nói. Bây giờ chắc họ cũng không muốn nói ra, e bị ở tù về tội gạt hương chức làng.
- Vậy mình cũng nên kêu cậu xã trở lại, nói cho cậu nghe. Cắt nghĩa như vậy chắc cậu chịu lắm mà lại còn phục tài người ở hòn Cổ Tron như ông đây.
Ông Năm lẩm bẩm:
- Ðừng kêu trở lại nửa chừng; ban đêm, cậu hồ nghi. Ðể cậu về ngủ. khuya, gió lạnh lắm. Mà chưa chắc cậu chịu nghe. Nhưng không sao. Năm mười năm nữa, chừng tóc bạc hoa râm cậu hiểu một mình, không cần ai cắt nghĩa. Muộn gì!
Sơn Nam.
Chú phó hương quản ngạc nhiên, chưa dám trả lời. Ðây là lần đầu tiên mà chú nghe cậu xã Nê tuyên bố lạ lùng như vậy. Cậu xã là người thanh niên độc nhất ở U Minh làng Ðông thái này thi đậu bằng cấp tiểu học, học trường của nhà nước ở chợ. Nhiều lần, cậu xã giải thích riêng cho chú hiểu: tên Nê của cậu do chữ Tây Rờ-Nê, Rê-Nê gì đó mà ra. Chính cậu xã phổ biến cách chào hỏi mới, bắt tay “bủa xua” với ông đại hương cả. Mỗi kỳ đi hầu ông Ðốc Phủ Xứ chủ quận, cậu xã Nê không mặc áo dài, đội khăn đống như mấy ông hương chức khác. Cậu diện áo bành tô, cổ thắt “cà ra quách”. Lại còn một việc lẫy lừng kì ác, thiên hạ đồn phong phanh chớ chú không chứng kiến tận mắt: năm ngoái, lúc ông Chánh Soái đi tàu tới Cạnh Ðền mang theo sắc thần của Bảo Ðại phong cho Hoàng tử Cảnh, cậu xã Nê bắt tay “bủa xua” với ông Chánh Soái, rồi “bật” tiếng tây rôm rốp khiến quan Ðốc Phủ Sứ, mấy thầy thong thầy ký và tất cả hương chức hội tề các làng trong quận đều khâm phục...
Cậu xã Nê nhắc lại câu hỏi khi nãy:
- Phải không chú phó hương quản, Tây cai trị đem lại lắm điều dở, chú nghĩ coi.
- Ðiều gì vậy cậu. Tôi thiếu hiểu.
- Cờ bạc lộng quá. Dân mình như tự do cờ bạc suốt năm. Ở chợ Ngã Năm, ở chợ Xẽo Rôn nhà “xẹt” đông nghẹt dân nghèo.
Chú phó hương quản suy nghĩ, giải thích:
- Tại cái máu cờ bạc. Dân miệt này toàn là người tứ xứ tới làm ăn. Họ cờ bạc không cần ăn thua, cốt để khuây khỏa nỗi nhớ nhà.
- Không phải đâu! Tại họ ở không, quanh năm chỉ làm một nghề ruộng hoặc một nghề đốn củi. Thiếu tiểu công nghệ...
- Thưa cậu, tiểu công nghệ là cái gì?
- Là thuộc da, dệt chiếu, may quần áo... Làng mình không có thứ tiểu công nghệ nào để cầm chưn họ.
Vùng rừng bùn lầy, khai thác chưa xong, làm sao họ nói đến tiểu công nghệ? Chú phó hương quản mải lục soát trong trí nhớ. Làng gồm bốn ấp, tháng Tết rảnh rang, ai nấy bỏ nhà đi chơi. Ấp Ðông Bình, sát mé biển chuyên về chài lưới; thường thường mấy tay khá giả ở đó đi ghe ra chợ Rạch Giá đánh me, đánh vố. Hết tiền thì họ ngồi nhà mà đờn ca vọng cổ hoặc nói chuyện tiếu lâm. Hồi mùng ba Tết, chú phó hương quản đến đó một lần, họ kéo chú lại bắt ép uống rượu đến say mèm rồi mới chịu thả ra. Vui quá! Lại còn “ông Năm xay lúa” từ ngoài hòn Cổ Trơn vào xay lúa mướn! Thiên hạ bao vây ổng, hỏi han rối rít. Cái ông già này mới cừ khôi, đứng xay từ hừng sáng tới mười giờ đêm mà không nghỉ tay, sắc mặt luôn luôn tươi rói. Bất chấp Tết nhứt, ông ra nghề từ bữa mùng bốn, xay lúa ròng rã tới hôm nay, ai cần thì cứ gọi ông đến cho vui nhà vui cửa.
Chú phó hương quản nói:
- Ở xóm biển có người chuyên môn xay lúa mướn. Ðó là tiểu công nghệ, phải không cậu ba?
Cậu xã Nê gật gù:
- Không phải... nhưng mà có còn hơn không. Ai xay vậy?
- Dạ, ông Năm ở hòn Cổ tron mới vô.
Nghe qua, cậu xã như bị điện giựt, nhảy nhổm, sáng mắt lên:
- Chú nói sao! Hòn Cổ Tron à! Thiệt không?
- Dạ, thiệt chớ.
- Trời đất ơi! Mấy năm rồi tôi muốn biết cho rành cái... tụi người đó. Kỳ cục lắm kia. Tôi thấy tận mắt một lần mà còn nhớ, còn giận hoài. Họ ở truồng.
Chú phó hương quản ngạc nhiên:
- Sao lạ vậy cậu? Ông già này... có bận quần. Hằng năm mùa Tết ổng vô đây xay lúa mướn. Qua tháng mưa, ổng thất nghiệp trở về hòn; ổng đui hết một con mắt, nói chuyện sành sỏi, nghe ngộ lắm.
- Ðây là lần thứ nhì tôi gặp họ... Nếu không ở truồng thì họ cũng mang vô đây vài phong tục lạ lùng. Chú đốt đuốc mau. Mình đi kiếm ổng nói chuyện... Dịp may hiếm có. Còn trắng đêm hai mươi lăm u ám quá; hai thầy trò đốt đuốc soi đường. Mùa hạn, đồng trống hoang cây cỏ héo cằn, con rạch khô cạn. Ði bộ trong làng rạch đã mát chân lại được bảo đảm nạn rắn rít.
Gió biển hiu hiu, hơi lạnh như gió bấc, muỗi bay thưa thớt từng con bên cây đèn tọa đăng, tuy vặn tim lên cao nhưng mãi lu câm vì ống khói không chùi sạch. Ông Năm nắm tay vào giàn xay, đưa tới lui. Thớt cối quay tròn, lúa phun ra kêu rồ rồ, vang đều đều, mãi rồi sanh nhàm tai, buồn ngủ, cơ hồ không có. Kế bên ông Năm, đờn dìm trổi giọng, không na ná tiếng gà mổ vào nia. Ðờn “ghi ta” hòa theo, tuy nhanh nhưng buông rõ rệt từng giọt đồng, kém dồn dập hơn giọng đờn ở bên Tây Ban Nha tuyệt vời. Bãi biển sình lấy của vịnh Xiêm La chứng tỏ đủ năng lực hấp thụ và đồng hóa những gì xa lạ!
Năm ba bạn bè đang nghe bài Tây Thi quốc sự, nhắc gương chiến đấu của nhà chiến sĩ quốc gia Phan Châu Trinh, Mấy chai “ắp xanh”, “con cọp đen” rượu rừng... lần lần cạn. Tuy bận rộn xay lúa nhưng ông Năm vẫn lắng nghe, thưởng thức. Bỗng có kẻ chạy vào như tên quân trong tuồng hát bội cấp báo:
- Thầy xã với phó hương quản tới. Nghe không! Hai chả đốt đuốc... Lặn hụp giữa ruộng nãy giờ. Tôi thấy rõ ràng.
Ai nấy ngưng đờn ca. Ông Năm vẫn xay lúa rồ rồ... Họ vừa nói vừa cười, cãi cọ qua lại một cách thân ái:
- Mấy chả gan mật cùng mình sao kìa! Hồi nào tới giờ họ chưa đặt chân tới xóm mình. Chắc có chuyện gì, mình ăn thua đậm.
- Nói bậy đi. Hễ không tới thì chê nghười ta nhát, kiêu căng. Bây giờ người ta tới thì công kích. Thầy xã này là người có âm đức. Ba của thẩy, chú của thẩy hồi đó hiền lắm.
- Hiền đâu không thấy, chớ tôi hồ nghi mấy “chả” toan xét giấy thuế thân đặng mà dằn mặt tụi mình.
- Tết mà, thẩy đâu dám. Tôi nghi thẩy làm “ăn kết” dân lạ mặt, thí dụ như ông Năm xay lúa. Mình cứ trả lời rằng đã trình diện ổng với ông chủ ấp. Chủ ấp của mình bữa nay đi vắng, dể nói dốc quá, đâu có mặt mà đôi chối. Nè ông Năm! Ngừng tay lại, nghe tôi dặn: Lát nữa, ai có hỏi, ông làm bộ như câm, như điếc. Nói chuyện nhiều, nguy lắm. Ông có “giấy lão” không?
Ông Năm nói:
- Không có giấy tờ gì hết. Tôi tàn tật hư một con mắt mà... Muốn dẫn tôi đi đâu cũng được... Theo lẽ, nhà nước phải nuôi tôi nữa kìa.
- Cha này coi vậy mà gan ta!
Ánh đuốc sáng lòe trước cửa. Ai nấy lặng im. Chú phó hương quản đập đuốc xuống đất để dụi tắt. Cậu xã Nê bước vào, trong khi ông Năm mải xay lúa rồ rồ.
Cậu xã tươi cười, khoát tay như bảo ai nấy cứ ngồi xuống, đừng đứng dậy chào.
- Ðược! Ðược! Phiền bà con quá. Tết năm nay đầy đủ không? Ðờn địch vui quá hả? - Thầy nói.
Một người đáp lại:
- Dạ, nhờ... “bà cậu” nên năm rồi cũng khá, tạm đủ tiền xây xài.
Chú phó hương quản lườm mọi người:
- Bà con ăn nói vô ý tứ quá. Tại sao nhờ... “bà cậu”? phải nhờ người này người kia chớ. Còn ông già kia sao xay lúa hoài vậy? Nghỉ một chút để người ta nói chuyện. Bữa nay cậu xã tới...
Cậu xã ngắt lời:
- Ổng xay để ổng xay. Nếu dân mình ai nấy đều siêng năng như vậy thì quý lắm.
- Dạ đó là ông già Cổ Tron mà tôi nói hồi nãy với thầy.
Cậu xã hơi phật ý vì thái độ quá sốt sắng của người cộng sự:
- Chú phó hương quản để mặc tôi. Tôi không muốn làm rầy ổng.
rồi giọng thầy ôn tồn:
- Ông ở hòn Cổ Tron hả! Làm gì sanh sống ở ngoải?
Ông Năm ngưng tay, trả lời:
- Dạ, tôi đốn câu săn đá để làm cối giã gạo, bán cho bà con trong bờ này.
- In là ông hư một con mắt?
- Dạ bẩm, tôi tàn tật hồi còn nhỏ chớ không phải vì nghề... cầm búa.
Một người nói tiếp như muốn chứng minh sự lương thiện của ông Năm:
- Thưa thầy, ổng giỏi lắm. Nghèo là tại trời... vậy thôi! Cây săn đá ngoài hòn Cổ Tron bền tới thiên niên. Cối bằng săn đá giả gạo mau trắng. nhịp chày vô nghe bon... bon như thiếng chuông đồng. Ở nhà đằng kia, còn một cây cối thứ đó.
Cậu xã gật đầu:
- Ðó là tiểu công nghệ, nghe không chú phó hương quản.
Rồi cậu ngắm nghía ông Năm. Nỗi thắc mắc của cậu vẫn chưa giải tỏa. Không lẽ dân ở hòn Cổ Tron lại siêng năng, khéo léo, hiền hậu tới mức này. Day qua mấy cây đờn, mấy chai rượu, cậu như hối hận:
- Bậy quá! Làm lỡ cuộc vui chơi của bà con anh em. Thôi “làm” một bản vọng cổ nghe coi! Lựa thứ nào văn chương hay một chút.
Vọng cổ mà văn chương hay! Họ rao sơ sơ rồi bắt đầu:
- Ác ngậm non Ðoài, ngọn gió Ðông Nam nó thổi đưa mặt nhựt hồi về nơi Tây Bắc...
Anh ca sĩ ngạc nhiên, tức tồi vì thình lình cậu xã dơ tay lên, ra dấu hiệu chận lại, thiệt không đúng “điệu”! hay là cậu hồ nghi câu hát này ẩn ý chuyện quốc sự, sấm truyền? Hồi lâu, cậu xã mới nói:
- Câu hát khó hiểu quá! Rắc rối và lại vô duyên.
Anh ca sĩ cãi lại:
- Thưa cậu, đó là tả cảnh chiều, gió thổi nhè nhẹ mặt rời sửa soạn lặn... Bài này trích trong cuốn Vọng cổ Bạc Liêu bán tại chợ Rạch Giá.
- Tôi hiểu... Bài ca lăng nhăng quá, trật sách vở khoa học. Tại sao mọc ở Ðông Nam rồi lặn ở Tây Bắc?
Anh ca sĩ nhìn qua ông Năm như cầu cứu. Cậu xã nói cố ý:
- Ông già xay lúa này cắt nghĩa thử coi. Tôi nói câu hát trật văn chương mà!
Ông Năm vừa xay lúa vừa nói chậm rãi:
- Dạ, lệ thường mặt trời mọc hướng Ðông lặn hướng Tây. Nhưng gần sa mưa hay gần Tết thì mặt trời đi xéo. Vì vậy ngày và đêm không đều, “tháng năm chưa nằm thì sáng, tháng mười chưa cười thì tối”. Từ Ðông Nam hồi về Tây Bắc, tức là bài ca vọng cổ muốn nói lúc tháng mười; ngọn gió đó là gió Tết. Mặt trời ít khi đi ngay hướng Ðông Tây, thưa cậu.
Cậu xã Nê hoảng hồn vì dường như ông già xay lúa nọ nói đúng, đúng theo cuốn sách địa lý mà cậu đã học. Nhìn nhận rằng ổng nói đúng thì e mất thể diện mình, cậu đánh trống lảng:
- Ông học điều đó ở đâu vậy? Ai dạy ông?
- Dạ, không ai dạy hết. Tôi nghiệm ở hòn Cổ Tron. Ở ngoải buồn lắm. Tối ngày, tôi coi mặt trời mọc, mặt trời lặn cho khuây khỏa. Ðiều đó, lần lần tôi hiểu được, không rõ hồi nào.
Cậu xã Nê hơi tức giận. Chú phó hương quản nãy giờ ngồi im lại nói:
- Ông biết cái gì ông ơi! Hòn Cổ Tron là nơi quê mùa, còn tệ hơn quê mùa nữa kìa! Dân hòn Cổ Tron chuyên môn ở truồng, đàn ông đàn bà gì cũng vậy, cậu xã của tôi biết rõ.
Anh em đờn ca cảm thấy áy náy vì bầu không khí hơi bất hòa. Họ muốn an ủi cái thể diện của cậu xã mà họ không hề thù oán. Sẵn câu nói này, họ đồng hè trả lời:
- Cậu xã hay quá! Ở ngoài hòn Cổ Tron có gì lạ vậy cậu, tụi tôi chưa biết. Ông Năm xay lúa mới ra hòn lúc sau này, chắc cũng chưa biết, Xin cậu nói lại cho tui tôi nghe.
Thích chí, cậu xã Nê thuật lại:
- Năm đó, hồi còn nhỏ mỗi ngày tôi đi học, từ nhà muốn tới trường thì phải quẹo ra sân banh sát mé biển chợ Rạch Giá. Bữa đó, hừng sáng, dân chài lưới la hoảng chạy về baó với ông cò Tây. Tôi tới nơi xem: rõ ràng trên bãi biển có hai người đờn ông, hai người đờn bà nằm dài lim dim con mắt, miệng chúm chím cười. Họ ở truồng đông đổng! Chập sau, thầy đội mã tà ra tới, Thẩy kêu mấy người đó. Họ nhúc nhích rồi nằm yên. có người bàn: “Chắc họ bị chìm ghe ngoài biển khơi trôi tấp vào đây, dọc đường họ cởi quần áo để thân thể nhẹ nhàng, tiện bề bơi lội. Họ ở xa lắm, không chừng ở ngoài hòn Cổ Tron”. Nghe qua họ vẫn chúm chím cười. Tiếng đồn ngày một lẹ, mấy người ở chợ kéo nhau đến nghẹt tới mé biển mà coi cho rõ hư thiệt. Ông cò Tây hoảng sợ, thầy đội mã tà cũng hoảng sợ. Làm sao giải tán được? Làm sao che giấy chuyện ở truồng đó được! Sau rột, ông cò Tây bèn sai lính mã tà qua chợ mua bốn chiếc chiếu đem xuống mé biển, phát cho mỗi người một chiếc, biểu họ quấn chung quanh mình rồi lên bờ. Họ không trả lời. Mấy người mã tà bắt buộc họ đứng chính giữa, rối căng chiếu che bốn bên, dẫn họ về bót. Họ bằng lòng đi. Cái cảnh lạ lùng quá, như công chúa ngày xưa đi tắm có tỳ nữ che rèm bốn bên.
- Hay quá vậy câu xã. Nói tiếp nữa đi.
Cậu xã nói tiếp:
- Ông cò không chịu chứa mấy ông bà ở hòn Cổ Tron này trong bót, e xui xẻo. Ổng ra lịnh giam họ bên nhà việc (nơi làm việc của chính quyền ở làng, xã) làng Vĩnh thanh Vân. Mấy ông hội tề đành giam giữ họ.
- Rồi họ chịu bận quần áo không? Có người hỏi.
- Chịu chớ sao không chịu. Hương chức làng xuất tiền công nho, may cho mỗi người một bộ vải xiêm láng. Họ cười, không nói không rằng, ra về.
Rồi cậu xã kết luận:
- Ðó, mấy người ở hòn Cổ Tron theo tôi thấy rõ ràng thì như vậy đó. Ông Năm xay lúa nghĩ sao?
Ông Nam mỉm cười, trả lời rằng không biết. Chú phó hương quản nói:
- Hồi đó, chắc ông già này có tham dự quá!
Ai nấy cười rộ. Cười để làm thỏa mãn lòng tự ái của cậu xã, hàng chấm dứt câu chuyện cho đúng lúc.
Cậu xã, chú phó hương quản đốt đuốc ra về.
o0o Ông Năm lại tiếp tục xay lúa. Ông nói:
- Tôi không biết cái chuyện ở truồng này! Chẳng qua là thiên hạ hiểu lầm hòn Cổ Tron. Mấy người ở truồng nào đã tự xưng quê quán, danh tánh. Như cậu xã nói, họ im lìm từ hồi đầu mùa kia mà! Cậu xã nói thiệt chớ không nói dóc đậu.
- Vậy thì vụ đó là vụ gì?
- Vụ này tôi nghe nhiều lần phong phanh. Tôi hồ nghi đó là mưu mô của mấy người nào đó ở gần chợ rạch Giá. Vì thiếu quần áo – nên nhớ là năm đó đồ khổ lắm, họ liều thân làm xấu để xin quần áo của nhà nước. Nhà nước sợ họ; họ đã thành công. Dễ gì đi làm mướn một buổi sáng mà sắm được bộ quần áo, hồi năm quần bao áo bố đó!
Ai nấy khen ngợi:
- Ông Năm chắt nghĩa hay quá!
- Tôi nhắm chừng vậy thôi. Nhười trong cuộc họ hiểu rõ sự thật hơn tôi. Họ không nói gì thì làm sao mình biết; sự thiệt nó im lặng, không có lời nói. Bây giờ chắc họ cũng không muốn nói ra, e bị ở tù về tội gạt hương chức làng.
- Vậy mình cũng nên kêu cậu xã trở lại, nói cho cậu nghe. Cắt nghĩa như vậy chắc cậu chịu lắm mà lại còn phục tài người ở hòn Cổ Tron như ông đây.
Ông Năm lẩm bẩm:
- Ðừng kêu trở lại nửa chừng; ban đêm, cậu hồ nghi. Ðể cậu về ngủ. khuya, gió lạnh lắm. Mà chưa chắc cậu chịu nghe. Nhưng không sao. Năm mười năm nữa, chừng tóc bạc hoa râm cậu hiểu một mình, không cần ai cắt nghĩa. Muộn gì!
Sơn Nam.
Những chuyện ngụ ngôn hay
Kiến và chim bồ câu
Kiến tìm xuống suối: nó khát nước. Sóng nước trào lên cuốn kiến đi và suýt nữa dìm chết nó. Bồ câu đang tha cành cây, chim nhìn thấy kiến chết đuối đến nơi, bèn thả cành cây xuống suối cho kiến. Kiến bò lên được cành cây và thoát chết. Về sau người thợ săn chăng lưới bắt bồ câu mái và sắp chụp tới. Kiến bò đến chổ người thợ săn, đốt vào chân bác ta. Người thợ săn giật mình đánh rơi lưới. Bồ câu cất cánh và bay thoát.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Bàn Tay Của MoKuSen
Mokusen Hiki đang sống trong một ngôi đền ở tỉnh Tamba . Một trong những đệ tử của Mokusen phàn nàn về tính hà tiện của vợ anh ta .
Mokusen viếng vợ của người đệ tử và đưa ra trước mặt nàng cú nắm tay nắm chặt của ông .
Người đàn bà ngạc nhiên hỏi :
_ “ Ngài muốn nói gì thế ?” .
Mokusen hỏi :
_ “ Ngài muốn nói gì thế ?” .
Mokusen hỏi :
_ “ Giả sử cú tay ta luôn luôn thế này . Ngươi sẽ gọi nó là cái gì ?“
Người đàn bà đáp :
_ “ Dị dạng “ .
Rồi Mokusen xòe thẳng bàn tay ra úp sát vào mặt nàng , hỏi :
_ “ Giả như nó luôn luôn thế này . Là gì ? “.
Người đàn bà đáp :
_ “ Một thứ dị dạng khác “ .
Mokusen kết thúc :
_ “ Nếu ngươi hiểu nhiều , ngươi là một người vợ hiền “.
Rồi Mokusen bỏ đi .
Sau cuộc viếng của Mokusen , người vợ giúp chồng nàng trong việc chi tiêu cũng như việc để dành .
Người đàn bà đáp :
_ “ Dị dạng “ .
Rồi Mokusen xòe thẳng bàn tay ra úp sát vào mặt nàng , hỏi :
_ “ Giả như nó luôn luôn thế này . Là gì ? “.
Người đàn bà đáp :
_ “ Một thứ dị dạng khác “ .
Mokusen kết thúc :
_ “ Nếu ngươi hiểu nhiều , ngươi là một người vợ hiền “.
Rồi Mokusen bỏ đi .
Sau cuộc viếng của Mokusen , người vợ giúp chồng nàng trong việc chi tiêu cũng như việc để dành .
Điển Hay Tích Lạ - Nghiêng nước nghiêng thành
Nghiêng nước nghiêng thành
Đời Vũ Đế nhà Hán (140-86 trước D.L.), có một người phường chèo tên Lý Diên Niên múa hát rất giỏi. Được hầu trong nội điện, cung vi của nhà vua, Lý Diên Niên được nghe vua thường than thở:
- Trẫm lập đền Minh Quang, kén hai ngàn mỹ nhân ở vùng Yên Triệu. Nhỏ nhất 15 tuổi, quá 30 tuổi sa thải cho lấy chồng. Thế mà, trong chốn dịch đình có trên 10 ngàn mỹ nhân vẫn chưa thấy ai đẹp cho vừa lòng trẫm. Thật là thiên hạ thiếu giai nhân tuyệt sắc.
Lý Diên Niên có một em gái sắc đẹp tuyệt trần, thường ra vào hầu hạ Bình Dương công chúa. Một hôm, nhân dịp múa hát chầu Vũ Đế, Lý Diên Niên hát:
Phương bắc có giai nhân
Tuyệt vời đứng riêng bực,
Một liếc, người nghiêng thành.
Hai liếc, người nghiêng nước.
Lẽ nào không biết được
Người đẹp thành nước nghiêng,
Người đẹp khó tìm gặp.
Nguyên văn:
Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành;
Tái cố khuynh nhân quốc
Khởi bất tri
Khuynh thành dữ khuynh quốc
Giai nhân nan tái đắc.
Nghe hát, Hán Vũ Đế thở dài, than:
- Thế gian lại có người đẹp đến thế chăng?
Bình Dương công chúa nhân đứng hầu bên cạnh nhà vua liền tâu:
- Diên Niên có người em gái đẹp tuyệt trần, còn hơn người trong bài hát ấy nữa.
Nhà vua truyền đòi người đẹp vào cung, xem mặt. Quả là một bực giai nhân tuyệt sắc, lại giỏi nghề múa hát, làm cho nhà vua càng mê mẩn tâm thần, liền phong làm phu nhân. Từ ấy, nhà vua chỉ say sưa đắm đuối bên mình nàng, không còn tha thiết đến một ai nữa. Năm sau, nàng hạ sinh được một con trai.
Một hôm, nàng lâm bịnh nặng, Hán Đế đến tận giường bịnh thăm hỏi. Nàng kéo chăn che kín mặt, tâu:
- Thiếp đau từ lâu, hình dung tiều tụy, không dám đem cái nhan sắc ủ dột tàn phai ra mắt đấng quân vương. Thiếp chỉ xin gởi lại nhà vua một đứa con bé nhỏ và mấy người anh em của thiếp.
Hán Đế ngậm ngùi bảo:
- Phu nhân bịnh nặng không thể qua khỏi được thì hãy giở chăn cho ta nhìn mặt, há chẳng làm cho ta được thỏa lòng sao?
Nàng vẫn che kín mặt, từ tạ:
- Theo lẽ quân thần, phu phụ, đàn bà mặt không sạch, không được ra mắt quân phụ. Vậy thiếp xin nhà vua tha thứ cho.
Nhà vua cố nài nỉ. Nàng vẫn thở dài úp mặt vào trong, không nói năng gì, vẫn giữ chặt lấy chăn.
Vũ Đế tức quá, đứng phắt dậy ra về.
Nhiều người sợ nhà vua giận, nên có ý trách nàng. Nàng trả lời:
- Đàn bà là kẻ chỉ hay lấy nhan sắc thờ chồng. Nhan sắc kém, tình duyên sẽ phai nhạt, và tình yêu sẽ kém. Nhà vua quyến luyến ta chỉ vì nhan sắc xinh đẹp lúc mạnh. Nay ta đau, nhan sắc suy kém, so với thiên hạ ta là kẻ xấu xa. Nhìn mặt ta, nhà vua sẽ chán thì khi nào còn tưởng nhớ đến ta mà ban ân huệ cho anh em ta nữa.
Sau đó nàng chết. Vua Vũ Đế chôn cất nàng rất hậu, lại truyền họa sĩ vẽ hình nàng treo ở cung Cam Tuyền, phong cho anh em nàng quan tước cao.
Ngày tháng qua nhưng hình bóng người đẹp vẫn lởn vởn trước mắt, và mối tình thương nhớ vẫn canh cánh bên lòng... mà nhà vua không tìm thấy thú vui, người đẹp nào bằng người đã khuất.
Đời nhà Đường (618-907), vua Đường Minh Hoàng dắt Dương Quí Phi thưởng hoa mẫu đơn ở đình Cẩm Hương, sai người vời Lý Bạch đến bắt dâng ngay ba bài "Thanh Bình điệu". Lý còn say rượu nhưng cầm bút viết luôn ba bài. Bài thứ ba có câu:
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Thường đắc quân vương đới tiếu khan.
Nghĩa:
Danh hoa nghiêng nước sánh đôi vui,
Để xứng quân vương một nụ cười.
Chữ "khuynh quốc" để chỉ cái đẹp tuyệt với của Dương Quí Phi.
Trong "Đoạn trường tân thanh", thi hào Nguyễn Du tả sắc đẹp nàng Kiều cũng có câu:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
"Nghiêng nước, nghiêng thành" xuất sứ ở bài hát của Lý Diên Niên.
Chuyện cười trong ngày
Mưu Trí
Hai anh chuyện ngẫu với nhau, một anh thách:
- Tôi đố anh, tôi đang ngồi trong nhà thế này làm cách gì mà anh khiến tôi ra được ngoài sân.
Anh kia ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi nói:
- Thế thì chịu, nhưng nếu anh ở ngoài sân thì tôi có cách dụ anh vào trong nhà được.
Anh nọ nói:
- Thật chứ?
- Thật.
Anh ta nghe nói vậy chạy ra ngoài sân, anh kia vỗ tay reo lên:
- Thế đó, tôi đã làm cho anh phải đi ra ngoài sân rồi đấy nhé.
Hai anh chuyện ngẫu với nhau, một anh thách:
- Tôi đố anh, tôi đang ngồi trong nhà thế này làm cách gì mà anh khiến tôi ra được ngoài sân.
Anh kia ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi nói:
- Thế thì chịu, nhưng nếu anh ở ngoài sân thì tôi có cách dụ anh vào trong nhà được.
Anh nọ nói:
- Thật chứ?
- Thật.
Anh ta nghe nói vậy chạy ra ngoài sân, anh kia vỗ tay reo lên:
- Thế đó, tôi đã làm cho anh phải đi ra ngoài sân rồi đấy nhé.
Tuesday, July 26, 2016
Chuyện ngắn - Chuyện những lối mòn
CHUYỆN NHỮNG LỐI MÒN
Tôi có thói quen thường ghi lại những ý tưởng hay, những sự kiện và những danh ngôn mà mình thích để rồi chiêm nghiệm như xem bản đồ trên chặng đường đời quanh co khúc khuỷu.
***
Một trong những "bửu bối" ấy là câu chuyện về một trận cờ vua.
Cách đây nhiều năm, trong giải cờ vua thế giới, đấu thủ tên là Frank Marshall gặp một cao thủ người Nga. Trong ván quyết định, Marshall thấy quân hậu của mình đang lâm nguy. Có vài nước để hậu tẩu thoát, và vì quân hậu có vai trò cực kỳ quan trọng nên khán giả đoán rằng Marshall sẽ "sơ tán" hậu.
Trong thâm tâm, Marshall đã tận dụng mọi thời gian có thể có để quan sát cán cân lực lượng. Anh nhấc quân hậu lên, ngập ngừng, rồi đặt nó xuống một vị trí cực kỳ... vô lý, một vị trí mà nó có thể dễ dàng bị xơi tái bởi một trong ba quân đen. Marshall đã hy sinh quân hậu trong một nước bất ngờ, ở tình huống tuyệt vọng. Khán giả và đối thủ Marshall ngỡ ngàng.
Thế rồi mọi người nhận ra rằng Marshall đã đi một nước cờ "tuyệt chiêu". Bây giờ, dù cho quân hậu có bị mất hay không, đối thủ của Marshall đã rơi vào thế bất lợi. Cuối cùng, thấy không thể lật ngược thế cờ, đấu thủ này đã xin hàng.
Đối với tôi, vấn đề không phải ở chỗ là Marshall đã thắng, cũng không phải là anh đã có một nước đi thần kỳ, mà điều quan trọng là anh đã dám vượt qua khỏi đường mòn của lối chơi chính thống.
Cách đây năm năm, khi còn là giáo viên môn nghệ thuật, tôi đã sử dụng Tinkertoys (một thứ đồ chơi lắp ráp) để trắc nghiệm khả năng sáng tạo của sinh viên.
Một hôm, tôi đưa cho mỗi sinh viên một hộp Tinkertoys với lời hướng dẫn sơ sài: "Bạn hãy ghép một vật gì đó trong 45 phút mỗi ngày". Một vài sinh viên tỏ ra thụ động, họ chờ xem những người khác sẽ làm như thế nào, số khác lại làm theo những mẫu đã hướng dẫn sẵn, nhóm còn lại làm theo ý của chính họ.
Thường thì có ít nhất một sinh viên chẳng làm theo ai cả và anh ta vơ những vật rải rác quanh mình để ghép luôn vào hình ghép: bút chì, dải băng, kẹp giấy vở...
Thực tình, tôi rất khoái những sinh viên này, đây là những người hứa hẹn có nhiều sáng tạo trong công việc, anh ta sẽ là người trợ giảng không tuyên bố của tôi vì chính anh ta là người có khả năng gây hứng khởi sáng tạo cho những sinh viên khác.
Khi tôi hỏi về sự sáng tạo các sinh viên này đã trả lời tỉnh queo: "Ơ! Em có sáng tạo gì đâu ạ!". Hình như đó là lối suy nghĩ bẩm sinh của họ.
Vào một ngày hè oi bức, tại một bến cảng ở bờ biển Hy Lạp, tôi chui dưới chái một lều bạt để tránh cái nắng cháy da và luôn tiện kiếm thứ gì đó uống cho đỡ khát. Đám đông, trong đó có cả khách du lịch, cùng nhau làm cho bầu không khí như đặc quánh lại, sự bực bội như chực nổ tưng.
Ngồi cạnh tôi là hai cô cậu trông khá xứng đôi. Cả hai ăn mặc đúng thời trang mùa hè, đồ lanh và sandal da. Trong khi chờ đợi thức uống, họ rủ rỉ vào tai nhau, cười khúc khích, cứ y như là đôi chim cu. Bỗng nhiên họ đứng dậy, bê luôn cái bàn nhảy qua kè cảng rồi đặt xuống chỗ nước cạn của bến cảng.
Cậu con trai lội lên bờ xách thêm hai cái ghế. Họ ngồi xuống, ngâm mình trong nước trước sự vỗ tay tán thưởng, tiếng cười và lời chúc mừng của những người chứng kiến. Anh bồi với bộ mặt cáu kỉnh xuất hiện, nhướng mày ngạc nhiên giây lát rồi như chợt hiểu ra, anh ta vơ lấy chiếc khăn trải bàn, bộ đồ ăn rồi lội đến chỗ đôi nọ. Mấy phút sau, anh ta mang đến một cái khay, một xô đựng mấy chai champagne ướp lạnh và hai cái ly.
Họ nâng cốc chúc mừng nhau, đám đông nhiệt liệt tán thưởng, ném tặng họ những bông hoa. Thêm ba chiếc bàn nữa được đặt thêm cạnh đó đã thực sự hâm nóng bầu không khí lên như một ngày hội.
Tại sao chúng ta lại cứ cắm cúi đi theo lối mòn nhỉ?
Những chuyện ngụ ngôn hay
Đồng cỏ tuyệt vời
Có một anh chàng chỉ quen sống ở đồng cỏ. Một hôm có người bạn đến mời anh ta du ngoạn. Hai người phi ngựa đến bên hồ nước rộng lớn. Anh ta nhìn thấy thảm xanh mênh mông trên mặt hồ, mừng rỡ nói với bạn: "Ôi, một vùng đồng cỏ chưa hề có dấu chân ai, ta phải phi ngựa đi hết thảm xanh này để rồi về đuổi ngựa đến nuôi. Một vùng đồng cỏ thật tuyệt vời!".
Anh bạn liền cười ngăn lại:
- Đây là hồ, trên thảm xanh dưới nước sâu, chứ đâu phải là đồng cỏ. Nghe vậy anh ta nhìn xuống chân mình thì thấy nước trong xanh, in bóng ngựa của hai người. Lúc đó anh ta mới nhận ra là hồ nước.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Câu truyện Về Nàng Shunkai
Shunkai còn có tên khác là Suzu, một giai nhân sắc nước hương trời. Lúc còn trẻ nàng đã bị ép hôn; không bao lâu sau cuộc hôn nhân đổ vở, nàng theo học triết ở một trường đại học.
Ai nhìn thấy Shunkai cũng đều thầm yêu trộm nhớ. Ðã thế, nàng đến đâu cũng gây được cảm tình. Khi không hài lòng với triết học, nàng đến một thiền viện để học thiền, và rồi các thiền sinh lại mê nàng như điếu đổ . Số của Shunkai thật là đào hoa.
Sau rốt nàng thực sự trở thành một thiền sinh ở Kyoto. Các sư huynh ở thiền viện Kennin đều ca tụng lòng thành của nàng, và một vị trong số đó kết thân và giúp nàng thấu triệt được thiền.
Viện trưởng của thiền viện là Mokurai, Tịnh Sấm, rất là khắc khe. Ngài tự giử giới rất nghiêm và đòi hỏi mọi thiền sinh cũng phải như thế. Nhưng than ôi, trong nước Nhật hiện đại, tăng sinh lại lấy vợ. Mokurai thường phải dùng chổi để xua đuổi phụ nữ ra khỏi các thiền viện của ngài, khi thấy có bóng hồng thấp thoáng.
Nhưng khổ thay, đuổi ra bao nhiêu lại vào càng nhiều hơn. Bà vợ của ông trưởng tràng lại bắt đầu ghen tương với Shunkai. Bà càng điên tiết hơn khi nghe các thiền sinh ca ngợi sự liu ngộ thiền của nàng. Sau rốt bà đi phao tin về sự liên hệ giửa Shunkai và người bạn thiền huynh; vì vậy mà hai người bị đuổi ra khỏi thiền viện.
"Ta có thể chịu một phần lỗi," Shunkai thầm nghĩ, "nhưng bà vợ của ông trưởng tràng cũng không thể ở lại thiền viện khi bạn của ta bị đối xử bất công như vậy."
Ðêm ấy Shunkai phóng hỏa đốt rụi thiền viện có từ 500 năm. Hôm sau nàng bị nhà chức trách bắt giử.
Một luật sư trẻ chú ý đến nàng và muốn giúp làm cho bản án nhẹ hơn. "Ông không nên giúp tôi," nàng nói. "Bởi vì tôi sẽ gây nên tội khác để lại bị cầm tù."
Sau bảy năm bị giam giử, và ngay cả ông cai ngục 60 tuổi cũng mê mệt vì nàng, cuối cùng Shunkai được thả.
Nhưng từ đó, chẳng ai muốn gần gủi giúp đở nàng. Ngay cả các thiền sinh, những kẽ vốn tin vào giác ngộ giải thoát trong đời này với thân xác này, cũng xa lánh nàng.
Shunkai khám phá ra rằng Thiền là một việc mà kẽ theo thiền lại là một việc khác hẳn. Nàng mắc bệnh và kiệt lực.
Nàng gặp một tăng sĩ phái Shinsu, và được dạy niệm danh hiệu Ðức Quán Thế- Âm. Nhờ vậy tâm hồn Shunkai được an ủi. Nàng chết khi còn tuyệt đẹp ở tuổi vừa ba mươi.
Khi còn đói rách, nàng đã viết lại câu chuyện về đời nàng để kiếm sống. Câu chuyện được lan truyền ở Nhật; rồi những kẻ đã từng xa lánh nàng, đã từng ganh ghét và thóa mạ nàng nay lại đọc chuyện đời nàng trong nước mắt ràng rụa vì hối hận.
Sự tích nhân gian - Vài nét về văn hóa Chàm
Vài nét về văn hóa Chàm
Nguồn: www.maxreading.com
Đi từ Đà Nẵng đến Phan Thiết, không thể không quan tâm đến rất nhiều di tích của một quốc gia và một nền vãn hóa xưa kia đã tồn tại ở vùng này: quốc gia Champa (Chiêm Thành) và văn hóa Chàm (cũng đọc là Chăm). Người Chàm sinh sống ở đây từ trước công nguyên, thuộc tộc Mã Lai - Đa Đảo (Malayô - Pôlynêdi) và thiết lập ở vùng ven biển Nam Trung Bộ những cộng đồng bộ lạc có nền văn minh khá rực rỡ (văn hóa Sa Huỳnh như các nhà khảo cổ gọi). Trên địa bàn này có hai bộ lạc Chàm: bộ lạc cư trú trên vùng đất Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận và bộ lạc Dừa cư trú trên vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Từ thế kỷ X, hai bộ lạc này thống nhất thành một quốc gia: Vương Quốc Champa. Vùng đất Quảng Nam được coi là trung tâm của vương quốc ấy, ở đây có những kinh đô của: Đồng Dương, Trà Kiệu (kinh đô hành chính) và Sơn Mỹ (kinh đô tôn giáo). Quảng Nam là nơi có nhiều vết tích của quốc gia Champa. Thời nhà Hán chiếm Giao Chỉ, người Việt và người Chàm đã có những lúc liên kết với nhau chống lại sự xâm lược. Người Chàm tranh đoạt được độc lập trước rồi đến thế kỷ X, hai quốc gia Đại Việt và Champa trong mấy trăm năm khi thì hòa hiếu khi thì xung đột nhau, trong nhiều thế kỷ liền và cuối cùng Champa bị Đại Việt chinh phục.
Quảng Nam xưa là đất của Chiêm Thành cổ, lại là nơi trung tâm của quốc gia này. Còn giữ lại những di tích lớn của nền văn minh Chàm: Trà Kiệu, Mỹ Sơn và Đồng Dương. Nhưng trước khi lên đường đi thực địa hãy ghé thăm Viện bảo tàng nghệ thuật Chàm ngay trong thành phố Đà Nẵng để có thêm những ý niệm về nghệ thuật Chàm, và cũng để thưởng thức những hiện vật không thể tìm thấy được ở đâu khác.
Viện bảo tàng độc đáo này thành lập năm 1936 (xây dựng từ 1915) những hiện vật trưng bày ở đây tìm thấy từ cuối thế kỷ XIX trên các vùng đất cổ của Chiêm Thành (từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế đến vùng cực nam Trung Bộ), nhưng chủ yếu là thu thập từ Trà Kiệu, Mỹ Sơn và Đồng Dương, ba kinh đô của Chiêm Thành. Tất cả có khoảng ba trăm hiện vật đều là bản gốc, làm bằng chất liệu sa thạch và đất nung thuộc ba giai đoạn lớn:
-Thế kỷ VII - VIII
-Thế kỷ IX - XII
-Thế kỷ XIII - XIV
Hiện được bố trí thành bốn phòng:
-Phòng Mỹ Sơn
- Phòng Trà Kiệu
- Phòng Đồng Dương
- Phòng Tháp Mẫm
Và hai hành lang:
- Hành lang Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Công Tum.
- Hành lang Quảng Bình - Bình Định
Nghĩa là phân chia theo các vùng mà hiện vật được tìm thấy ở đó. Nhìn chung các hiện vật gồm hai loại: Những bàn thờ và những tượng thần, những đồ dùng trang trí (trụ cửa, sư tử, voi, chim, thủy quái). Mỗi phòng trưng bày có nhiều công trình nghệ thuật, tất cả đều hết sức phong phú, và để có thể tìm hiểu chu đáo, bạn không thể mất một vài ngày. Chỉ cần một bàn thờ ở phòng Mỹ Sơn chẳng hạn, bản thân nó là một tổ hợp nghệ thuật đa dạng: đế bàn thờ hình vuông, có những hình chạm nổi chạy quanh chân đế với những cảnh tu hành, cảnh sinh hoạt dân gian, cảnh vũ trụ, lên phía trên một ít lại là hình những chim thần Garuđa và những vũ nữ thần tiên. Trên đỉnh là tượng thần Scanđa cầm lưỡĩ tầm sét đứng trên một con sông, sau lưng là một cái giá gắn vào đuôi công cong lên, tỏa ra... Chỉ một pho tượng vũ nữ đủ khiến người xem xúc động mạnh, không thể hình dung nổi tại sao từ những tảng đá vô tri lại có thể tạo nên những đường nét uyển chuyển, sống động dường như trước mặt mình không phải là những tượng đá mà là những con người thật. Chỉ một trụ Lynga ở hành lang Quảng Bình và một tượng Apsara, người xem không chỉ khâm phục trước một thứ nghệ thuật trừu tượng, mà còn kinh ngạc trước một vòng vú căng đầy thể hiện sức sống dạt dào của con người. Với những hiểu biết thu nhập được ở bảo tàng Chăm, chúng ta về thăm Mỹ Sơn - kinh đô tôn giáo xưa của Champa. Ông Cadic, chuyên viên Ba Lan đã giúp ta khôi phục lại di tích lịch sử này thường bảo: Theo tôi Mỹ Sơn không kém gì Ăng-Co, tôi không nói về qui mô, chỉ nói về ý nghĩa lịch sử và nghệ thuật.
***
Từ Đà Nẵng đi Mỹ Sơn, xe theo đường số 1, qua cầu trên sông Thu Bồn khá đẹp rẽ về hường tây, theo một đường bộ khác dẫn tới Trà Kiệu - một kinh đô Chiêm Thành cổ, rồi lại tiếp đến Mỹ Sơn. Có thì giờ cũng nên dừng lại ở Trà Kiệu, ở đây vẫn còn một số di tích xưa: một gò cao, mấy đoạn thành và một bộ sưu tập những di vật cổ, nhất là những đồ dùng sinh hoạt của người Chàm (chốn kinh đô cũ) hiện chỉ thấy bày ở nhà thờ Trà Kiệu. Trên gò cao này là một nhà thờ Đức Bà xây theo kiểu hiện đại, đứng ở đó nhìn quanh bốn phía toàn cảnh Quảng Nam - Đà Nẵng hiện ra với tất cả vẻ diễm lệ của nó. Trà Kiệu cũng là một cơ sở Kitô giáo vào hạng xưa nhất nước ta.
Đi khỏi Trà Kiệu chừng 10 km là đến Mỹ Sơn nhưng chưa phải đến ngay, từ nơi xe dừng lại ở một trạm bên đường đi vào tận Mỹ Sơn, phải đi bộ qua một lối mòn giữa những truông cây lúp xúp, quanh co lên lên xuống xuống, mất 5 km nữa và khi đã băng qua một con suối nhỏ, những cái tháp Mỹ Sơn hiện ra từ những cây cối rậm rạp thật đột ngột. Ngước nhìn lên dãy núi cao trước mặt là núi Răng Mèo - dễ ngỡ mình lạc vào một chốn thiên nhiên kì lạ. Những mạch đá đen tuyền như những khối tạo hình tuyệt đẹp, gắn lên nền xanh cây cối, toát lên vẻ huyền bí đầy chất tôn giáo. Phát hiện ra một nơi như thế này rồi xây kinh đô tôn giáo đồ sộ, tráng lệ quả là một kì công.
Trước mắt du khách là đền Mỹ Sơn đang được phục hồi sửa sang lại sau bao nhiêu tàn phá của bom đạn. Đây vốn là một tổng thể kiến trúc thật đồ sộ với đường kính khoảng 2 km, một con suối sâu cắt ngang thành hai khu riêng biệt. Tất cả trước kia có tới 68 công trình, xây trong các thế kỉ IV - XII. Khi người Pháp phát hiện ra khu này, chỉ còn 25 tháp và hiện nay con số còn lại càng ít hơn nữa. Những hố bom lớn đã thay thế cho những công trình kiến trúc cổ. Nhiều ngôi tháp đã thành nhưng đống gạch vụn. Cả khu đền ở trên nền đất cao hầu như bị phá trụi mà đó lại là nơi trước kia có những đền, tháp lớn nhất, đặc sắc nhất. Chỉ còn lại một ít đền tháp ở khu nền thấp nhưng chẳng có cái nào nguyên vẹn. Nhưng dù chỉ còn có thế ta cũng đủ chiêm ngưỡng tài năng nghệ thuật của người Chàm xưa.
Mỹ Sơn là nơi thiêng liêng nhất của quốc gia Champa, tất cả các vua đều đến làm lễ thờ cúng khi có những việc trọng đại nhất. Đây cũng là nơi sau mỗi trận chiến thắng, nhà vua mang lễ vật quý dâng hiến và trong suốt 7 thế kỉ liền tất cả các vua (trừ các nhà vua thời Đồng Dương), đều kế tiếp nhau xây dựng, trùng tu những đền, tháp nơi đây. Đền, tháp Mỹ Sơn không lớn lắm, nhưng về mặt nghệ thuật thì quả là đạt tới một trình độ cao, có thể sánh với bất cứ công trình kiến trúc cổ nổi tiếng nào trên thế giới. Không còn phân biệt được đâu là kiến trúc, đâu là điêu khắc, cả hai thứ nghệ thuật này quyện với nhau thành một. Màu đất nung của các đền tháp giữ một sức bền gần như vĩnh cửu đến kì lạ. Cho đến nay, kĩ thuật xây đền tháp của người Chàm (các lớp gạch không thấy những lớp vữa gắn, mà vẫn cố kết rất vững chắc, hàng thế kỉ liền không bị hủy hoại bởi khí hậu và thời gian) vẫn là một đề tài tranh luận chưa kết thúc.
Ở vùng đất này, người Chàm không còn, nhưng những công trình họ để lại khiến ta tưởng chừng như họ vẫn còn sống cạnh đâu đây. Văn hóa Chàm làm cho dân tộc Chàm trở thành bất tử.
Nhưng việc khôi phục lại khu di tích đồ sộ này thật không đơn giản. Năm 1978, sau giải phóng không bao lâu đã bắt đầu khai hoang và gỡ mìn ở khu này. Trong công việc thuần túy văn hóa ấy máu đã đổ: 6 chiến sĩ địa phương đã hi sinh và 11 người khác bị thương. Năm 1980, theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, Ba Lan đã gửi những chuyên gia giỏi sang cùng với những chuyên viên kĩ thuật của ta tiến hành khảo sát, đo đạc, sửa sang và bắt đầu phục hồi khu di tích này. Ba năm sau, một vài nhóm tháp ở đây đã được gia cố và bảo đảm đúng với kĩ thuật và nghệ thuật phục hồi di tích lịch sử. Những người Ba Lan đã ăn ở và làm việc tại hiện trường hàng năm trời, và ở đây không ai không nhắc đến Cadich, tên gọi trìu mến của kiến trúc sư Ba Lan Kazimir Kwiatkowski người yêu Mỹ Sơn đến say mê.
***
Từ Bình Định trở vào là vùng đất của quốc gia Champa ngày trước còn gọi là Panduranga, kinh đô nước này đặt ở Panrăn (trên đất Phan Rang), còn nơi thờ cúng quan trọng nhất là ở Kauthara (Nha Trang). Biên cương của nước Đại Việt càng lấn dần về phía Nam thì nước Champa bỏ đất Quảng Nam lấy Chà Bàn làm trung tâm.
Ngày nay, Chà Bàn (còn gọi là Phật Thệ) vẫn còn di tích: những tháp vàng, tháp đồng, tháp đôi... nằm giữa một thành lũy khá rộng (1.100m dài 1.400m). Tháp đồng hình vuông góc đá màu trắng, có hai tượng voi và các tượng quái vật. Thành xây bằng đá ong, có hào, đường đi lát đá hoa cương. Di tích Chà Bàn cách Quy Nhơn 26km, khách du lịch thường đến thăm.
Một di tích rất quen thuộc của văn hóa Chiêm Thành cổ là Tháp Bà ở Nha Trang. Tháp được dựng trên ngọn đồi cao phía bắc sông Cái, đứng trên đỉnh đồi này toàn cảnh Nha Trang hiện lên. Và không chỉ thành phố. Cả những dãy núi mờ lam ở trời Tây, cả con sông xanh lượn giữa một vùng đồi và vùng vườn xanh ngắt, cả mặt biển mênh mông lấp loáng nắng sáng nắng chiều ở phía biển đông. Người Việt thường gọi đây là đền Tiên Y Thánh Mẫu. Thật ra đó là nơi người Champa ngày xưa thờ nữ thần Yama của họ. Trong tháp còn có tượng toàn thân nữ thần, tạc bằng đá xanh, ngồi xếp bằng trên một đế cao rộng bằng đá khối. Đường nét pho tượng cực kỳ tinh tế, toát lên vẻ dịu dàng sâu lắng. Không chỉ có tháp thờ nữ thần Yama, trên ngọn đồi này còn có những ngọn tháp khác: tháp thờ nữ thần Cricambhu tháp thờ Lynga, tháp thờ Ganesa, chưa kể những ngọn tháp đã đổ vỡ. Hương Kỳ Nam, hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ, làm tăng vẻ huyền bí ở những nơi đây.
Trong những công trình kiến trúc của nước Champa cổ còn lại không thể không nhắc tới tháp Chăm ở gần thị xã Nha Trang, công trình khá tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc Champa.
Hiện nay người Chàm sinh sống ở Việt Nam đa số sống ở các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ (số còn lại theo Hồi giáo ở vùng Châu Đốc). Tập trung nhất là ở vùng Vân Canh nơi giáp hai tỉnh Bình Định và Phú Yên (nhóm này gọi là Chăm Hroi, chịu ảnh hưởng văn hóa của người Ê-Đê và Ba-Na ở Tây Nguyên).
Ở Bình Thuận và Ninh Thuận người Chàm ở thành làng, làng nhỏ có vài trăm, làng lớn có trên một ngàn nhân khẩu. Nhà cửa dựng thành hàng lối thẳng tắp, mỗi khu nhà có tường hay hàng rào bao bọc, ngõ quay về hướng nam hoặc hướng tây. Trong mỗi khu nhà có một số ngôi nhà khác nhau: nhà khách (thang tôn), nhà của cha mẹ và con nhỏ (thang cành), nhà của con gái đã lập gia đình (thang dâu), nhà bếp (thang kinh) và nhà tục (thang yơ) dùng làm kho thóc, buồng tân hôn và chỗ ở của vợ chồng con gái út.
Y phục người Chàm gần giống y phục cổ truyền của người Việt ở địa phương, riêng phụ nữ mặc áo dài chui qua đầu. Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn và mặc xà-rông.
Người Chàm theo các tôn giáo khác nhau: ở Nam Trung Bộ hai phần ba theo đạo Bà-la-môn, số còn lại theo Hồi giáo cũ. Gia đình người Chàm ở Bình Thuận và Ninh Thuận là gia đình nhỏ mẫu hệ (khác với người Chàm ở Nam Bộ sống theo gia đình phụ hệ), chồng thường ở bên nhà vợ. Người Chàm theo đạo Bà-la- môn có tục hoả táng người chết. Người Chàm có cả một kho tàng văn học nghệ thuật dân gian hết sức phong phú: truyền thuyết, cổ tích, những bài hát trữ tình, những trường ca độc đáo, đặc biệt là những điệu múa đầy chất thơ.
Một màn múa từng làm rung động khán giả châu Âu: dưới bầu trời chiều loáng thoáng mây trăng, pho tượng đá thiếu nữ Chàm cạnh ngôi tháp cổ bước ra ngoài đời nhảy múa theo đường nét "nhà trời". Nàng gần như khỏa thân một cách trinh bạch, chỉ có vài sợi kim tuyến buông trên mình. Dáng điệu nàng uyển chuyển đến mức kỳ lạ. Gương mặt, đôi mắt, bàn tay, cổ tay và cả thân mình nàng nói bằng thứ ngôn ngữ quyến rũ. Cô gái biểu diễn điệu múa này được báo chí Pháp đặt tên là "Cô bé thiêng liêng" (La Gamine Sacrée). Người xem không còn phân biệt được đó là một nàng tiên hay một cô gái trần tục.
Quốc gia Champa không còn nữa, nhưng người Chàm, văn hóa Chàm vẫn còn. Toàn thể dân tộc Việt Nam có nhiệm vụ cùng đồng bào Chàm khôi phục phát huy nền văn hóa rực rỡ của đất nước Champa nghìn xưa.
Chuyện cười trong ngày
Không Bán Nữa
Một chàng rể khôn ngoan đến nhà cha mẹ vợ chơi. Người nhà dọn cơm mời ăn, chàng vui vẻ vào bàn. Bởi đang đói, anh ta quất một hơi hết sạch cơm trong tượng, bụng vẫn còn thòm thèm nhưng không dám biểu bới thêm.
Sẵn dịp bố vợ nói chuyện mua nhà, anh ta nhân thể nói luôn:
- Thưa cha, bên làng con có người muốn bán cái nhà, cây cột vẫn còn tốt, cột cái ước chừng bằng cái tượng cơm của cha đây.
Ông bố vợ thấy tượng cơm đã hết, rầy tụi nhỏ và hối chúng bới thêm cơm cho chàng rể quý. Chàng rể thả dàn, chén thêm đến căng cả bụng.
Ông bố vợ hỏi tiếp có vẻ sốt sắng:
- Vậy chứ ngôi nhà đó, nó bán bao nhiêu con?
Chàng rể ung dung trả lời:
- Thưa cha, lúc trước nghèo, không có cơm ăn, nó đòi bán, chớ bây giờ nó no đủ rồi, nó không bán nữa.
Một chàng rể khôn ngoan đến nhà cha mẹ vợ chơi. Người nhà dọn cơm mời ăn, chàng vui vẻ vào bàn. Bởi đang đói, anh ta quất một hơi hết sạch cơm trong tượng, bụng vẫn còn thòm thèm nhưng không dám biểu bới thêm.
Sẵn dịp bố vợ nói chuyện mua nhà, anh ta nhân thể nói luôn:
- Thưa cha, bên làng con có người muốn bán cái nhà, cây cột vẫn còn tốt, cột cái ước chừng bằng cái tượng cơm của cha đây.
Ông bố vợ thấy tượng cơm đã hết, rầy tụi nhỏ và hối chúng bới thêm cơm cho chàng rể quý. Chàng rể thả dàn, chén thêm đến căng cả bụng.
Ông bố vợ hỏi tiếp có vẻ sốt sắng:
- Vậy chứ ngôi nhà đó, nó bán bao nhiêu con?
Chàng rể ung dung trả lời:
- Thưa cha, lúc trước nghèo, không có cơm ăn, nó đòi bán, chớ bây giờ nó no đủ rồi, nó không bán nữa.
Monday, July 25, 2016
Chuyện ngắn - Niềm tin không lý do
NIỀM TIN KHÔNG LÝ DO
Tin vào con người là một chuyện khó khăn, nhưng chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có cơ hội để cảm nhận những ngọt ngào của đời sống này.
***
Buổi sáng, tôi đi làm bằng một con đường mới. Lâu lâu thay đổi lộ trình cho nó có không khí vậy mà. Tôi ghé xe bán nước bên đường mua một ly cà phê đá. Mua xong thì phát hiện ra trong túi mình chỉ có duy nhất một tờ tiền lớn, có thể mua được 50 ly cà phê. Chấm hết! Không còn một đồng bạc lẻ nào khác nữa.
Mới sáng mà đưa tiền thế này thế nào cũng bị chửi, nhưng chẳng còn cách nào khác, tôi đành rón rén nói với cô bán nước :"Cô ơi chịu khó thối tờ này giùm con nha!"
À, nhưng tất nhiên là cô không có đủ tiền để thối, mới sáng sớm mà. Chung quanh cũng chẳng có ai để đổi được tiền lẻ, chưa kể giờ này đi đổi tiền bị chửi là cái chắc.
Tôi nghĩ mình sắp bị ăn chửi đầu ngày rồi, ai dè cô bán nước tươi cười nói "Thôi, bữa khác ghé qua đưa cho cô". Ủa, đây là lần đầu tiên tôi đi qua con đường này, ghé cái xe nước nhỏ này; mà sao cô ấy cư xử với tôi cứ như thể tôi hay ghé mua nước lắm?! Tôi nói, vậy thôi con không lấy ly cà phê này đâu.
Cô bán nước lại cười toét, đẩy tôi ra ngoài "Thôi mệt quá, đi giùm cái đi. Bữa nào tiện thì ghé trả tiền cho tui!" Dễ thương không? Tôi còn chưa biết mình có vòng qua con đường này lần nữa không, làm sao cô ấy biết mà tin là như vậy.
Ly cà phê đầu ngày ngon kinh khủng, vì nó được trao đi với một niềm tin không lý do. Cảm động thay khi được thấy việc người ta có thể tin nhau không cần bất cứ một lý do nào. Tôi chắc chắn sẽ phải trở lại con đường này, và lần này thì đã có lý do, chứ không chỉ là vì một sáng hứng lên đi làm bằng con đường mới.
Có lẽ trao đi một tình yêu cũng như bán thiếu ly cà phê cho một người lạ qua đường vậy. Niềm tin không lý do thường hay được đền đáp xứng đáng. Có ai mà nỡ bỏ đi luôn khi người ta đã hồn nhiên tin mình, không cần mình phải đặt cọc thế chấp gì sất. Còn những kỳ vọng nặng nề thường được đáp trả bằng việc cái đứa kia... trốn luôn.
Kỳ vọng là một thứ nặng nề. Chẳng ai thích quay lại để mang vác một thứ nặng nề cả, dù việc bỏ trốn cũng tồi tệ tương đương như quỵt tiền một ly cà phê của cô bán hàng nước rong.
Mà ngay cả từ phía người trao đi niềm tin không lý do, có thể ngay từ đầu họ cũng đã chẳng kỳ vọng gì rồi. Nếu nó quay lại thì tốt, không quay lại thì thôi, chuyện mình mình làm, cà phê mình mình cứ bán tiếp. Còn với người trao đi sự kỳ vọng, chao ôi là kinh khủng.
Những chuyện ngụ ngôn hay
Tình bạn
Hai người bạn đi trên đường vắng vẻ. Đến một đoạn, họ có một cuộc tranh luận khá gay gắt và một người đã không kiềm chế được giơ tay tát vào mặt bạn mình. Người kia bị đau nhưng không hề nói một lời. Anh viết trên cát: "Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt tôi".
Họ tiếp tục đi, đến một con sông, họ dừng lại và tắm ở đấy.
Anh bạn kia không may bị vọp bẻ và suýt chết đuối, may mà được người bạn cứu. Khi hết hoảng sợ, anh viết lên đá: "Hôm nay, người bạn thân nhất đã cứu sống tôi".
Anh bạn kia ngạc nhiên hỏi: "Tại sao khi tôi đánh anh, anh viết trên cát, còn bây giờ anh lại viết trên đá?"
Mỉm cười, anh trả lời: "Khi một người bạn làm chúng ta đau, chúng ta hãy viết điều gì đó trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng với sự tha thứ... Và khi có điều gì đó to lớn xảy ra, chúng ta nên khắc nó lên đá như khắc sâu vào ký ức của trái tim, nơi không ngọn gió nào có thể xoá nhòa được...”
Hãy học cách viết trên cát và trên đá.
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Thiền Trong Ðời Của Một Người Hành Khất
Tosui là một thiền sư danh tiếng vào thời của ngài. Ngài trụ trì nhiều tự viện và giảng dạy tại nhiều vùng.
Ngôi tự viện sau chót ngài lưu trú lại đông nghẹt môn đồ nên ngài phải tuyên bố với tăng chúng rằng ngài sẽ ngưng giảng dạy. Ngài khuyên họ nên giải tán và tìm nơi khác mà tu học. Sau đó không ai còn gặp ngài đâu nữa.
Ba năm sau một môn đồ tìm thấy ngài đang chung sống với đám hành khất dưới một cái cầu ở Kyoto. Lập tức ông ta van xin ngài chỉ dạy.
"Nếu ông có thể sống được như ta trong hai ngày thì ta sẽ giúp," Tosui trả lời.
Thế rồi vị môn đồ ăn mặc như một kẻ hành khất sống với Tosui một ngày. Qua hôm sau có một người hành khất qua đời. Nữa đêm, Tosui và người môn đồ khiêng xác chết lên chôn ở triền núi rồi trở về chỗ trú ẩn dưới chân cầu.
Tosui ngủ vùi, nhưng người môn đồ lại không thể nào chợp mắt được. Ðến sáng, Tosui bảo: "Chúng ta không phải di xin ăn bửa nay. Ông bạn vừa chết đã để lại một ít nơi kia." Nhưng người môn đồ lợm giọng không ăn được.
"Ta đã bảo là ngươi không thể sống được như ta mà," Tosui kết luận. "Thôi hãy rời khỏi đây và đừng quấy rầy ta nữa."
Điển Hay Tích Lạ - Ngư mục hỗn châu
Ngư mục hỗn châu
Ý của câu thành ngữ này là chỉ mắt của con cá rất giống viên ngọc trai, thường dùng để ví về sự hỗn độn lấy giả làm thật.
Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Hàn thi ngoại truyện".
Ngày xưa, có một người tên là Mãn Ý mua được một viên ngọc trai tại một cửa hiệu nhỏ ở miền đất hoang vắng. Sau khi về nhà, Mãn Ý liền bỏ viên ngọc vào một chiếc hộp rất đặc biệt, rồi cất giữ cần thận, chỉ khi nào đến ngày lễ tết mới đem ra cho bạn bè thân thích xem.
Mãn Ý có một người hàng xóm tên là Thọ Lượng, trong nhà cũng có một viên ngọc gia truyền, anh ta vẫn muốn đem ra để so đọ với viên ngọc của Mãn Ý. Nhưng vì tổ tiên có lời dặn rằng không nên để người ngoài biết nên đành thôi.
Nhưng điều trớ trêu là ít lâu sau, hai người này đều mắc phải một chứng bệnh rất quái lạ, nằm liệt giường không sao dậy được, uống đã nhiều thuốc mà vẫn không khỏi bệnh. Một hôm, có một thầy lang đi trên phố và nó có thể chữa các loại bệnh nan trị. Hai nhà này đã lần lượt mời thầy đến nhà, sau khi bắt mạch xong thầy lang nói rằng, thang thuốc này phải có thêm bột ngọc trai thì mới có công hiệu, nói xong bèn để lại phương thuốc rồi đi ra.
Nhưng vì Mãn Ý rất tiếc viên ngọc quý của mình, nên chỉ uống thuốc không chứ không pha thêm bột ngọc. Còn Thọ Lượng thì đem viện ngọc gia truyền của mình ra nghiền thành bột rồi hoà chung với thuốc. Về sau, thầy lang được biết Mãn Ý không dùng bột ngọc pha thuốc, thì mới phát hiện viên ngọc này của anh quả là rất quý hiếm. Nhưng khi nhìn đến viên ngọc của Thọ Lượng thì thầy nói rằng: "Đây chỉ là mắt của một loài cá biển thôi, anh coi mắt cá là ngọc quý thì làm sao chữa khỏi bệnh được".
Thảo nào, mặc dù Thọ Lượng đã pha thêm bột ngọc vào thuốc mà bệnh vẫn không khỏi được.
Chuyện cười trong ngày
Tài của bác sĩ
Bệnh nhân là một nam giới, mới ngoài ba mươi tuổi:
- Thưa bác sĩ, vợ tôi bị mất tiếng không nói năng gì được. Cô ấy tỏ ra buồn khổ lắm. Xin bác sĩ chữa trị, tiền nong bao nhiêu, tôi xin thanh toán ngay bây giờ ạ! Thuốc men chữa bệnh tôi không tiếc tiền bao giờ, thưa bác sĩ!
- Chữa bệnh ấy dễ ợt à. Khỏi lo tốn kém tiền nong. Ðêm nay, anh cứ về nhà vào lúc 3 giờ sáng ba ay se len tieng ngay!...
Bệnh nhân là một nam giới, mới ngoài ba mươi tuổi:
- Thưa bác sĩ, vợ tôi bị mất tiếng không nói năng gì được. Cô ấy tỏ ra buồn khổ lắm. Xin bác sĩ chữa trị, tiền nong bao nhiêu, tôi xin thanh toán ngay bây giờ ạ! Thuốc men chữa bệnh tôi không tiếc tiền bao giờ, thưa bác sĩ!
- Chữa bệnh ấy dễ ợt à. Khỏi lo tốn kém tiền nong. Ðêm nay, anh cứ về nhà vào lúc 3 giờ sáng ba ay se len tieng ngay!...
Sunday, July 24, 2016
Chuyện ngắn - Một chỗ thật tịnh mịch
Một chỗ thật tịch mịch
Võ Phiến
Chàng vẫn tin rằng cứ đến giữa khung cảnh ấy mà an tọa, một mình, rồi lặng lẽ suy tưởng, thì chẳng mấy chốc sẽ có chim chóc đến làm tổ trên đầu. Một chiếc tổ chim thật rối trên đỉnh đầu, một vòng hoa tư tưởng đáng ước ao như thế có lúc chàng đã dám nghĩ là không khó. Chỉ cần đến đó, một mình. Chỉ cần có thế, nhưng ấy là điều chàng chưa bao giờ làm. Đâu khó gì? Chỉ vì chàng chưa bao giờ có cái duyên đối với một hành vi như thế.
Khung cảnh nọ cách xóm làng không xa. Nằm trên vùng đồi hơi cao. Xế trưa, thơ thẩn trên đồi, chàng trông xuống thấy dừa với tre trong xóm xanh um, nổi bồng lên cuồn cuộn như từng đám rong lớn trong hồ nước. Xóm làng coi xinh xắn, nhỏ hẳn đi. Nhà cửa thì thưa thớt, nằm khuất trong đám cây xanh. Và sự sinh hoạt của dân làng thì càng khuất xa hơn nữa.
Tha hồ nhìn ngắm, vẫn không thấy động tĩnh gì. Lắng tai hàng giờ, không bắt được tiếng hát tiếng la nào. Họa hoằn, như có tiếng ai kêu ơi ới, nhưng tiếng văng vẳng rồi tắt ngay, mơ hồ, không rõ rệt.
Một đôi khi, mắt chàng bắt gặp một bóng người ngoài đồng, trên một con đường bờ ruộng ngoằn ngoèo nhỏ xíu. Một dáng người tí teo ngọ nguậy trong nắng xế bao la. Một chiếc nón trắng lấp lánh giữa đồng trống, tận xa tít... Chiếc nón lấp lánh, di động chậm chạp, trong lúc con ó rằn giăng đôi cánh xác xơ giữa nền trời, trong lúc con cuốc phát tiếng kêu đều đều trong nắng rưng rưng... Chàng càng có cảm tưởng xa cách cuộc sống khiêm tốn của xóm làng hơn bao giờ hết...
Chỉ cần dừng lại, an tọa, chẳng mấy chốc...
Nhưng chàng không đến đó để an tọa.
Và càng tiến xa, cảnh càng vắng hơn. Có một vùng đồi chia làm nhiều khoảnh lớn, như những khoảnh vườn rộng với hàng cây bao bọc bốn bề. Trong số ấy có khoảnh vốn là vườn thật, nhưng vườn cũ, vườn hoang. Bởi vì xưa kia trên đồi có một số gia đình sinh sống, về sau bỏ đồi xuống xóm. Trong những khu vườn hoang ấy còn lại hoặc một cây mít, hoặc năm ba cây dừa, có cây cụt ngọn chết khô từ lâu. Những khoảnh khác là đất trống, bỏ hoang cho cỏ mọc quanh năm. Cho bò, cho dê ăn. Từ đám đất này qua đám khác chỉ có một lối thông rất hẹp, phải vạch cây vạch lá, lách mình len lỏi. Len qua xong, lọt vào khoảnh đất mới, nhìn quanh quất lại bốn bề có cây vây kín, một ngọn gió không vào nổi. Lại càng vắng vẻ thêm lên một bậc. Vài con chim giật mình quay đầu nhìn khách lạ. Có con nhấp nhỏm mãi, không yên tâm. Có con dứt khoát bay vụt đi, làm rung rinh một chùm quả dái ngựa. Bỏ khách lại với cái bóng của mình, in dài trên nền cỏ.
Thử vạch lá, lách mình len qua một khu đất nữa. Lại càng xa nhân gian thêm lên một bậc. Một con cút cụt đuôi cắm đầu lủi trốn vào bụi rậm. Một con gà rừng chậm hiểu, ngẩng nhìn giây lát trước khi hoảng hốt vỗ cánh một cách nặng nề. Gió không len vào nổi: nắng xế càng nồng.
Cứ thế từ đám đất này qua đám đất khác. Chàng không gặp gì khác hơn là những cây dái ngựa, cây bông trang, là lá giang, lá vằn, là thỉnh thoảng một con bò, mấy con dê. Và thường xuyên là cái bóng chàng, in dài trên nền cỏ. Tuy vậy, mỗi lần lách mình qua một khu đất mới, thoạt tiên chàng đều có một ngạc nhiên mới, trước một khung cảnh vắng vẻ mới.
Cái vắng vẻ chồng chất lên nhiều tầng. Sau cùng đến một bãi rộng mênh mông. Cuối bãi cỏ là khu rừng nhỏ, cây cao bóng cả. Mé rừng là một ngôi miếu.
Hẳn nhiên đây là nơi xưa kia con chằng tinh từng mài răng chờ xé thịt Thạch Sanh. Một ngôi miếu cổ, khuất nẻo như thế, hẳn nhiên... Nhưng một ngôi miếu cổ, khuất nẻo như thế, cũng là nơi mà một thiếu phụ trong truyện của Pearl Buck từng ném chiếc áo vừa cởi ra, trùm lên đầu các tượng thần để che mấy cặp mắt lom lom. Chi không thích những cặp mắt lom lom.
Khi chàng lần đầu trông thấy Chi, chàng bị thu hút ngay. Chàng nhìn không chớp mắt chiếc cổ trắng muốt tuyệt diệu, nhìn mấy sợi tóc xòa xuống má, cặp mắt sâu, đen nhánh, mở to, trông thông minh và nồng nàn lạ lùng. Chi ngồi giữa bạn bè. Chàng không hề biết người con gái ấy tên là gì, từ đâu tới. Mới trông thấy lần đầu, chàng mê mẩn ngay. Chàng chăm chú nhìn: chàng mê cặp chân mày đen đậm, mê đôi mắt sâu, mê những sợi tóc sau gáy và những sợi tóc mai bên má v.v...
Chàng chăm chú, lom lom. Suýt thành lố bịch. Có lẽ chàng đã có vẻ lố bịch cũng nên. Trong phòng, ai nấy có lẽ đã để ý đến chàng. Còn chàng thì khốn khổ, vẫn chưa tìm ra cái gì để mở miệng, chưa biết nói câu gì.
Dĩ nhiên Chi không hề trông thấy chàng, không hề ngó qua một tí nào về phía chàng. Thình lình Chi ngẩng phắt đầu lên, nhìn thẳng vào mắt chàng, cười xòa, kêu: “Nóng quá”, rồi hai tay nắm hai chéo áo dài, ngửa cổ ra, quạt mấy cái.
Chết một nỗi là sau đó chàng càng bối rối, vẫn không tìm được câu nào để nói. Và chàng hóa ra lố bịch hẳn. Chàng loay hoay, khốn đốn. Tuy vậy đồng thời chàng đã biết chắc chắn mình có hy vọng. Bắt đầu có hy vọng ngay từ lúc ấy.
Như vậy không đáng lo lắng sao? Nếu chỉ cần nói “Nóng quá” để tỏ tình thì có thể Chi đã nói câu ấy biết bao nhiêu lần, với biết bao nhiêu người? Thế nhưng chàng nghĩ lui nghĩ tới, nhớ đến con mắt Chi nhìn chàng lúc ấy, miệng nàng cười lúc ấy, giọng nàng nói lúc ấy; và chàng quả quyết: không lầm được.
Quả nhiên, dần dần, hai người quen nhau. Rốt cuộc Chi đến với chàng nơi ngôi miếu cổ.
Hai người tìm đến để nói với nhau những câu chuyện tuyệt vời.
— À này anh...
— Gì?
— Anh biết không...
— Không. Anh chưa biết. Gì thế Chi?
— Bà ngoại đóng đinh bị búa đập trúng ngón tay cái...
— Thật hả? Trời ơi, bao giờ?
— Mới hôm qua. Khiếp, ngón tay bầm tím.
— Tội nghiệp chưa... Nhưng em may áo mới lúc nào thế?
— Dốt! Áo thế này mà mới!
— Anh có trông thấy em mặc áo màu tím này bao giờ đâu.
— Đố anh biết ở đâu ra?
— Anh thua.
— Nhuộm đấy.
— Em nhuộm lấy?
— Anh coi được không?
— Được quá chứ lại. Em khéo thật.
— Thôi ông. Muốn nịnh cũng phải am hiểu mới nịnh được, chứ dốt như anh... Mua được thuốc tốt, nhuộm đâu khó gì.
— Em đem cái này cho anh, phải không?
— Cây ổi trước rào đấy... Có quả to nhất để dành cho anh, dơi nó vừa khoét đêm qua.
— Em tránh qua phía này đi. Có kiến...
— Để yên em coi. Mình không cử động nó không cắn. Anh thấy không, con này bò mãi trên chân em mà không cắn.
— Dại gì. Nó còn muốn bò dần lên cao...
— Thôi ông. Lại bắt đầu nói bậy!
Trên trời cao, nắng gắt, mây trắng sáng lòa. Nhưng xung quanh ngôi miếu cây cao mịt mùng. Bóng cây mát lạnh. Màu của cây xanh lá xanh ánh lên quần áo, thấm mát vào da thịt!
“U cảnh mỗi bạch nhật
Thanh huy chiếu y thường”
Gần như mỗi nhật, thanh huy đều có chiếu y thường một lần. Hai người thủ thỉ, trong lúc con sóc trèo ngược trèo xuôi một nhánh cây thị, trong lúc đàn két hái rớt lộp độp trái cây đâu đó phía sau miếu, trong lúc con ó rằn giăng cánh xác xơ trên trời xanh... Và đến khi chàng ra về thì trên cỏ bóng chàng đã ngã quá dài. Trong mỗi khoảnh đất hoang, bờ cây bao bọc ngã bóng quá dài. Và những quả dái ngựa thì chúng in một cái bóng cũng dài quá cỡ, thành ra kỳ hình dị tướng. Một quả dái ngựa hơn sải tay! ôi chao, trên đường về đôi khi chàng tưởng thấy bị giễu cợt.
Tuy nhiên không có một cơn gió lay động, không có một tiếng huyên náo. Cảnh vật nghiêm trọng, thâm trầm. Chàng tha hồ sống với cảm xúc của riêng mình, tha hồ gìn giữ cẩn trọng nguyên vẹn cảm xúc riêng.
Chàng giữ gìn cho đến lúc đêm về. Nằm trên chiếc chõng tre đặt ngoài vườn, chàng nhìn trăng cao. Chàng nhìn lá tre trên đầu mình với những giọt nước long lanh tụ ở đuôi lá. Chàng nhìn mây kéo nhau lướt êm đềm bên cạnh mặt trăng. Tai chàng lơ đãng theo dõi tiếng chày giã gạo đều đều trong xóm. Và chàng lặng lẽ ôn lại những lời chàng nói, những lời Chi nói, những cảm xúc của hai người. Chàng như con bò nhàn hạ nhai lại cảm xúc của chính mình. Chàng sống lại, trong đêm, ở một góc vườn, những giờ nồng nàn dưới trưa...
Và tre trúc, và sương đêm, trăng sao v.v...tất cả giữ một xa cách kính cẩn đối với tâm sự của chàng.
Tất cả đều giữ một sự xa cách kính cẩn. Ngay cả cái lúc mà Chi lặng lẽ khóc.
Phải, có lần Chi khóc. Chuyện đó gần như dĩ nhiên. Vì sự gần gũi lâu ngày, thanh huy chiếu y thường nhiều lần, quá nhiều lần. Rồi một hôm, Chi khóc lặng lẽ.
Chàng hỏi: “Em làm sao thế? Chi, anh có làm em khổ không? Hả, Chi, Chi. Em...” Nàng lắc đầu không trả lời, tiếp tục khóc. Còn chàng thì loay hoay. Như một con gà mái loay hoay trong ổ sau khi đẻ xong chiếc trứng, hoàn toàn không hiểu gì về công việc mình vừa làm.
Ngay cả cái lúc ấy, tất cả vẫn xa cách kính cẩn. Két vẫn ăn trái làm rơi lộp bộp sau miếu, con rắn lục vẫn hút một tiếng dài thoang thoảng lửng lơ, con sóc vẫn nhảy nhanh nhẹn từ cành nọ sang cành kia trên cây thị, con kỳ nhông nghểnh đầu rồi lủi đi... Tất cả đều khuyến khích: “Tự nhiên, xin cứ tự nhiên! Xin các người tự nhiên!”
Và Chi thấy an ủi. Và nước mắt nàng khô dần trên mi.
Hạt nước mắt Chi đã khô trên phần tư thế kỷ. Trong chừng ấy thời gian, giặc giã liên miên. Xóm cũ mất đi sáu phần mười nhà cửa. Dân làng mười người tản mác hết tám. Cây cối xâm chiếm hết vùng đồi, bao trùm ngôi cổ miếu...
Còn chàng, bây giờ chàng ngược xuôi trên các con đường nhựa của đô thị, mũi hít mùi xăng nhớt mùi rác rến, mặt mày tóc tai mỗi chiều về phủ dày một lớp bụi. Còn chàng, bây giờ ngày ngày chàng tất tả chạy vào chạy ra sở nọ sở kia, chàng leo lóc cóc các thang lầu, chàng đụng đầu đều đều với những công việc buồn nản.
Mỗi tối, trong tiếng muỗi vo ve bên màn, chàng lắng nghe sự tàn tạ của cuộc đời.
Nhưng cuộc đời không cam phận tàn tạ. Nó không chịu cam phận. Giữa tiếng muỗi vo ve những khi thức giấc nửa đêm, từ trong cùng thẳm của tâm hồn chàng nổi lên tiếng kêu đều đều, tiếng kêu gióng giả, khắc khoải như tiếng cuốc trong nắng đậm xế chiều, tiếng đỗ quyên tiếc nhớ tiền triều. Nó gọi kêu một khung cảnh tịch mịch, thật tịch mịch...
1-1969
Khung cảnh nọ cách xóm làng không xa. Nằm trên vùng đồi hơi cao. Xế trưa, thơ thẩn trên đồi, chàng trông xuống thấy dừa với tre trong xóm xanh um, nổi bồng lên cuồn cuộn như từng đám rong lớn trong hồ nước. Xóm làng coi xinh xắn, nhỏ hẳn đi. Nhà cửa thì thưa thớt, nằm khuất trong đám cây xanh. Và sự sinh hoạt của dân làng thì càng khuất xa hơn nữa.
Tha hồ nhìn ngắm, vẫn không thấy động tĩnh gì. Lắng tai hàng giờ, không bắt được tiếng hát tiếng la nào. Họa hoằn, như có tiếng ai kêu ơi ới, nhưng tiếng văng vẳng rồi tắt ngay, mơ hồ, không rõ rệt.
Một đôi khi, mắt chàng bắt gặp một bóng người ngoài đồng, trên một con đường bờ ruộng ngoằn ngoèo nhỏ xíu. Một dáng người tí teo ngọ nguậy trong nắng xế bao la. Một chiếc nón trắng lấp lánh giữa đồng trống, tận xa tít... Chiếc nón lấp lánh, di động chậm chạp, trong lúc con ó rằn giăng đôi cánh xác xơ giữa nền trời, trong lúc con cuốc phát tiếng kêu đều đều trong nắng rưng rưng... Chàng càng có cảm tưởng xa cách cuộc sống khiêm tốn của xóm làng hơn bao giờ hết...
Chỉ cần dừng lại, an tọa, chẳng mấy chốc...
Nhưng chàng không đến đó để an tọa.
Và càng tiến xa, cảnh càng vắng hơn. Có một vùng đồi chia làm nhiều khoảnh lớn, như những khoảnh vườn rộng với hàng cây bao bọc bốn bề. Trong số ấy có khoảnh vốn là vườn thật, nhưng vườn cũ, vườn hoang. Bởi vì xưa kia trên đồi có một số gia đình sinh sống, về sau bỏ đồi xuống xóm. Trong những khu vườn hoang ấy còn lại hoặc một cây mít, hoặc năm ba cây dừa, có cây cụt ngọn chết khô từ lâu. Những khoảnh khác là đất trống, bỏ hoang cho cỏ mọc quanh năm. Cho bò, cho dê ăn. Từ đám đất này qua đám khác chỉ có một lối thông rất hẹp, phải vạch cây vạch lá, lách mình len lỏi. Len qua xong, lọt vào khoảnh đất mới, nhìn quanh quất lại bốn bề có cây vây kín, một ngọn gió không vào nổi. Lại càng vắng vẻ thêm lên một bậc. Vài con chim giật mình quay đầu nhìn khách lạ. Có con nhấp nhỏm mãi, không yên tâm. Có con dứt khoát bay vụt đi, làm rung rinh một chùm quả dái ngựa. Bỏ khách lại với cái bóng của mình, in dài trên nền cỏ.
Thử vạch lá, lách mình len qua một khu đất nữa. Lại càng xa nhân gian thêm lên một bậc. Một con cút cụt đuôi cắm đầu lủi trốn vào bụi rậm. Một con gà rừng chậm hiểu, ngẩng nhìn giây lát trước khi hoảng hốt vỗ cánh một cách nặng nề. Gió không len vào nổi: nắng xế càng nồng.
Cứ thế từ đám đất này qua đám đất khác. Chàng không gặp gì khác hơn là những cây dái ngựa, cây bông trang, là lá giang, lá vằn, là thỉnh thoảng một con bò, mấy con dê. Và thường xuyên là cái bóng chàng, in dài trên nền cỏ. Tuy vậy, mỗi lần lách mình qua một khu đất mới, thoạt tiên chàng đều có một ngạc nhiên mới, trước một khung cảnh vắng vẻ mới.
Cái vắng vẻ chồng chất lên nhiều tầng. Sau cùng đến một bãi rộng mênh mông. Cuối bãi cỏ là khu rừng nhỏ, cây cao bóng cả. Mé rừng là một ngôi miếu.
Hẳn nhiên đây là nơi xưa kia con chằng tinh từng mài răng chờ xé thịt Thạch Sanh. Một ngôi miếu cổ, khuất nẻo như thế, hẳn nhiên... Nhưng một ngôi miếu cổ, khuất nẻo như thế, cũng là nơi mà một thiếu phụ trong truyện của Pearl Buck từng ném chiếc áo vừa cởi ra, trùm lên đầu các tượng thần để che mấy cặp mắt lom lom. Chi không thích những cặp mắt lom lom.
Khi chàng lần đầu trông thấy Chi, chàng bị thu hút ngay. Chàng nhìn không chớp mắt chiếc cổ trắng muốt tuyệt diệu, nhìn mấy sợi tóc xòa xuống má, cặp mắt sâu, đen nhánh, mở to, trông thông minh và nồng nàn lạ lùng. Chi ngồi giữa bạn bè. Chàng không hề biết người con gái ấy tên là gì, từ đâu tới. Mới trông thấy lần đầu, chàng mê mẩn ngay. Chàng chăm chú nhìn: chàng mê cặp chân mày đen đậm, mê đôi mắt sâu, mê những sợi tóc sau gáy và những sợi tóc mai bên má v.v...
Chàng chăm chú, lom lom. Suýt thành lố bịch. Có lẽ chàng đã có vẻ lố bịch cũng nên. Trong phòng, ai nấy có lẽ đã để ý đến chàng. Còn chàng thì khốn khổ, vẫn chưa tìm ra cái gì để mở miệng, chưa biết nói câu gì.
Dĩ nhiên Chi không hề trông thấy chàng, không hề ngó qua một tí nào về phía chàng. Thình lình Chi ngẩng phắt đầu lên, nhìn thẳng vào mắt chàng, cười xòa, kêu: “Nóng quá”, rồi hai tay nắm hai chéo áo dài, ngửa cổ ra, quạt mấy cái.
Chết một nỗi là sau đó chàng càng bối rối, vẫn không tìm được câu nào để nói. Và chàng hóa ra lố bịch hẳn. Chàng loay hoay, khốn đốn. Tuy vậy đồng thời chàng đã biết chắc chắn mình có hy vọng. Bắt đầu có hy vọng ngay từ lúc ấy.
Như vậy không đáng lo lắng sao? Nếu chỉ cần nói “Nóng quá” để tỏ tình thì có thể Chi đã nói câu ấy biết bao nhiêu lần, với biết bao nhiêu người? Thế nhưng chàng nghĩ lui nghĩ tới, nhớ đến con mắt Chi nhìn chàng lúc ấy, miệng nàng cười lúc ấy, giọng nàng nói lúc ấy; và chàng quả quyết: không lầm được.
Quả nhiên, dần dần, hai người quen nhau. Rốt cuộc Chi đến với chàng nơi ngôi miếu cổ.
Hai người tìm đến để nói với nhau những câu chuyện tuyệt vời.
— À này anh...
— Gì?
— Anh biết không...
— Không. Anh chưa biết. Gì thế Chi?
— Bà ngoại đóng đinh bị búa đập trúng ngón tay cái...
— Thật hả? Trời ơi, bao giờ?
— Mới hôm qua. Khiếp, ngón tay bầm tím.
— Tội nghiệp chưa... Nhưng em may áo mới lúc nào thế?
— Dốt! Áo thế này mà mới!
— Anh có trông thấy em mặc áo màu tím này bao giờ đâu.
— Đố anh biết ở đâu ra?
— Anh thua.
— Nhuộm đấy.
— Em nhuộm lấy?
— Anh coi được không?
— Được quá chứ lại. Em khéo thật.
— Thôi ông. Muốn nịnh cũng phải am hiểu mới nịnh được, chứ dốt như anh... Mua được thuốc tốt, nhuộm đâu khó gì.
— Em đem cái này cho anh, phải không?
— Cây ổi trước rào đấy... Có quả to nhất để dành cho anh, dơi nó vừa khoét đêm qua.
— Em tránh qua phía này đi. Có kiến...
— Để yên em coi. Mình không cử động nó không cắn. Anh thấy không, con này bò mãi trên chân em mà không cắn.
— Dại gì. Nó còn muốn bò dần lên cao...
— Thôi ông. Lại bắt đầu nói bậy!
Trên trời cao, nắng gắt, mây trắng sáng lòa. Nhưng xung quanh ngôi miếu cây cao mịt mùng. Bóng cây mát lạnh. Màu của cây xanh lá xanh ánh lên quần áo, thấm mát vào da thịt!
“U cảnh mỗi bạch nhật
Thanh huy chiếu y thường”
Gần như mỗi nhật, thanh huy đều có chiếu y thường một lần. Hai người thủ thỉ, trong lúc con sóc trèo ngược trèo xuôi một nhánh cây thị, trong lúc đàn két hái rớt lộp độp trái cây đâu đó phía sau miếu, trong lúc con ó rằn giăng cánh xác xơ trên trời xanh... Và đến khi chàng ra về thì trên cỏ bóng chàng đã ngã quá dài. Trong mỗi khoảnh đất hoang, bờ cây bao bọc ngã bóng quá dài. Và những quả dái ngựa thì chúng in một cái bóng cũng dài quá cỡ, thành ra kỳ hình dị tướng. Một quả dái ngựa hơn sải tay! ôi chao, trên đường về đôi khi chàng tưởng thấy bị giễu cợt.
Tuy nhiên không có một cơn gió lay động, không có một tiếng huyên náo. Cảnh vật nghiêm trọng, thâm trầm. Chàng tha hồ sống với cảm xúc của riêng mình, tha hồ gìn giữ cẩn trọng nguyên vẹn cảm xúc riêng.
Chàng giữ gìn cho đến lúc đêm về. Nằm trên chiếc chõng tre đặt ngoài vườn, chàng nhìn trăng cao. Chàng nhìn lá tre trên đầu mình với những giọt nước long lanh tụ ở đuôi lá. Chàng nhìn mây kéo nhau lướt êm đềm bên cạnh mặt trăng. Tai chàng lơ đãng theo dõi tiếng chày giã gạo đều đều trong xóm. Và chàng lặng lẽ ôn lại những lời chàng nói, những lời Chi nói, những cảm xúc của hai người. Chàng như con bò nhàn hạ nhai lại cảm xúc của chính mình. Chàng sống lại, trong đêm, ở một góc vườn, những giờ nồng nàn dưới trưa...
Và tre trúc, và sương đêm, trăng sao v.v...tất cả giữ một xa cách kính cẩn đối với tâm sự của chàng.
Tất cả đều giữ một sự xa cách kính cẩn. Ngay cả cái lúc mà Chi lặng lẽ khóc.
Phải, có lần Chi khóc. Chuyện đó gần như dĩ nhiên. Vì sự gần gũi lâu ngày, thanh huy chiếu y thường nhiều lần, quá nhiều lần. Rồi một hôm, Chi khóc lặng lẽ.
Chàng hỏi: “Em làm sao thế? Chi, anh có làm em khổ không? Hả, Chi, Chi. Em...” Nàng lắc đầu không trả lời, tiếp tục khóc. Còn chàng thì loay hoay. Như một con gà mái loay hoay trong ổ sau khi đẻ xong chiếc trứng, hoàn toàn không hiểu gì về công việc mình vừa làm.
Ngay cả cái lúc ấy, tất cả vẫn xa cách kính cẩn. Két vẫn ăn trái làm rơi lộp bộp sau miếu, con rắn lục vẫn hút một tiếng dài thoang thoảng lửng lơ, con sóc vẫn nhảy nhanh nhẹn từ cành nọ sang cành kia trên cây thị, con kỳ nhông nghểnh đầu rồi lủi đi... Tất cả đều khuyến khích: “Tự nhiên, xin cứ tự nhiên! Xin các người tự nhiên!”
Và Chi thấy an ủi. Và nước mắt nàng khô dần trên mi.
Hạt nước mắt Chi đã khô trên phần tư thế kỷ. Trong chừng ấy thời gian, giặc giã liên miên. Xóm cũ mất đi sáu phần mười nhà cửa. Dân làng mười người tản mác hết tám. Cây cối xâm chiếm hết vùng đồi, bao trùm ngôi cổ miếu...
Còn chàng, bây giờ chàng ngược xuôi trên các con đường nhựa của đô thị, mũi hít mùi xăng nhớt mùi rác rến, mặt mày tóc tai mỗi chiều về phủ dày một lớp bụi. Còn chàng, bây giờ ngày ngày chàng tất tả chạy vào chạy ra sở nọ sở kia, chàng leo lóc cóc các thang lầu, chàng đụng đầu đều đều với những công việc buồn nản.
Mỗi tối, trong tiếng muỗi vo ve bên màn, chàng lắng nghe sự tàn tạ của cuộc đời.
Nhưng cuộc đời không cam phận tàn tạ. Nó không chịu cam phận. Giữa tiếng muỗi vo ve những khi thức giấc nửa đêm, từ trong cùng thẳm của tâm hồn chàng nổi lên tiếng kêu đều đều, tiếng kêu gióng giả, khắc khoải như tiếng cuốc trong nắng đậm xế chiều, tiếng đỗ quyên tiếc nhớ tiền triều. Nó gọi kêu một khung cảnh tịch mịch, thật tịch mịch...
1-1969
Những câu chuyện ngụ ngôn hay
Sư tử và lừa
Một hôm, sư tử đi săn và đem lừa đi theo. Sư tử bảo lừa:
- Cậu cứ vào rừng, lừa a, có bao hơi sức cậu rống lên. Con thú nào nghe thấy tiếng rống ấy sợ bỏ chạy, tôi sẽ tóm gọn hết.
Nghe sao làm vậy. Lừa rống lên, các con thú chạy tán loạn, thế là sư tử tóm bắt chúng. Sau cuộc săn bắt, sư tử bảo lừa:
- Chà, tôi khen ngợi cậu, cậu rống khá lắm.
Thế là từ đó lừa cứ rống hoài, cứ chờ đợi hoài người ta khen nó
- Cậu cứ vào rừng, lừa a, có bao hơi sức cậu rống lên. Con thú nào nghe thấy tiếng rống ấy sợ bỏ chạy, tôi sẽ tóm gọn hết.
Nghe sao làm vậy. Lừa rống lên, các con thú chạy tán loạn, thế là sư tử tóm bắt chúng. Sau cuộc săn bắt, sư tử bảo lừa:
- Chà, tôi khen ngợi cậu, cậu rống khá lắm.
Thế là từ đó lừa cứ rống hoài, cứ chờ đợi hoài người ta khen nó
Tri Kiến Giác Ngộ - Minh Triết Trong Đời Sống
Câu Chuyện Shunkai
Tuyệt đại mỹ nhân Shunkai , có một tên khác là Suzu , bị bắt buộc phải lập gia đình trái với ý muốn của nàng Khi Shunkai còn nhỏ tuổi quá . Sau này , khi cuộc hôn nhân đã kết thúc , Shunkai theo học triết học ở một trường đại học .
Nhìn thấy Shunkai là phải yêu nàng . Luôn luôn và bất cứ nơi nào nàng bước chân đến là có kẽ yêu nàng , và chíng nàng cũng yêu nhiều người . Tìh yêu đã đến với Shunkai ở đại học , và sau này , khi triết học không làm Shunkai thỏa mãn . Shunkai đến viếng một ngôi đền để học Thiền , nhiều Thiền sinh yêu nàng . Toànthể cuộc đời Shunkai đẫm ướt tình yêu . Cuối cùng đến Kyoto , Shunkai mới trở thành một Thiền sư thật sự . Những sư huynh đệ của Shunkai ở một ngôi đền phụ thuộc đền Kennin đã ca ngợi lòng chân thành của Shunkai . Một người trong bọn họ đã chứng tỏ tinh tần đồng chí hướng với Shunkai bằng cách đã giúp đỡ Shunkai trong việc nắm vững căn bản Thiền học .
Sư trưởng của đền Kennin , Mokurai có nghĩa là Im lặng Sấm Sét là một người nghiêm khắc . Mokurai tự giữ giới luật rất nghiêm trang và muốc các đệ tử cũng làm như mình .
Ở nước Nhật hiện thời , dù bất cứ nhiệt tâm nào dường như các tu sĩ đã đánh mất tinh thần Phật giáo , vì họ có vợ . Mokurai thường xách chổi đuổi những người đàn bà khi ông tìm thấy họ ở bất cứ nơi nào trong ngôi đền của ông . Nhưng Mokurai càng quét đuổi nhiều bà vợ đó chừng nào thì dường nghư họ càng trở lại nhiều chừng ấy .
Trong ngôi đền đặc biệt này , bà vợ của tu sĩ trưởng nổi ghen với sự chăm chỉ và sắc đẹp của Shunkai . Nghe các đệ tử ca ngợi sự hành Thiền trang nghiêm của Shunkai , bà vợ tu sĩ trưởng ngứa ngáy khó chịu . Cuối cùng bà phao đồn về việc Shunkai với một thanh niên bạn . Vì thế Shunka và anh bạn bị trục xuất ra .
Shunkai nghĩ :” Có thể ta đã gây nên một lỗi lầm về chuyện yêu đương , nhưng bà ấy sẽ không thể ở lại ngôi đền đó được , nếu bạn ta bị đối xử quá bất công như thế “’
Ðêm đó , Shunkai mang một thùng dầu hỏa châm kửa đốt rụi ngôi đền đã xây hai mươi lăm năm này .
Sáng hôm sau Shunkai thấy mình bị cảnh sát bắt giữ .
Một luật sư trẻ thích Shunkai và cố gắng giúp nàng được nhẹ tội . Nhưng Shunkai bảo vị luật sư rằng :” Ðừng , đừng giúp tôi làm gì , biết đâu tôi lại quyết định làm một việc gì khác rồi tôi lại ngồi tù nữa . Vô ích “.
Cuối cùng Shunkai bị tuyên án bảy năm tù . Shunkai lại được một cai tù sáu mươi tuổi thả ra vì ông ta cũng say mê nàng .
Nhưng bây giờ người ta xem nàng như một “ con chim tù “. Không ai còn muốn giao kết với Shunkai . Cả đến các Thiền nhân , những người được cho là tin vào sự giác ngộ ngay trong đời này và với thân này , tất cả đều tránh nàng . Shunkai đã nhìn thấy Thiền là một việc và những kẽ theo Thiền là một việc khác hẳn hoàn toàn , Những người thân thuộc của Shunkai cũng không còn gì . Shunkai trở thành người bệnh tật , và yếu đuối . Shunkai gặp một tu sĩ Shinatru , nàng niệm danh hiệu của Ðức Phật A Di Ðà . Shunkai đã tìm được nơi đây một chút an ủi thanh bình của tâm hồn . Shunkai đã qua đời khi nàng còn đẹp tuyệt trần và chưa đầy ba mươi tuổi Shunkai đã viết lại câu chuyện đời nàng trong một sự cố gắng hữu ích để hổ trợ cho chính nàng . Một phần nhỏ câu chuyện này được nàng kể cho một người đàn bà khác ghi lại . Vì thế câu chuyện đã đến tai người dân Nhật . Những người đã từ chối Shunkai , những người đã phỉ báng và oán ghét Shunkai , bây giờ đọc lại chuyện đời Shunkai với những giọt lệ ăn năn
Nhìn thấy Shunkai là phải yêu nàng . Luôn luôn và bất cứ nơi nào nàng bước chân đến là có kẽ yêu nàng , và chíng nàng cũng yêu nhiều người . Tìh yêu đã đến với Shunkai ở đại học , và sau này , khi triết học không làm Shunkai thỏa mãn . Shunkai đến viếng một ngôi đền để học Thiền , nhiều Thiền sinh yêu nàng . Toànthể cuộc đời Shunkai đẫm ướt tình yêu . Cuối cùng đến Kyoto , Shunkai mới trở thành một Thiền sư thật sự . Những sư huynh đệ của Shunkai ở một ngôi đền phụ thuộc đền Kennin đã ca ngợi lòng chân thành của Shunkai . Một người trong bọn họ đã chứng tỏ tinh tần đồng chí hướng với Shunkai bằng cách đã giúp đỡ Shunkai trong việc nắm vững căn bản Thiền học .
Sư trưởng của đền Kennin , Mokurai có nghĩa là Im lặng Sấm Sét là một người nghiêm khắc . Mokurai tự giữ giới luật rất nghiêm trang và muốc các đệ tử cũng làm như mình .
Ở nước Nhật hiện thời , dù bất cứ nhiệt tâm nào dường như các tu sĩ đã đánh mất tinh thần Phật giáo , vì họ có vợ . Mokurai thường xách chổi đuổi những người đàn bà khi ông tìm thấy họ ở bất cứ nơi nào trong ngôi đền của ông . Nhưng Mokurai càng quét đuổi nhiều bà vợ đó chừng nào thì dường nghư họ càng trở lại nhiều chừng ấy .
Trong ngôi đền đặc biệt này , bà vợ của tu sĩ trưởng nổi ghen với sự chăm chỉ và sắc đẹp của Shunkai . Nghe các đệ tử ca ngợi sự hành Thiền trang nghiêm của Shunkai , bà vợ tu sĩ trưởng ngứa ngáy khó chịu . Cuối cùng bà phao đồn về việc Shunkai với một thanh niên bạn . Vì thế Shunka và anh bạn bị trục xuất ra .
Shunkai nghĩ :” Có thể ta đã gây nên một lỗi lầm về chuyện yêu đương , nhưng bà ấy sẽ không thể ở lại ngôi đền đó được , nếu bạn ta bị đối xử quá bất công như thế “’
Ðêm đó , Shunkai mang một thùng dầu hỏa châm kửa đốt rụi ngôi đền đã xây hai mươi lăm năm này .
Sáng hôm sau Shunkai thấy mình bị cảnh sát bắt giữ .
Một luật sư trẻ thích Shunkai và cố gắng giúp nàng được nhẹ tội . Nhưng Shunkai bảo vị luật sư rằng :” Ðừng , đừng giúp tôi làm gì , biết đâu tôi lại quyết định làm một việc gì khác rồi tôi lại ngồi tù nữa . Vô ích “.
Cuối cùng Shunkai bị tuyên án bảy năm tù . Shunkai lại được một cai tù sáu mươi tuổi thả ra vì ông ta cũng say mê nàng .
Nhưng bây giờ người ta xem nàng như một “ con chim tù “. Không ai còn muốn giao kết với Shunkai . Cả đến các Thiền nhân , những người được cho là tin vào sự giác ngộ ngay trong đời này và với thân này , tất cả đều tránh nàng . Shunkai đã nhìn thấy Thiền là một việc và những kẽ theo Thiền là một việc khác hẳn hoàn toàn , Những người thân thuộc của Shunkai cũng không còn gì . Shunkai trở thành người bệnh tật , và yếu đuối . Shunkai gặp một tu sĩ Shinatru , nàng niệm danh hiệu của Ðức Phật A Di Ðà . Shunkai đã tìm được nơi đây một chút an ủi thanh bình của tâm hồn . Shunkai đã qua đời khi nàng còn đẹp tuyệt trần và chưa đầy ba mươi tuổi Shunkai đã viết lại câu chuyện đời nàng trong một sự cố gắng hữu ích để hổ trợ cho chính nàng . Một phần nhỏ câu chuyện này được nàng kể cho một người đàn bà khác ghi lại . Vì thế câu chuyện đã đến tai người dân Nhật . Những người đã từ chối Shunkai , những người đã phỉ báng và oán ghét Shunkai , bây giờ đọc lại chuyện đời Shunkai với những giọt lệ ăn năn
Subscribe to:
Posts (Atom)